Mekong – Cửu Long 2011 Nhìn xa nửa thế kỷ tới

Ngô Thế Vinh

DẪN NHẬP:

Vậy mà đã 54 năm kể từ ngày Liên Hiệp Quốc khai sinh Ủy ban sông Mekong [1957] và cũng đã 16 năm kể từ ngày thành lập Ủy hội sông Mekong [1995]. Trung Quốc đã và đang tiếp tục xây những con đập thủy điện khổng lồ chắn ngang dòng chính thượng nguồn sông Mekong, Thái Lan có kế hoạch chuyển dòng lấy nước từ sông Mekong, và nay lại có thêm dự án 12 con đập hạ lưu.

Đến nay 2011, Trung Quốc đã hoàn tất 4 trong số 14 dự án đập Vân Nam. Con đập thứ 5 Nọa Trác Độ / Nuozhado lớn nhất cũng đang được tiến hành xây cất cùng với con đập thứ 6 Công Quả Kiều / Gongguoqio. Sau con đập Tiểu Loan, chỉ trong vòng 2 năm nữa, , khi con đập Nọa Trác Độ khổng lồ hoàn tất, có thể nói về tổng thể Trung Quốc đã hoàn tất kế hoạch chuỗi đập bậc thềm Vân Nam và làm chủ dòng sông Mekong.

Không có dấu hiệu các dự án xây đập thủy điện trên suốt dọc chiều dài sông Mekong sẽ chậm lại. Tuy chỉ với 4 con đập Vân Nam, các quốc gia hạ nguồn đã bắt đầu chịu những hậu quả “nhãn tiền”: những cơn lũ bất thường trong Mùa Mưa, nhiều khúc sông cạn dòng trong Mùa Khô và nạn nhiễm mặn trầm trọng hơn nơi Đồng Bằng Sông Cửu Long. Ngót 70 triệu cư dân trong Lưu vực Sông Mekong và gần 20 triệu dân vùng ĐBSCL đang và sẽ phải làm gì để thích nghi và sống còn?

Ủy Hội Sông Mekong / MRC đã chứng tỏ vô hiệu và không có một nghiên cứu cụ thể nào về các biến đổi hạ nguồn do tác động từ các con đập Vân Nam. Các quốc gia Mekong không thể trông chờ các hoạt động thiếu hiệu quả của MRC lâu hơn nữa, mà phải tự cứu mình làm các nghiên cứu này, đi tìm những giải pháp và công bố trên các diễn đàn quốc tế.

Và đang có manh nha một sáng kiến từ Hội Sinh thái Việt: tiến tới vận động hình thành một Tổ chức Lancang-Mekong mở rộng với 6 quốc gia bao gồm cả Myanmar và Trung Quốc.

Đó là nội dung của 2 bài viết: một của nhà văn Ngô Thế Vinh, tác giả cuốn Mekong Dòng sông nghẽn mạch, một của Kỹ sư Phạm Phan Long, thành viên sáng lập Hội Sinh thái Việt http://www.vietecology.org .

*

Giấc mộng lớn không thành

Rất sớm từ thập niên 40 thế kỷ trước, các nhà xây đập Mỹ đã quan tâm tới tiềm năng thủy điện của con sông Mekong. Năm 1957, giữa thời kỳ chiến tranh lạnh, với bảo trợ của Liên Hiệp Quốc, một Ủy Ban Sông Mekong [Mekong River Committee] được thành lập bao gồm 4 nước Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Nam Việt Nam với một văn phòng thường trực đặt tại Bangkok. Khi soạn thảo kế hoạch phát triển sông Mekong, Liên Hiệp Quốc đã chia Lưu Vực Lớn sông Mekong [GMS, Greater Mekong Subregion] thành hai tiểu lưu vực cách nhau bởi khu Tam Giác Vàng:

Lưu Vực Trên (Upper Basin) thuộc Vân Nam Trung Quốc.

Lưu Vực Dưới (Lower Basin) thuộc 4 quốc gia hạ nguồn.

Kế hoạch phát triển Lưu Vực Dưới sông Mekong của Liên Hiệp Quốc như một “Giấc Mộng Lớn” đầy tham vọng, nhằm cải thiện cuộc sống cho toàn thể cư dân sống trong vùng hạ lưu.

[Cho dù có một nửa chiều dài sông Mekong chảy qua Vân Nam nhưng Trung Quốc lúc đó còn là một quốc gia khép kín và ít được nhắc tới]. Nhưng rồi, chiến tranh Việt Nam đã lan rộng ra cả ba nước Đông Dương qua hơn ba thập niên, nên kế hoạch xây các đập thủy điện lớn như Pa Mong, Sambor, Khemmerat trên dòng chính sông Mekong vùng hạ lưu, và các chương trình khai thác khác đã phải gián đoạn, khiến cho con sông Mekong còn giữ được sự nguyên vẹn thêm một thời gian nữa.

Vẫn còn những cánh đồng chết

Chiến tranh Việt Nam chấm dứt năm 1975, nhưng vẫn còn một cuộc chiến diệt chủng diễn ra trên Xứ Chùa Tháp. Không có Cam Bốt, một Ủy Ban Mekong Lâm Thời [Mekong Interim Committee] được thành lập [1978], với hoạt động hạn chế. Cũng trong thời gian này, Thái Lan có kế hoạch chuyển dòng sông Mekong nhằm đưa một lượng nước lớn bơm tưới cho vùng đông bắc Thái khô hạn nhưng gặp sự chống đối của Việt Nam. Thái Lan đi tới phủ nhận tính cách pháp lý của Ủy Ban Sông Mekong, viện lý do là tổ chức này đã lỗi thời không còn phù hợp với những thay đổi về chánh trị, kinh tế và xã hội trong vùng. Trong điều kiện phân hóa như vậy, Ủy Ban Mekong lâm thời hầu như bị tê liệt.

Từ Ủy ban 1957 tới Ủy hội sông Mekong năm 1995

Bước vào thời bình, con sông Mekong đã trở thành mục tiêu khai thác của 6 quốc gia trong toàn lưu vực lớn sông Mekong [GMS, còn được gọi là Tiểu Vùng Sông Mekong Mở Rộng]. Cùng là những quốc gia ven sông nhưng mỗi nước lại có những ưu tiên phát triển khác nhau với những quyền lợi đôi khi mâu thuẫn. Do đó, phục hồi một tổ chức điều hợp liên quốc gia tương tự như Ủy ban sông Mekong trước đây là cần thiết.Ngày 05 tháng 04 năm 1995, chỉ có 4 nước hội viên gốc thuộc Lưu vực dưới của Ủy ban sông Mekong đã họp tại Chiang Rai, bắc Thái, để cùng ký kết một “Hiệp ước Hợp tác Phát triển bền vững hạ lưu sông Mekong” và đổi sang một tên mới là Ủy hội sông Mekong [Mekong River Commission] với một thay đổi cơ bản trong Hiệp ước mới này – thay vì như trước đây, mỗi hội viên trong Ủy ban sông Mekong có quyền phủ quyết bất cứ một dự án nào bị coi là có ảnh hưởng tác hại tới dòng chính sông Mekong – thì nay, theo nội quy mới không một một quốc gia nào có quyền như vậy.

Ủy hội sông Mekong gồm 3 cơ cấu: [1] Hội đồng đại diện [cấp Bộ trưởng], [2] Ủy ban hỗn hợp [3], Văn phòng thường trực. Nay có văn phòng đặt tại Vạn Tượng. Khác với tham vọng chiến lược ban đầu của Ủy ban sông Mekong, mục tiêu của Ủy hội sông Mekong có phần khiêm tốn và thu hẹp hơn bao gồm (3):

- Ba chương trình nòng cốt [core programmes]: (a) Chương trình Sử dụng nước; (b) Chương trình Phát triển lưu vực; (c) Chương trình Môi trường.

- Năm Chương trình khu vực [5 sector]: 1/ Canh nông, 2/ Thủy lâm, 3/ Ngư nghiệp, 4/ Giao thông và 5/ Du lịch.

- Một Chương trình yểm trợ [Capacity Building Programme]

Ủy hội sông Mekong được bảo trợ bởi các tổ chức quốc tế, hội tư nhân, các viện nghiên cứu và tổ chức quốc gia. Sau 16 năm hoạt động [1995-2011], Ủy hội chỉ đạt được vài thành quả rất khiêm tốn như đi tới thỏa thuận chia xẻ thông tin giữa 4 nước thành viên, thiết lập đưa vào sử dụng “mạng lưới internet” tiên đoán lũ lụt và theo dõi dòng chảy mùa Khô; và ký kết được một thỏa ước [tháng 4, 2002] nhằm trao đổi rất hạn chế các dữ kiện thủy văn với Trung Quốc v.v. Nhìn chung, thì hiệu năng và uy tín của Ủy hội đã không được đánh giá cao bởi chính các cơ quan bảo trợ và cũng là một thất vọng cho các tổ chức hoạt động môi sinh.

Lưu vực trên – Lancang nghẽn mạch

Lancang Jiang / sông Lan Thương, tên Trung Quốc của con sông Mekong thuộc Lưu vực trên [Upper Basin]. Chiến lược ngăn sông Lan Thương để xây 14 con đập bậc thềm Vân Nam của Bắc Kinh đã có từ thập niên 70. Trong hơn ba thập niên, Trung Quốc đã ào ạt khai thác con sông Lan Thương, bằng cách xây các đập thủy điện khổng lồ chắn ngang dòng chính.

Tuy chỉ mới có 4 con đập hoàn tất [Mạn Loan / Manwan 1,500 MW, Đại Chiếu Sơn / Dachaoshan 1350 MW, Cảnh Hồng / Jinhong1,350 MW, Tiểu Loan / Xiaowan 4,200 MW] trong dự án mười bốn con đập Vân Nam, vậy mà chưa bao giờ trong mùa khô, mực nước con sông Mekong lại có thể xuống thấp đến như vậy [Hình 1]

clip_image002 

Hình 1: 14 con đập Vân Nam

Ở một số nơi, có những khúc sông hầu như cạn dòng và trơ đáy. Nguồn cá và nông nghiệp đã trực tiếp bị ảnh hưởng. Không chỉ đơn giản vì “thiếu mưa”, sự kiện sông Mekong cạn dòng năm 1993 mà không vào mùa khô, trùng hợp với thời điểm Trung Quốc bắt đầu lấy nước vào con đập thủy điện Mạn Loan ngang dòng chính sông Mekong. Để có đủ nước cho 4 đập thủy điện đang hoạt động, Trung Quốc đã thường xuyên đóng các cửa đập khiến mực nước sông đã xuống tới mức thấp nhất. Bắc Kinh đã không cung cấp thông tin về chu kỳ vận hành của các con đập ấy để các quốc gia hạ lưu có thể kịp thời ứng xử và đối phó.

Odd Bootha 38 tuổi, anh lái đò bến Chiang Khong Bắc Thái đã phải than thở: “Nếu Trung Quốc cứ xây thêm đập thì sông Mekong chỉ còn là một con lạch”.

Chainarong Sretthachau, Giám đốc Mạng lưới sông Đông Nam Á [Southeast Asia Rivers Network] cho rằng “Trung Quốc đã có quyền lực để kiểm soát dòng sông Mekong” (2).Do nhu cầu điện của Trung Quốc tăng 5-6% /năm, để đáp ứng tốc độ phát triển kinh tế, với khát vọng vô hạn về năng lượng, không có dấu hiệu nào Trung Quốc sẽ dừng bước hay chậm lại kế hoạch khai thác nguồn thủy điện phong phú của con sông Mekong.

Nhận định về các kế hoạch khai thác sông Mekong của Trung Quốc, Tyson Roberts thuộc Viện nghiên cứu nhiệt đới Smithsonian [Mỹ] đã phát biểu: “Xây các đập thủy điện, khai thông thủy lộ, với tàu bè thương mại quá tải sẽ giết chết dòng sông... Các bước khai thác của Trung Quốc sẽ làm suy thoái hệ sinh thái, gây ô nhiễm tệ hại, khiến con sông Mekong đang chết dần” (3).Với Cam Bốt, trái tim Biển Hồ chỉ còn đập khi con sông Tonle Sap còn duy trì được dòng chảy hai chiều theo mùa. Trong Mùa Mưa, sông Mekong phải đủ nước chảy ngược vào Biển Hồ, như một “điều kiện sống còn” cho nguồn cá và vựa lúa của người dân xứ Chùa Tháp. Nhưng chưa hề có bảo đảm nào cho một tương lai như vậy.

Năm 2005, trước khi bay sang dự Hội nghị thượng đỉnh Côn Minh, Thủ tướng Hun Sen đã công khai lên tiếng ủng hộ Bắc Kinh, đối với kế hoạch khai thác sông Mekong, cho dù điều ấy đi ngược lại ý kiến quan ngại gần như báo động của các chuyên gia bảo vệ môi sinh [AFP, 6/29/2005].

Và chỉ mới đây thôi, tháng 11, 2010, sau Hội nghị thượng đỉnh ACMECS ở Nam Vang, ông Hun Sen lại một lần nữa, đã bác bỏ mọi mối quan ngại về ảnh hưởng của các đập thủy điện trên thượng nguồn đối với dòng chảy sông Mekong. Ông khẳng định chu kỳ lũ lụt hay hạn hán mới đây là hậu quả của thay đổi khí hậu / climate change và khí thải carbon / carbon emissions chứ chẳng liên hệ gì tới chuỗi những con đập thủy điện của Trung Quốc [The Phnom Penh Post, Nov 17, 2010].

Trong khi chính một học giả uy tín Trung Quốc, Giáo sư Tần Huy / Qin Hui thuộc Đại học danh tiếng Thanh Hoa / Tsinghua Bắc Kinh cũng đã phải lên tiếng chỉ trích các ứng xử thiếu trong sáng của Bắc Kinh về các con đập Vân Nam: “Bảo rằng chỉ có 14% lưu lượng nước từ Trung Quốc đổ ra Biển Đông, nhưng với con đập thứ tư Tiểu Loan đã có tới 70% dung tích các hồ chứa nằm trong lãnh thổ TQ – và dung tích ấy sẽ tăng tới 90% khi con đập thứ năm Nọa Trác Độ hoàn tất. Và điều kỳ lạ là các giới chức TQ lại chỉ có nhắc tới 3 hồ chứa nhỏ trên sông Mekong” (9).

Cho dù một đất nước Tây Tạng đang khắc khoải và không có tự do, nhưng Đức Đạt Lai Lạt Ma với tầm nhìn rất xa, đã chọn ưu tiên bảo vệ môi sinh Cao Nguyên Tây Tạng trước cả chánh trị (8). Tây Tạng vẫn được coi như Cực Thứ Ba / Third Pole của toàn cầu, nơi phát sinh những con sông lớn của Châu Á.

Con đập mẹ Tiểu Loan

Con đập vĩ đại Tiểu Loan/ Xiaowan chỉ đứng thứ hai sau con đập Tam Hợp/ Three Gorges Dam lớn nhất thế giới trên sông Dương Tử (1).

Đây là đập thủy điện thứ tư nhưng là một trong hai con đập lớn nhất trong chuỗi 14 con đập bậc thềm Vân Nam [Mekong Cascades] của Trung Quốc trên dòng chính sông Mekong.

Đập Tiểu Loan có 4 đơn vị phát điện với công suất lên tới 4,200 MW [gần bằng tổng số công suất cả ba con đập Mạn Loan, Đại Chiếu Sơn và Cảnh Hồng] [Hình 1].

Tiểu Loan đã là một trong hai con khủng long trên trên thượng nguồn sông Mekong, là con “đập cao nhất thế giới” 292 mét bằng chiều cao của tháp Eiffel. Hồ chứa đập Tiểu Loan như “Con Đập Mẹ / Mother Dam” có chiều dài tới 169 km, diện tích mặt hồ rộng tới 190 km2, dung lượng lên tới 15 tỉ m3 nước lấy từ con sông Mekong. Tổn phí để xây đập Tiểu Loan lên tới trên 4 tỉ $US. Đập Tiểu Loan đã bắt đầu hoạt động từ năm 2010. Tiểu Loan nằm trong chiến lược sản xuất điện của Trung Quốc, hiện nay đã dư dùng cho thủ phủ Côn Minh và các khu kỹ nghệ Vân Nam và nay đã có thể chuyển điện sang các tỉnh cận duyên miền Đông, nối xa tới Thượng Hải.

clip_image004

Tác giả bên đập Mạn Loan. Ảnh: NTV.

Thêm con đập khổng lồ lớn nhất Nọa Trác Độ

Khủng khiếp hơn cả “Con Đập Mẹ” Tiểu Loan, con đập Nọa Trác Độ / Nuozhadu được khởi công từ 2006, phải giải tỏa 24.000 cư dân ra khỏi khu xây đập. Hồ chứa của con đập Nọa Trác Độ, có chiều dài 226 km, dung lượng hồ chứa lên tới 22 tỉ m3, [Tiểu Loan 15 tỉ m3]; 30 lần lớn hơn hồ chứa con đập Tokuyama là đập thủy điện lớn nhất của Nhật Bản, với 9 đơn vị phát điện dự trù hoàn tất vào năm 2014, với tổng công suất lên tới 5.850 MW, tương đương với hơn 5 lò máy hạt nhân lớn / 5 large nuclear reactors. [Chinese dam projects raise alarm in Asia theo Asahi Shimbun, 16/08/2010]

Nọa Trác Độ tuy không cao [261,5 m] như đập Tiểu Loan [293 m] nhưng lại là “con đập lớn nhất” trên dòng chính sông Mekong. Theo Fred Pearce, sau đập Tiểu Loan, và con đập Nọa Trác Độ hoàn tất, sông Mekong sẽ trở thành tháp nước và nhà máy điện của Trung Quốc [Damming the Mekong: Major blow to an Epic River, Yale Environment 360, 22 June 2009].

Theo Hirsch, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu sông Mekong thuộc Đại học Sydney thì: “Hai con đập khổng lồ Tiểu Loan và Nọa Trác Độ sẽ ảnh hưởng trên suốt dòng chảy của con sông Mekong xuống tới tận ĐBSCL của Việt Nam”.

Những tổn thất khác từ phương Bắc

Không chỉ ngăn sông xây đập, chuyển dòng lấy nước, nhưng ai cũng biết là Lưu vực trên sông là vùng động đất. Vào năm 1990, một trận động đất M6 đã xảy ra gần nơi xây đập Tiểu Loan.

Hiroshi Hori là một chuyên gia Nhật Bản, từng làm việc cho Liên Hiệp Quốc trong Ủy ban sông Mekong, là tác giả cuốn sách The Mekong: Environment and Development [United Nations University Press, Tokyo 2000], đã nhận định: “Lưu vực trên của sông Mekong là vùng động đất, với những chuyển động địa chấn đáng kể khiến người ta có lý do để sợ rằng động đất sẽ xảy ra khi xây những con đập” (6). Chính các học giả và chuyên gia môi sinh Trung Quốc cũng đã lên tiếng báo động về nguy cơ vỡ đập này (10).

Thêm nữa, để cho những con tàu trọng tải từ 500 tới 700 tấn chở đầy hàng hóa của Trung Quốc có thể di chuyển từ giang cảng Tư Mao / Simao Vân Nam xuống tới Chiang Khong, Chiang Sean Thái Lan và xa hơn nữa tới tận Luang Prabang và Vạn Tượng của Lào, và trên đường về sẽ chở những khoáng sản và nguyên liệu đáp ứng nhu cầu phát triển kỹ nghệ của Trung Quốc, đã có một kế hoạch có tên là “Dự án cải thiện thủy lộ thượng nguồn sông Mekong / Navigation Channel Improvement Project on the Upper Mekong River” được ký kết vào tháng 04 năm 2001 giữa 4 nước Trung Quốc, Miến Điện, Thái Lan và Lào (không có Cam Bốt và Việt Nam).

Đó là kế hoạch dùng chất nổ / dynamite phá đá trên 21 đoạn ghềnh thác để mở rộng lòng sông Mekong từ Vân Nam xuống tới Lào. Hàng trăm ngàn tấn đá bị chất nổ phá vỡ, được các đoàn tàu vét [backhoe] dồn xuống những hố sâu dưới lòng sông – vốn là nơi trú ẩn có tầm quan trọng “sống còn” đối với vô số loài cá và cũng là nơi lưới cá của cư dân địa phương trong mùa khô.

Dự án phá ghềnh thác ngay bước đầu đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng trên sự cân bằng thủy học, khiến dòng nước chảy nhanh và siết hơn, gây sụp lở bờ sông cùng phá hủy các loại hoa màu trồng ven sông, gây tác hại tức thời trên sinh cảnh và đời sống cư dân các nước Miến Điện, Thái Lan và Lào, chưa kể tới ảnh hưởng dây chuyền trên đời sống cư dân hai nước ở xa dưới nguồn là Cam Bốt và Việt Nam.

Lưu vực dưới – Thái Lan chuyển dòng

Rất sớm từ đầu thập niên 90, Thái Lan đã có hai kế hoạch táo bạo nhằm chuyển dòng lấy nước từ con Sông Mẹ / Mae Nam Khong [tên Lào Thái của con sông Mekong]

– Dự án Kong-Chi-Mun:

Từ 1992, Thái đã có một kế hoạch dẫn thủy lớn lao với tổn phí lên tới 4 tỉ Mỹ kim nhằm lấy nguồn nước từ khúc sông Mekong gần Nong Khai để chuyển về các con đập trên hai con sông Chi và sông Mun qua một hệ thống ống dẫn / aqueduct khổng lồ dài 200 km. Nước sông Mekong sẽ được dùng cho việc “cứu hạn” những cánh đồng lúa nằm trong lưu vực hai con sông này (6).

Dự án KCM, hiển nhiên đe dọa nghiêm trọng trên dòng chảy sông Mekong, nên Việt Nam đã lên tiếng phản kháng. Lào cũng bày tỏ mối quan ngại, vì kế hoạch chuyển nước sẽ khiến con sông cạn dòng gây trở ngại giao thông. Bộ trưởng Môi sinh Cam Bốt, Tiến sĩ Mak Moreth đã báo động về hậu quả nghiêm trọng do dự án chuyển nước của Thái Lan càng làm suy giảm dòng chảy sông Mekong nơi hạ nguồn (6).

– Dự án Kok-Ing-Nan:

Chỉ hai năm sau, từ 1994, Thái Lan có thêm một kế hoạch lớn thứ hai: Dự án Kok-Ing-Nan, lấy nước từ hai phụ lưu lớn của sông Mekong là sông Kok và sông Ing vùng Chiang Rai bắc Thái (7). Đây là một dự án táo bạo, tổn phí lên tới 1.5 tỉ Mỹ kim, nhằm chuyển nước từ hai phụ lưu cho chảy qua những đường hầm / tunnels khổng lồ dài hơn 100 km vào con sông Nan [sông Nan là một phụ lưu của sông Chao Phraya]. Lượng nước từ hai con sông Kok và sông Ing còn được tiếp cho con đập lớn Sirikit, quanh năm thiếu nước. Nước từ hồ chứa Sirikit không chỉ hoạt động phát điện mà còn cung cấp nước tưới cho những cánh đồng bao la vùng châu thổ Sông Chao Phraya đang bị khô hạn, và cả cung ứng nước cho các khu kỹ nghệ và 10 triệu cư dân sống ở thủ đô Bangkok.

Nhưng cho dù ba nước lân bang có lên tiếng phản đối, thì Thái Lan cũng vẫn từng bước thực hiện kế hoạch của mình.

Lưu vực dưới – thêm 12 con đập Mekong

Các dự án đập thủy điện chắn ngang sông Mekong vùng hạ lưu đã có từ thời Ủy ban sông Mekong. Cũng vị trí những con đập ấy đã được các cơ quan tham vấn Canada và Pháp tái đề xuất và Ban Thư ký sông Mekong ấn hành năm 1994. Nhưng rồi các dự án ấy bị tạm gác lại vì quá tốn kém và cả do mối e ngại về tác hại rộng rãi trên môi sinh.

Kể từ đầu năm 2006, các công ty Thái Lan, Mã Lai và Trung Quốc, được phép tiếp tục thực hiện những cuộc khảo sát về tính khả thi của 6 con đập sau đó tăng lên tới 11 rồi 12 con “đập dòng chảy / run-of-river” thuộc Lưu vực dưới; thứ tự 11 dự án đập từ bắc xuống nam:

1/ Đập Pak Beng, Lào 1,320 MW; bảo trợ dự án: công ty “Trung Quốc” Datang International Power Generation Co. và Chánh phủ Lào.

2/ Đập Luang Prabang, Lào 1,410 MW; bảo trợ bởi Petrovietnam Power Co. và Chánh phủ Lào.

3/ Đập Xayabouri, Lào, 1.260 MW, tỉnh Xayabouri, Lào; bảo trợ bởi công ty Thái Lan Karnchang và Chánh phủ Lào.

4/ Đập Pak Lay, Lào, 1,320 MW tỉnh Xayaburi; bảo trợ bởi công ty “Trung Quốc” Sinohydro Co. tháng 6, 2007 để khảo sát của dự án.

5/ Đập Xanakham, Lào, 1,000MW; bảo trợ bởi công ty “Trung Quốc” Datang International Power Generation Co.

6/ Đập Pak Chom, biên giới Lào Thái, 1,079 MW

7/ Đập Ban Koum, biên giới Lào Thái, 2,230 MW, tỉnh Ubon Ratchathani; bảo trợ bởi Italian-Thai Development Co., Ltd và Asia Corp Holdings Ltd. và Chánh phủ Lào.

8/ Đập Lat Sua, Lào, 800 MW; bảo trợ bởi Charoen Energy and Water Asia Co. Ltd. /Thái Lan và Chánh phủ Lào.

9/ Đập Don Sahong 360 MW, tỉnh Champasak, Lào: được bảo trợ bởi Công ty Mã Lai Mega First Berhad Co.

10/ Đập Stung Treng, Cam Bốt, 980 MW; bảo trợ bởi Chánh phủ Nga

11/ Đập Sambor, Cam Bốt; bảo trợ bởi Công ty “Trung Quốc”/ China Southern Power Grid Co./ CSGP.

Bắc Kinh đã sở hữu 14 con đập bậc thềm Vân Nam thuộc Lưu vực trên, nay lại có mặt thêm nơi trong 4 dự án thuộc khu vực Hạ lưu. Riêng Việt Nam do chỉ thấy lợi lộc ngắn hạn, cũng bảo trợ cho dự án đập Luang Prabang 1,410 MW. Với chọn lựa theo “tiêu chuẩn nước đôi ấy / double standard”, Hà Nội sẽ chẳng thể còn kêu ca được gì trước Liên Hiệp Quốc khi nói về tác hại của chuỗi đập Mekong đối với Việt Nam.

Ủy hội sông Mekong thiếu trách nhiệm

Do những lượng giá ảnh hưởng về xã hội và môi sinh của từng con đập không được công khai hóa, đã có nhiều tổ chức hoạt động môi sinh lên tiếng, nêu rõ những tác hại nghiêm trọng và lâu dài trên hàng triệu cư dân sống bằng nguồn nước, nguồn cá của dòng sông Mekong.

Với nhận định MRC đã rất thụ động trước sự tái phục hoạt của các dự án đập thủy điện Hạ lưu. Không những thế MRC đã không có thông báo gì cho cư dân ven sông mối hiểm nguy của những con đập ấy, và cả tránh phổ biến những tin tức bất lợi của các dự án đập. Người ta tự hỏi về tương lai và vai trò tổ chức này có còn hũu ích gì không trong tiến trình bảo vệ dòng sông Mekong?

Các nhà hoạt động môi sinh kêu gọi tinh thần trách nhiệm của tổ chức liên chánh phủ này. “Ủy hội cần chứng tỏ là một tổ chức hữu ích cho quần chúng, chứ không phải là cho các nhà đầu tư,” Surichai Wankaew, Giám đốc Viện Nghiên cứu xã hội Đại học Chulalongkorn, Thái Lan nói tiếp “Nhiệm vụ Ủy hội thay đổi, thay vì ‘tạo thuận/ facilitation’ cho việc xây đập, thì nay phải là ‘diễn đàn / platform’ cho cư dân bị ảnh hưởng nói lên mối quan tâm của họ”. Cũng trước đó, đã có hơn 200 tổ chức môi sinh từ 30 quốc gia yêu cầu Ủy hội và các nhà tài trợ ngưng ngay các dự án xây đập.

Một kháng thư gửi Ủy hội sông Mekong và các cơ quan tài trợ nhân cuộc họp tại Siem Reap vào ngày 15/11/2007: “Chúng tôi, những nhóm công dân viết lá thư này để bày tỏ mối quan tâm về sự tái phục hoạt các chương trình xây đập trong vùng Hạ lưu sông Mekong, cùng với sự bất lực của Ủy hội thực hiện Thỏa ước Mekong 1995 trong tình hình nghiêm trọng hiện nay.

Lẽ ra Ủy hội có thể lên tiếng khuyến cáo ngăn chặn các dự án xây đập của các quốc gia ven sông nhưng họ thì vẫn cứ im lặng một cách đáng ngạc nhiên. Những cuộc khảo sát của các công ty Thái Lan, Mã Lai và Trung Quốc bao giờ cũng nói tới những lợi lộc của các con đập nhưng lại rất ít quan tâm tới ảnh hưởng lâu dài trên sinh cảnh môi trường và trước mắt là hàng bao nhiêu chục ngàn cư dân ven sông sẽ phải di dời tới một nơi và một tương lai vô định.

Mekong là một con sông quốc tế, với nguồn tài nguyên mà tất cả các quốc gia ven sông đều có quyền cùng chia xẻ chứ không chỉ để phục vụ cho các nhóm tài phiệt hay một quốc gia riêng lẻ nào.

Trong cuộc họp tại Siem Reap tháng 11/2007 với tham dự của MRC và các nhà tài trợ bao gồm: Ngân hàng Thế giới /WB, Ngân Hàng Phát triển Á Châu/ ADB, và các quốc gia như Úc, Phần Lan, Pháp, Đức, Hà Lan, Thụy Sĩ và Mỹ. Các nhà tài trợ đã khuyến cáo MRC với ngôn từ mạnh mẽ về: (a) sự cần thiết phải kiện toàn cơ cấu MRC; (b) và cũng đặc biệt quan tâm tới sự thiếu đáp ứng và thiếu khả năng lãnh đạo của MRC đối với những chương trình phát triển trong đó có lãnh vực khai thác thủy điện…

Chúng tôi cũng đặc biệt quan tâm tới thiếu sót là đã không tham khảo quần chúng và các tư nhân đầu tư; cũng như sự thiếu quan tâm tới ảnh hưởng tích lũy của những con đập trên ngư nghiệp và sự an toàn về lương thực trong vùng. Chúng tôi yêu cầu MRC cung cấp thông tin về những phương cách thông báo/ notification, trước giai đoạn tham khảo để đi tới thỏa ước”.

Rõ ràng là sự phê phán từ phía các tổ chức bảo về môi sinh chủ yếu là từ Thái Lan và Cam Bốt [rất tiếc là đã không có Việt Nam], đã khiến các “cơ quan tài trợ xây đập” đầy thế lực như ADB/ Ngân hàng Phát triển Á Châu, WB/ Ngân hàng Thế giới phải chùn bước và cả lắng nghe.

Mt tiến trình không thể đảo nghịch

Xây đập hay không xây đập, câu trả lời đó chỉ là vấn đề thời gian? Rồi ra các nước đang phát triển cũng trở thành những xã hội tiêu thụ, do sự cần thiết đáp ứng nhu cầu về năng lượng điện cho phát triển, có thể dự đoán với xác xuất cao, là chuỗi 12 con đập Lưu vực dưới sông Mekong sớm hay muộn, mau hay chậm cũng sẽ được tiến hành và hoàn tất trong vòng nửa đầu của thế kỷ XXI. Riêng Lưu vực trên, nhưng sớm hơn Trung Quốc sẽ hoàn tất 14 con đập Vân Nam.

Tổng số dự trù sẽ là 24 con đập trên suốt dòng chính sông Mekong. Đó là một tiến trình khó mà đảo nghịch. Cốt lõi của vấn đề là làm sao khai thác thủy điện sông Mekong một cách bền vững / sustainable hydropower development, với những điều kiện khả dĩ tối ưu trong khi hoàn cảnh và nhu cầu mỗi quốc gia trong Lưu Vực thì rất khác. Ví dụ, chỉ riêng nơi Lưu vực dưới, nước Lào cần tận dụng khai thác nguồn thủy điện để xuất cảng lấy về nguồn ngoại tệ nhằm thoát ra cảnh nghèo khó. Xayaburi có thể con đập dòng chính đầu tiên của Lào cho dù được Tổ chức Lượng giá Môi sinh Chiến lược / SEA / Strategic Environment Assessment khuyến cáo là nên hoãn lại mười năm nữa để có thêm thời gian khảo sát. Thái Lan thì luôn luôn cần thêm điện nhưng phải đối đầu với các tổ chức môi sinh và xã hội dân sự rất mạnh nên sẽ chậm hơn. Cam Bốt với chính quyền Hun Sen, bất chấp hậu quả môi sinh, nên sẽ không có một cản trở nào để tiến tới 2 con đập dòng chính Sambor và Stung Treng. Đồng bằng sông Cửu Long với sông Tiền sông Hậu tuy không có tiềm năng thủy điện, nhưng Việt Nam cũng đã tận khai thác các phụ lưu lớn sông Mekong như đập Yali [Gia Lai-Kontum] trên sông Se San, và mới đây là con đập Se San 2, Stung Treng trên lãnh thổ Cam Bốt. [VNEconomyNews.com]

Nhìn xa hơn nửa đầu thế kỷ tới

Đã qua thập niên đầu của thế kỷ XXI, với kỹ thuật cao, với lòng tham của con người, chẳng khó khăn gì để giết chết một dòng sông, hủy diệt cả một hệ sinh thái phong phú nhưng cũng rất ư là mong manh của hành tinh này.

Liệu ai sẽ thực sự trách nhiệm “duy trì dòng chảy tối thiểu” của con sông Mekong trong mùa khô để nước mặn từ ngoài Biển Đông không tiếp tục lấn vào sâu và xa hơn nữa vào ĐBSCL? Cũng như làm sao để có dòng chảy đủ mạnh trong mùa lũ để có nước chảy ngược từ con sông Tonle Sap vào Biển Hồ, để duy trì nhịp đập trái tim của Cam Bốt. Và cho đến nay, không ai có thể đưa ra một lời giải đáp. Một câu hỏi lớn về chức năng của Ủy hội sông Mekong, phải chăng đó chỉ là một tổ chức hữu danh vô thực? Bởi vì Ủy hội chưa hề là một think tank / một trung tâm trí tuệ, chưa hề một tổ chức uy tín có tầm vóc để được coi là đủ sức đối trọng với các tập đoàn tư bản xây đập quốc tế và nhất là với nước lớn Trung Quốc.

Khởi đầu, từ Ủy ban tới Ủy hội sông Mekong, trước sau vẫn là hai tổ chức hình thành bởi 4 nước thuộc Lưu vực dưới sông Mekong. Nay với các kế hoạch khai thác vĩ mô lan rộng suốt chiều dài sông Mekong trên cả hai Lưu Vực, thì những điều lệ và tầm vóc của Ủy hội đã không còn phù hợp tình hình hiện tại. Rõ ràng không thể “dùng thúng úp voi”: con voi ấy là Trung Quốc và cái thúng là tầm vóc của Ủy hội sông Mekong hiện nay.

Do đó đang có manh nha một sáng kiến từ Hội Sinh thái Việt: tiến tới vận động hình thành một Tổ chức Lancang-Mekong mở rộng: LMRC / Lancang-Mekong River Commission với 6 quốc gia bao gồm cả Myanmar và Trung Quốc với những điều lệ mới trong “Tinh Thần Sông Mekong” như một mẫu số chung có thể chấp nhận được bởi mọi phía. Bởi vì một Tổ chức sông Mekong cho dù với danh xưng nào đi nữa mà không bao gồm nửa chiều dài khúc sông Lancang-Mekong thượng nguồn, không có sự tham dự của Trung Quốc như một thành viên chính thức, tổ chức ấy sẽ hoàn toàn vô nghĩa.

Nếu không có một bước ngoặt, một nỗ lực cứu nguy cấp thời, thì trong một tương lai không xa, con sông Mekong-Cửu Long, sẽ chỉ còn là một dòng sông chết, chỉ để sản xuất thủy điện, dùng làm thủy lộ giao thông và tệ hại hơn nữa còn là cống rãnh để đổ xuống các chất phế thải kỹ nghệ từ tỉnh Vân Nam Trung Quốc xuống tới các quốc gia hạ nguồn.

Đồng Tháp Mười, đồng Cà Mau và một xa lộ Mekong

Đã qua rồi từ cuối thế kỷ trước, một thời kỳ “làm chơi ăn thiệt” nơi đồng bằng sông Cửu Long do được thiên nhiên ưu đãi. Nếu biết rằng, nửa sau của thế kỷ XXI này, sẽ không còn một vựa lúa cho cả nước, sông Tiền sông Hậu sẽ là hai con sông chết vì thiếu nguồn nước ngọt do những con đập thượng nguồn nhưng lại dư độ mặn do Biển Đông dâng cao, với hậu quả là sẽ không còn một Nền Văn Minh Miệt Vườn.

Trước kịch bản ấy, câu hỏi đặt ra là, làm gì? Câu trả lời chắc chắn đòi hỏi rất nhiều trí tuệ của một dân tộc, khởi đi từ những ý tưởng mới, từ đó mở ra những cuộc tranh luận.

Học được gì từ Hà Lan Vùng Đất Thấp từ mấy thế kỷ trước với một hệ thống đê đập nhân tạo và thủy lợi nhằm giữ đất và ngăn mặn từ Bắc Hải, cộng thêm với hiệu quả ngăn lũ lụt, tạo thêm đất canh tác. Hiệp hội Kỹ sư Công chánh Mỹ / American Society of Civil Engineers đã vinh danh các công trình của Hòa Lan như một trong bảy kỳ quan của Thế giới.

Học được gì từ con đê biển Saemageum dài nhất thế giới mới đây của Hàn Quốc. Là một bức trường thành dọc theo bờ biển Đông tiếp giáp với Hoàng Hải, chắn ngang hai cửa sông Dongjin và Manggyeong. Dự án được khởi công từ 1991 và hoàn tất 2010, như một kỳ công về xây dựng được coi như một trong những kỳ tích tạo một vùng đất mới / land reclamation lớn nhất, lớn hơn cả công trình Zuiderzee của Hà Lan.

Điều trước tiên học được từ của hai dân tộc một Âu một Á ấy, đó là sự hình thành một “ý tưởng lớn” cùng với ý chí và quyết tâm thực hiện, trong những nghịch cảnh và vị trí địa dư rất khác biệt.

Trong hai bài tới, như một gợi ý, người viết sẽ bàn tới tiềm năng sống còn của đồng bằng sông Cửu Long với hai vùng trũng Đồng Tháp Mười và Đồng Cà Mau như hai hồ chứa nước ngọt lớn (11); và kế hoạch xây dựng một con đê biển chiến lược ngăn mặn như một Xa Lộ Biển Đông. Sẽ không có cái giá để mặc cả và thời gian thì có thể hơn giới hạn một đời người, để bảo vệ vùng đất định mệnh nhưng là một linh địa của dân tộc Việt.

N. T. V.

California, 11-01-2011

Nguồn: Vietecology.org

Tham khảo:

1/ Progress In Water Management at the Mekong River Ba­sin, MRC Presentation at Third WWF, INBO Official Session, Mar 20, 2004

2/ Mekong River At Risk, Barry Wain, FEER, Aug 26, 2004

3/ Chinese Dam Project may spell disaster for mighty Mekong river, Denis Gray, Nov 2, 2002, (AP)

4/ Hunsen backed China’s often-criticized development plans for the Mekong river Phnom Penh, Jun 29, 2005, (AFP)

5/ Chinese Premier Wen Jiabao opened the Second Greater Mekong Subregion Summit, Beijing, Jul 4, 2005, (AFP)

6/ The Mekong, Environment and Development, Hiroshi Hori, United nations, University Press, Tokyo 2000

7/ Kok-Ing-Nan Water Diversion Project, Mekong Watch: Japanese ODA to Thailand,FY 2001

8/ Dalai Lama says prioritise climate change over politics in Tibet; Guardian.co.uk_ The US Embassy cables 10 August 2009

9/ On the Mekong, a better way. Qin Hui, Economic Observer. Where China and the World Discuss the Environment. December 25, 2010.

10/ Chinese environmentalists and scholars appeal for dam safety assessments in geologically unstable south-west China,, Probeinternational.org.

11/ Vùng Đất Ngập Đồng Tháp Mười. Trần Ngươn Phiêu, Thế Kỷ 21 số 219, July 2007

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn