ASEAN và tranh chấp Biển Đông

GS. Baldas Ghoshal

clip_image001

Bài viết của GS. Baldas Ghoshal, Thành viên danh dự của Viện Nghiên cứu Hòa bình và Xung đột (Ấn Độ), nhìn vào cách tiếp cận của ASEAN đối với tranh chấp Biển Đông, kiểm định tính hiệu quả của ASEAN trong việc đối phó với các yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc, bên tranh chấp chính, và đánh giá triển vọng xoa dịu căng thẳng trong khu vực bằng những khuôn khổ pháp lý hiện hành.

Lời giới thiệu

Trọng tâm chính của bài viết là nhìn vào cách tiếp cận của ASEAN đối với tranh chấp Biển Đông, kiểm định tính hiệu quả của ASEAN trong việc đối phó với các yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc, bên tranh chấp chính, và đánh giá triển vọng xoa dịu căng thẳng trong khu vực bằng những khuôn khổ pháp lý hiện hành.

Tranh chấp quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa liên quan đến một số quốc gia thành viên của ASEAN, là Việt Nam, Ma-lai-xi-a, Philippin và Bru-nei.

In-đô-nê-xi-a không phải là một bên yêu sách trong tranh chấp, nhưng có một thời gian dài đóng góp tích cực vào việc thiết lập các phương thức xây dựng lòng tin với mục tiêu giảm bớt căng thẳng và tránh làm bùng phát bất cứ xung đột nào trong khu vực. Tuy nhiên, việc Trung Quốc gộp cả quần đảo Natura vào yêu sách của mình một vài năm trước đây đã khiến người In-đô-nê-xi-a thực sự bị sốc, họ đã tiến hành một cuộc tập trận lớn nhất xung quanh quần đảo Natura trong vòng ba tuần vào tháng 10 năm 1996 với sự góp mặt của hơn 19.000 binh sĩ, 50 tàu chiến và 41 máy bay bao gồm cả máy bay chiến đấu của ba quân chủng.

Những thành viên còn lại của ASEAN dù không có bất kỳ sự liên quan nào đối với tranh chấp nhưng đều quan ngại về Biển Đông như một điểm bùng phát xung đột tiềm tàng ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.

Vì các quốc gia ASEAN tham gia ở mức độ khác nhau vào tranh chấp và do đó lợi ích của họ cũng không tương đồng cho nên không có một cách tiếp cận chung của ASEAN đối với tranh chấp Biển Đông, mặc dù tất cả các quốc gia trong khối đều tán thành ý tưởng xây dựng lòng tin và lôi kéo Trung Quốc tham gia vào việc hạn chế tranh chấp và kiềm chế xung đột trong khu vực.

Thực ra, mặc dù nói là đồng thuận và đoàn kết ASEAN, mỗi quốc gia thành viên đều theo đuổi chính sách riêng của mình, đặc biệt liên quan đến vấn đề Trung Quốc yêu sách gần như toàn bộ Biển Đông. Người ta thậm chí có thể lập luận rằng trên thực tế, các quốc gia ASEAN đã chia rẽ về cách tiếp cận của họ đối với Trung Quốc, cũng như về phương thức nhằm giảm bớt căng thẳng trong khu vực. Mỗi quốc gia thành viên nhìn nhận Trung Quốc từ góc độ lợi ích quốc gia của chính mình – do vậy Trung Quốc được đánh giá như một nguồn lợi ích kinh tế hoặc giả như một mối đe dọa. Kết quả là, vị thế của ASEAN trong vấn đề chiến lược và chính trị so với Trung Quốc là tương đối yếu. Để bù đắp sự yếu kém này, ASEAN thường xuyên sử dụng phương thức ngoại giao và cố gắng quốc tế hóa các vấn đề khu vực nhằm lôi kéo các cường quốc bên ngoài vào để cân bằng với một Trung Quốc đang trỗi dậy mạnh mẽ. Một chiến lược như vậy mang lại cho ASEAN một vị thế ngoại giao cao hơn như trong xung đột Cam-pu-chia trong thập niên 80 và đầu thập niên 90, giúp ASEAN có thể ngăn chặn được căng thẳng khu vực trong ngắn hạn; tuy nhiên ASEAN đã thất bại trong việc che dấu nhược điểm yếu cố hữu của mình trong việc đối phó với bá chủ khu vực - Trung Quốc.

Thứ hai, Trung Quốc hiểu sự chia rẽ của các quốc gia ASEAN trong cách tiếp cận đối với mình và tận dụng triệt để cơ hội này để khoét sâu thêm mâu thuẫn trong hàng ngũ ASEAN. Điều này thể hiện khá rõ từ sự chia rẽ sâu sắc trong quá khứ giữa Philippin và Ma-lai-xi-a về đề xuất Bộ quy tắc ứng xử dành cho các thành viên của ASEAN và Trung Quốc bao gồm một loạt vấn đề từ tìm kiếm và cứu nạn cho tới khảo sát chung ở Biển Đông. Sau nhiều năm tin tưởng rằng không có gì đáng ngại về một Trung Quốc đang trỗi dậy, chính quyền Bắc Kinh quyết đoán hơn gần đây đang thực hiện chiến thuật chia để trị đối với các nước láng giềng ở Đông Nam Á của mình, tìm cách cô lập những bên yêu sách các quần đảo tranh chấp trong một khu vực nhiều dầu và khí đốt. Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì thừa nhận rằng “có những tranh chấp về lãnh thổ và quyền hàng hải” giữa Trung Quốc và một vài quốc gia láng giếng nhưng “những tranh chấp này không nên nhìn nhận như là một tranh chấp giữa Trung Quốc và cả khối ASEAN chỉ bởi vì các quốc gia có liên quan này là thành viên của ASEAN”. Phát biểu đó cho thấy Trung Quốc muốn chia cắt ASEAN thành một bên là các quốc gia có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc tại những đảo nhỏ trên Biển Đông là Philippin, Việt Nam, Bru-nei và Ma-lai-xi-a, và bên kia là các quốc gia không có bất kỳ tranh chấp lãnh thổ nào như In-đô-nê-xi-a Thái lan, Lào, Cam-pu-chia, Mi-an-ma và Xinh-ga-po.

Thứ ba, vì các nước ASEAN không thống nhất trong lập trường của mình đối với Trung Quốc, tất cả các nước này dù là một cách riêng rẽ hay tập hợp đã đi trệch hướng vào các thời điểm khác nhau nhằm cố gắng theo đuổi một chính sách nhân nhượng lợi ích của Trung Quốc về vấn đề này. Trung Quốc chắc chắn có sức ép riêng của mình để đưa ra yêu sách đối với gần như toàn bộ Biển Đông và tiếp tục với “chính sách gặm nhấm dần dần” của mình, nhưng đồng thời cách tiếp cận có phần nhân nhượng của ASEAN có thể đã khuyến khích Trung Quốc theo đuổi điều mà cựu Bộ trưởng quốc phòng Philippin Mercado những năm 90 gọi là chính sách “vừa đàm vừa chiếm”. Thậm chí thành công hạn chế ASEAN đạt được trong việc lôi kéo Trung Quốc tham gia vào các đối thoại khác nhau về vấn đề Biển Đông, như Đối thoại ASEAN – Trung Quốc, Hội thảo Biển Đông do In-đô-nê-xi-a tổ chức và sáng kiến Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), chủ yếu là vì Trung Quốc nhân nhượng các lợi ích thiết thân của ASEAN trong khi bảo lưu các vấn đề liên quan đến chủ quyền quốc gia và không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác. Việc chuyển đổi công thức “quy trình ba bước” (xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa và giải quyết xung đột) vốn được ghi nhận ban đầu trong mục tiêu của ARF để kiểm soát xung đột trong khu vực thành một mục tiêu cuối cùng mập mờ và hạn chế là “tìm hiểu thêm về các cách tiếp cận đối với xung đột” cũng như việc tái định nghĩa phương thức ngoại giao phòng ngừa trong hội nghị Nhóm công tác CSCAP tại Băng Cốc từ tháng 1-3 năm 1999 là những ví dụ minh họa cho thấy những nỗ lực của ASEAN trong việc đáp ứng sự nhạy cảm và lợi ích của Trung Quốc.

Trong bài viết này, chúng tôi muốn lập luận rằng chính sách của ASEAN trong việc lôi kéo sự can dự của Trung Quốc cũng như cách tiếp cận “mềm mỏng” và có phần nhượng bộ của họ đối với vấn đề Biển Đông chỉ đem lại những lợi ích tạm thời ở khía cạnh gác lại tranh chấp, nhưng không có hiệu quả trong việc kiểm soát xung đột hay kiềm chế xung đột leo thang trong tranh chấp ở Trường Sa. Những hành động của Trung Quốc ở Biển Đông trong hai thập kỷ qua chứng tỏ rằng Trung Quốc chỉ nói suông đối với tiến trình xây dựng lòng tin trên biển, điều mà ARF (Diễn đàn khu vực ASEAN), CSCAP (Hội đồng hợp tác an ninh khu vực Châu Á Thái Bình Dương), những tuyên bố và hoạt động ngoại giao khác nhau của ASEAN cũng như những hiệp định song phương với Trung Quốc đang cố gắng để đạt được. Trung Quốc từ lâu vẫn duy trì quan điểm không thỏa hiệp trong vấn đề chủ quyền đối với Biển Đông; nước này cũng không thật sự chân thành trong vấn đề khai thác chung các nguồn tài nguyên trong khu vực.

Căn nguyên của vấn đề là việc chồng chéo của hàng loạt yêu sách chủ quyền đối với hàng trăm hòn đảo và bãi đá. Việc kiểm soát khu vực đó có tác động quan trọng đối với tự do qua lại của tàu thuyền và rốt cuộc, việc triển khai các hoạt động đầu tư vào khí đốt tự nhiên và dầu sẽ không thể được thực hiện cho tới khi các vấn đề chủ quyền được giải quyết. Do đó, các bên tranh chấp đều cố gắng củng cố yêu sách của mình.

Trong 53 đảo ở Trường Sa bị chiếm đóng bởi các bên yêu sách khác nhau, Trung Quốc chiếm 11; Philíppin chiếm 8, Ma-lai-xi-a chiếm 5, Đài loan chiếm 1, số đảo còn lại thuộc về Việt Nam. Các quốc gia yêu sách viện dẫn yếu tố lịch sử, địa lý và Công ước Luật biển của Liên Hiệp Quốc để hỗ trợ cho yêu sách của mình. Các nước yêu sách, dù không thường xuyên, đều cố gắng tăng cường khả năng phòng thủ trên các đảo mà mình chiếm đóng. Khi chưa có bất kỳ một giải pháp toàn vẹn nào, tranh chấp ở Trường Sa cuối cùng có thể sẽ dẫn đến những cuộc xung đột vũ trang, đặc biệt khi kết hợp với các vấn đề trên đất liền.

Tuy nhiên, các nhà phân tích quân sự cho rằng bất chấp sự tăng cường lực lượng đồn trú và triển khai các cơ sở hạ tầng để phòng thủ, không hòn đảo nào ở Trường Sa thực sự có khả năng phòng thủ xét về khía cạnh quân sự. Họ cũng chỉ ra rằng sự phối hợp quân sự giữa mỗi quốc gia yêu sách và các đảo mà họ chiếm đóng có thể bị gián đoạn bởi các vấn đề tiếp vận khá phức tạp. Do đó, việc phòng thủ ở các hòn đảo ở Trường Sa sẽ đặt các quốc gia chiếm đóng trước nhu cầu phải phát triển các năng lực triển khai sức mạnh. Điều này giải thích cho việc tại sao trong những năm gần đây, Trung Quốc đẩy mạnh phát triển năng lực hải quân viễn dương và xây dựng các hạm đội hiện đại phối hợp với các đơn vị trên bộ và trên không để chiến đấu bảo vệ chủ quyền trên biển của mình. Điều đó cũng phần nào giải thích tại sao Trung Quốc, kể từ năm 1994, tiến hành một số cuộc tập trận trên biển mặc dù nhiều lần biểu lộ ý định gác tranh chấp chủ quyền. Đối phó với những động thái này của Trung Quốc, các quốc gia ASEAN, một phần vì cân nhắc đến tình huống khủng hoảng có thể xảy ra do tranh chấp Trường Sa, đã chi tiêu cho quốc phòng và có các hoạt động hợp tác quân sự với phía Mỹ.

Chúng tôi cũng lập luận thêm rằng cách thức kiềm chế Trung Quốc không phải là  bằng việc bộc lộ những yếu kém của ASEAN và nhân nhượng những lợi ích thiết yếu của Trung Quốc ở Biển Đông, mà chỉ có thể là bằng một lập trường thống nhất và kiên định mà đã truyền tải một thông điệp như các ngoại trưởng ASEAN đã từng làm vào ngày 18 tháng 3 năm 1995 sau sự kiện Trung Quốc chiếm đóng Đảo Vành  Khăn bị phát hiện. Chỉ sau khi có tuyên bố đó, phía Trung Quốc đã không những đồng ý giải quyết đa phương với ASEAN mà còn thể hiện một chút linh hoạt đối với vấn đề. Chiến lược Châu Á của Trung Quốc là giải quyết song phương với tất cả các bên để qua đó có thể tối đa hóa lợi thế của một nước lớn trong những mối quan hệ không cân xứng. Nhưng mặt khác, với việc sử dụng lá chắn đoàn kết để thay thế cho sức mạnh quân sự, ASEAN đã buộc Trung Quốc phải giải quyết vấn đề với các thành viên của mình như với cả một khối thống nhất. Đồng thời Trung Quốc chấp nhận một cách tiếp cận mang tính hòa giải hơn. Ví dụ như, tháng 7 năm 1995, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc khẳng định rằng Trung Quốc không có lợi khi cản trở tự do lưu thông hàng hải ở khu vực Trường Sa và cho biết rằng nước này cảm thấy các vấn đề đều có thể được giải quyết mà không cần có trung gian hòa giải hoặc sự can thiệp nào từ bên ngoài. Thời gian sau đó, ASEAN đã không còn thể hiện được sự đoàn kết như trước đây bởi việc xung đột lợi ích quốc gia đã bắt đầu chia cắt ASEAN một lần nữa, đồng thời cuộc khủng hoảng kinh tế ở châu Á gây ra bất ổn trong các quốc gia thành viên cũng như bản thân ASEAN.

Tranh chấp Biển Đông và chiếm đóng dần dần

Trước khi chúng ta đi sâu vào một số điểm đã nêu ở trên cần đề cập ngắn gọn về tranh chấp ở Biển Đông.

Mặc dù Trung Quốc và Việt Nam là những bên tranh chấp chủ yếu trong cuộc chiến giành chủ quyền đối với các đảo cùng các bãi đá và đảo nhỏ ở xung quanh, Philippin sau đó cũng đưa ra yêu sách đối với những hòn đảo giàu tài nguyên này, ngoài ra còn có những bên yêu sách khác như Đài Loan, Ma-lai-xi-a và Bru-nei.

Tuy nhiên, trước những năm 1990, chỉ có Trung Quốc và Việt Nam đã từng đụng độ quân sự trong việc tranh chấp các đảo. Sử dụng các sự kiện lịch sử và những phát hiện khảo cổ để chứng minh cho những yêu sách của mình, hai nước có vụ đụng độ đầu tiên vào năm 1973 [1974] khi Trung Quốc chiếm đóng bằng vũ lực quần đảo Hoàng Sa từ một nước Việt nam Cộng hòa đang rệu rã và yếu kém, đổi tên nó thành Tây Sa và sát nhập vào khu vực đảo Hải Nam. Tiếp theo vào năm 1988, đã diễn ra một cuộc đụng độ hải quân khốc liệt tại Đá Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa. Tàu Trung Quốc đã bắn chìm một số tàu Việt Nam và gần 70 chiến sĩ hải quân Việt Nam đã hi sinh. Một vài năm trước sự kiện này, Trung Quốc phát động một cuộc tấn công trên bộ “để dạy cho người Việt Nam một bài học”. Năm 1992 Trung Quốc cũng đã thông qua luật về lãnh hải và vùng tiếp giáp của mình trong tuyên bố vào tháng 1 năm 1992 trong đó không chỉ nêu ra yêu sách đối với những quần đảo này mà Trung Quốc còn tự cho mình quyền đuổi bắt các tàu thuyền nước ngoài nếu bị bắt gặp vi phạm luật lệ và những quy định của Trung Quốc. Cũng trong năm đó, Việt nam đã cáo buộc Trung Quốc khai thác dầu bởi nước này đã nhượng quyền khai thác cho một công ty thăm dò dầu đến từ Denver, tập đoàn năng lượng Cretonne, trong một khu vực đang tranh chấp quanh Bãi Tư Chính, người Trung Quốc gọi là bãi Vạn An 21 (WAB 21). Thời điểm đưa ra thông báo về việc nhượng quyền của Trung Quốc đối với công ty Mỹ khá quan trọng bởi nó diễn ra cùng lúc khi mà đại diện của quốc gia yêu sách bao gồm những đại biểu từ Trung Quốc và các nước khác đang hội họp tại Jogjakarta dưới sự bảo trợ của Ngoại trưởng In-đô-nê-xi-a, để tìm ra một giải pháp khả dĩ cho vấn đề Biển Đông. Việc này đã khiến một học giả Ma-lai-xi-a bình luận rằng: “Dù hành động đó có ý làm mất mặt một vài bên nào đó hay không, nó đã để lại hệ quả rất xấu trong mối quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc”. Mặc dù phát sinh một số xung đột quân sự trong hai thập kỷ qua, vấn đề yêu sách chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa chưa đạt được bất kỳ kết quả rõ rệt nào. Khi thiếu vắng những đồng thuận khu vực rõ ràng, quy luật xa xưa “chân lý thuộc về kẻ mạnh” dường như đang thắng thế ở Biển Đông.

Việc Trung Quốc xâm phạm khắp Biển Đông dẫn đến xung đột trực tiếp với một quốc gia thành viên không thuộc phe cộng sản của ASEAN là Philippin.

Theo nguồn tin của Philippin, ngày 8 tháng 1 năm 1995, lực lượng vũ trang Trung Quốc được tám tàu chiến yểm trợ đã chiếm Đá Vành Khăn, nằm cách khu vực PhilIppin gọi là tỉnh Palawan 200 km, và cắm cờ Trung Quốc. Tháng 3 năm đó, quân đội Philippin được huy động để đẩy lui và xóa bỏ mọi cột mốc của người Trung Quốc. Năm 1996, một tàu hải quân của Trung Quốc đã đấu pháo với một tàu chiến của Philippin gần đảo Campones. Tháng 4 năm 1997 hải quân Philippin phát hiện một tàu cao tốc và hai tàu cá của Trung Quốc trong khu vực Bãi Cạn Hoàng Nham, nơi mà Trung Quốc đang cố gắng thiết lập các công trình xây dựng. Trong năm 1998 và 1999, việc Trung Quốc một lần nữa xây dựng thêm các công trình trên Đá Vành Khăn đã làm gia tăng căng thẳng trong quan hệ giữa hai nước. Trung Quốc đã bác bỏ kháng nghị ngoại giao của Philippin đối với các hoạt động xây dựng trên đảo, nhấn mạnh rằng đấy là một phần lãnh thổ của Bắc Kinh và đó là công việc sửa chữa đơn thuần nơi trú ẩn cho ngư dân bị hư hại bởi gió biển. Manila khẳng định đảo đá nằm bên trong khu vực đặc quyền kinh tế (EEZ) rộng 200 hải lý của mình theo Công ước Luật biển của Liên hiệp quốc đối với quốc gia quần đảo như Philippin. Khu vực này nằm cách đảo Hải Nam, vùng lãnh thổ gần nhất của Trung Quốc khoảng 1100km. Trung Quốc đang làm mọi cách để giành được đất, cả về mặt thực tế lẫn chính trị, trong cuộc tranh giành Biển Đông.

Do vậy, dường như Trung Quốc đang theo đuổi một chính sách mà rất nhiều người hiện tại có thể mô tả là “gặm nhấm dần dần” – một chính sách từng bước thiết lập sự hiện diện lớn mạnh ở Biển Đông mà không cần đến sự đối đầu quân sự. Chính sách này tiến hành đồng thời hai chiến thuật chủ yếu để đạt được mục tiêu cuối cùng là ưu thế vượt trội ở Biển Đông.

Chiến thuật đầu tiên là sử dụng phương thức ngoại giao trong đó Trung Quốc không ngần ngại nêu lập trường không thay đổi trong chủ quyền của mình đối với Trường Sa và chủ quyền đó không thể mang ra đàm phán, nhưng Trung Quốc cũng sẵn sàng tạm gác vấn đề chủ quyền, hợp tác với các bên yêu sách khác để tìm ra một giải pháp hòa bình cho tranh chấp dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế và cùng khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên với các bên khác.

Chiến thuật thứ hai là sử dụng phương thức thiết lập sự hiện diện trên thực địa hoặc bản đồ đối với khu vực mà Trung Quốc yêu sách là của mình. Điều này bao gồm cắm các cột mốc lãnh thổ và, ở bất cứ nơi nào có thể, chiếm đóng những đảo đá chưa bị kiểm soát và xây dựng các công trình trên đó, giống điều họ đã từng làm trong vụ Đá Vành Khăn năm 1995 và 1999. Những cột mốc và công trình này được biểu thị trên bản đồ Trung Quốc để mô tả đường ranh giới của biển Trung Quốc và được viện dẫn như là điểm tham khảo trong các cuộc đàm phán song phương hoặc đa phương, kể cả trong hội thảo về Biển Đông được In-đô-nê-xi-a tổ chức. Để thể hiện cam kết của mình đối với luật pháp quốc tế, Trung Quốc cũng tuyên bố rằng nước này sẽ tuân thủ Công ước Liên hiệp quốc về luật biển (UNCLOS). Ví dụ, Tuyên bố chung giữa chủ tịch Trung Quốc và những người đứng đầu quốc gia/chính phủ của các nước thành viên ASEAN vào ngày 16 tháng 12 năm 1997 nói rõ “nhận thức rằng việc duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực phục vụ cho lợi ích của tất cả các bên, họ cam kết giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua các phương thức hòa bình, không viện đến đe dọa hoặc sử dụng vũ lực. Các bên liên quan đồng ý giải quyết tranh chấp liên quan đến Biển Đông thông qua phương thức thảo luận và đàm phán thiện chí theo luật pháp quốc tế đã được công nhận trên toàn cầu, bao gồm Công ước Luật biển 1982”. Điều thú vị là, khi bị các nước ASEAN gây sức ép chấp nhận một bộ quy tắc ứng xử để giảm bớt căng thẳng ở Biển Đông, Trung Quốc lập luận rằng tuyên bố chung này thích hợp đóng vai trò như chuẩn mực ứng xử. Tuy nhiên trên thực tế, kể từ năm 1982 Trung Quốc đã theo đuổi chiến thuật thứ hai với việc đặt các cột mốc lãnh thổ và chiếm đóng một số đảo đá.

Cách tiếp cận của ASEAN đối với tranh chấp Biển Đông

Đầu năm 1992, khi Trung Quốc đã là một đối tác đối thoại của ASEAN, ASEAN đưa ra vấn đề về Tuyên bố những quy tắc trên Biển Đông trong đó tổ chức ASEAN– chứ không phải là các quốc gia thành viên – thúc đẩy “tất cả các bên liên quan” có hành động kiềm chế nhằm tạo ra “một môi trường tích cực hình thành giải pháp cuối cùng cho mọi xung đột”.

Mười năm sau đó, năm 2002, Trung Quốc ký,một văn kiện gọi là Tuyên bố về ứng xử giữa các bên ở Biển Đông với một khối ASEAN thống nhất, không phải chỉ riêng với những quốc gia có tranh chấp chưa được giải quyết với Trung Quốc. Kể từ đó, ASEAN và Trung Quốc xây dựng một “Bộ quy tắc ứng xử khu vực trên Biển Đông” nhưng một hiệp định dường như bị né tránh.

Hiện tại, sau 19 năm đối thoại, cho rằng một khối ASEAN thống nhất không tham gia vào tiến trình là không đúng. Hơn nữa, Trung Quốc biết rằng các nước thành viên của ASEAN đã nhất trí rằng trước khi các quốc gia có tranh chấp lãnh thổ gặp gỡ để thảo luận với Trung Quốc về tranh chấp Biển Đông, tất cả 10 quốc gia thành viên sẽ gặp gỡ trước để tìm ra một lập trường chung.

Các thành viên ASEAN nên biết rằng nếu riêng lẻ, sức mạnh của họ không đáng kể nhưng nếu đoàn kết lại thì họ sẽ có một sức mạnh chính trị ghê gớm. Hiệp định ký kết giữa Trung Quốc và ASEAN trong năm 2002 đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Năm ngoái, sau hội nghị thường niên của Diễn đàn khu vực ASEAN, với sự tham dự của các Ngoại trưởng từ 27 quốc gia, một tuyên bố được đưa ra trong đó các bộ trưởng “tái khẳng định tầm quan trọng của Tuyên bố cách ứng xử của các bên trên Biển Đông năm 2002 như là văn kiện mang dấu mốc quan trọng giữa ASEAN và Trung Quốc”. Bất chấp dấu ấn mang tính lịch sử này, Ngoại trưởng Trung Quốc nhấn mạnh trong khi phản đối Bà Hillary Clinton rằng “Những quốc gia ASEAN không có yêu sách cho phía Trung Quốc biết rằng họ không phải là một phần của tranh chấp, họ không chọn bên và hy vọng rằng những tranh chấp này sẽ được giải quyết thông qua đàm phán song phương giữa các nước có liên quan”. Điều này giống như Trung Quốc đang cố gắng hướng một số nước thành viên của ASEAN chống lại chính tổ chức khu vực của mình, và chia cắt ASEAN thành hai khối.

Một khi các quốc gia ASEAN nhận ra rằng Trung Quốc đang quá khẳng định cái mà nước này mô tả là “lợi ích cốt lõi” và gộp cả Biển Đông vào trong đó thì họ sẽ không thờ ơ thêm nữa trước những vấn đề đang phá vỡ mối quan hệ của mình với Trung Quốc.

Trước tiên, Ma-lai-xi-a và Việt Nam đưa ra một bản đệ trình chung vào mùng 6 tháng 5 năm 2009. Việt Nam đưa ra một bản đệ trình bổ sung vào mùng 7 tháng 5 năm 2009. Trung Quốc phản đối những bản đệ trình này. Philippin phản đối bản đệ trình của Ma-lai-xi-a và Việt Nam, đưa ra một bản đệ trình một phần về một khu vực bên ngoài Biển Đông, cho rằng luật về đường cơ sở của mình phù hợp với các điều khoản của UNCLOS về đường cơ sở quần đảo. Trung Quốc và Bru-nei đã đệ trình thông tin sơ bộ. Bản đệ trình chung của Ma-lai-xi-a và Việt Nam kiến nghị rằng hai nước này có lập trường rằng quyền chủ quyền đối với những nguồn tài nguyên ở Biển Đông nên được xác định theo những nguyên tắc điều chỉnh thềm lục địa được tính từ bờ đất liền. Bằng cách không tính thềm lục địa hay khu EEZs của họ từ bất kỳ hòn đảo nào mà họ yêu sách trên Biển Đông, trên thực tế họ giữ lập trường rằng không hòn đảo nào ở Biển Đông được quyền có chiều rộng quá 12 hải lý – khoảng cách tối đa được cho phép theo UNCLOS. Thứ hai, các nhà lãnh đạo ASEAN đã vận động rất tích cực đối với phía Mỹ trong việc đảm nhận một vai trò tích cực trong việc duy trì an ninh cho các tuyến lưu thông hàng hải trên Biển Đông và do đó cũng là an ninh cho khu vực.

Sự quyết đoán của Trung Quốc và nỗ lực quốc tế hóa tranh chấp của ASEAN

Tranh chấp giữa Trung Quốc và ASEAN bùng phát công khai sau khi Ngoại trưởng Mỹ Bà Hilary Clinton, trong hội nghị thường niên của Diễn đàn khu vực ASEAN với sự tham dự của 27 quốc gia, bày tỏ sự ủng hộ của Mỹ đối với “quá trình ngoại giao hợp tác của tất cả các bên yêu sách nhằm giải quyết các tranh chấp lãnh thổ khác nhau trên tinh thần tự nguyện”. Kết quả là, rõ ràng có nhiều quốc gia, trong và ngoài ASEAN, hoan nghênh vai trò của Mỹ trong việc tạo ra đối trọng với Trung Quốc. Những nước phát biểu về vấn đề này không chỉ là những nước có yêu sách mà còn có cả các nước khác, như In-đô-nê-xi-a, Nhật Bản và Úc.

Việc khẳng định rằng tranh chấp của Bắc Kinh chỉ với một số nước thành viên thay vì với cả khối ASEAN là rất khó phù hợp với những ghi nhận trong các văn kiện nêu trên. Trong khi yêu sách chủ quyền đối với gần như toàn bộ Biển Đông, Bắc Kinh đã đề xuất giải pháp hòa hoãn đối với tranh chấp thay vì thảo luận về khai thác chung các nguồn tài nguyên dưới biển. Để xoa dịu những quan ngại của khu vực, Trung Quốc đã ký một hiệp định bế tắc gọi là Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông với cam kết kiềm chế trong các hành động. Mục đích của việc làm này để hướng sự chú ý đi xa khỏi nỗ lực của Trung Quốc trong việc tăng cường kiểm soát quân sự đối với các vị trí mà nước này chiếm đóng và mở rộng đường ranh giới trên thực tế bằng việc ngăn cản các nước láng giềng đánh bắt cá trong các vùng biển tranh chấp hoặc khoan dầu ở vùng biển rất xa Trung Quốc. Trong năm 2007 và 2008, nước này thậm chí ngăn cấm BP và Exxon Mobil khoan dầu trong vùng biển ngoài khơi của Việt Nam. Trung Quốc thực hiện yêu sách bành trướng của mình đối với Biển Đông ở mức độ cao hơn bằng việc thách thức (năm 2009) một tàu khảo sát của hải quân Mỹ, tàu Impeccable, cách bờ biển của đảo Hải Nam Trung Quốc 75 dặm, mở rộng trên thực tế lãnh hải 12 hải lý của mình ra vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) 200 dặm. Phía Mỹ cho rằng theo Luật biển của Liên hiệp quốc, tàu hải quân của nước này có quyền tự do lưu thông qua vùng EEZ. Vào tháng ba, Trung Quốc nói với các quan chức cấp cao của Mỹ rằng chủ quyền của họ đối với Biển Đông là không phải bàn cãi và là một trong những vấn đề cốt lõi không được phép thỏa hiệp.

Sự khẳng định chủ quyền ngày càng tăng của Trung Quốc, cùng với việc tăng gấp đôi ngân sách quốc phòng càng làm gia tăng sự lo ngại ở Đông Á. Được khuyến khích bởi lợi ích mới mà chính quyền Obama đưa ra, các quốc gia trong khu vực đã lặng lẽ vận động Washington giữ một vai trò tích cực đối với các vấn đề của khu vực. Một phần bởi sự thúc giục từ ASEAN, phía Mỹ đã nối lại tiếp xúc với Mi-an-ma trong một thỏa thuận để thuyết phục nước này hướng tới cải cách dân chủ và thoát hẳn khỏi vòng tay của Trung Quốc. Kể từ khi giữ vai trò chủ tịch luân phiên ASEAN mùa hè năm ngoái, Việt nam đã có những cố gắng liên tục trong việc thu hút sự chú ý của Mỹ đối với mối đe dọa từ quyền lực Trung Quốc đang trỗi dậy ở Biển Đông; Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a, Philippin cũng bày tỏ những quan ngại của mình với Washington. Một số nhà lãnh đạo Đông Nam Á tham dự hội nghị thượng đỉnh về An ninh Hạt nhân tại Washington tháng 3 năm 2010 đã tổ chức những cuộc hội đàm với Tổng thống Barack Obama và các quan chức cấp cao khác để bày tỏ những quan ngại của mình. Thượng nghị sĩ John Kerry, chủ tịch Ủy ban Quan hệ Đối ngoại của Thượng Viện, bày tỏ một cách công khai với Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng, người cũng tham gia cuộc gặp với Obama, rằng “Chúng tôi sẽ theo sát vấn đề một cách nghiêm túc. Nó liên quan trực tiếp đến tự do lưu thông hàng hải tại khu vực”.

Kết luận

Những phân tích được đề cập ở trên cho thấy chính sách của ASEAN trong việc lôi kéo sự can dự của Trung Quốc và kìm chế cách hành xử của nước này ở Biển Đông chỉ thành công hạn chế trong phạm vi tạm gác lại xung đột. Cho đến nay, không một cơ chế nào trong ba cơ chế mà ASEAN áp dụng để chế ngự Trung Quốc – Đối thoại ASEAN – Trung Quốc, Hội thảo Biển Đông và ARF, mang lại một kết quả rõ ràng cho việc giải quyết vấn đề đã gây ra những căng thẳng trong khu vực. Như chúng tôi đã đề cập ở phía trên, căn nguyên của vấn đề là Trung Quốc và sự quyết đoán dần dần của nước này ở Biển Đông. Mục tiêu chính của ASEAN là khuyến khích Trung Quốc đồng ý giải quyết các tranh chấp một cách hòa bình và không chiếm đóng thêm các bãi đá và đảo ở khu vực tranh chấp Trường Sa. Đến nay, Trung Quốc chỉ nói suông với cả hai cam kết này. Nước này sử dụng cả phương thức ngoại giao và chiếm đóng thực địa để đẩy mạnh mục tiêu của mình ở Biển Đông. Trong khi thảo luận với ASEAN, nước này cũng đã chiếm các bãi đá và đảo ví dụ như Đá Vành Khăn. Với các quốc gia ASEAN, cách hành xử của Trung Quốc rõ ràng đã gây ra lo ngại, nhưng đồng thời, họ lại đi trệch hướng nhằm đáp ứng những lợi ích và quan ngại của Trung Quốc. Quả thực, phần lớn các đối thoại ASEAN – Trung Quốc hoặc những tương tác chỉ có thể thực hiện được dựa trên các điều khoản của Trung Quốc. Điều này, như chúng ta đã lập luận ở trên, cơ bản là vì sự yếu kém của ASEAN so với Trung Quốc, về mặt quân sự và mặt khác. Chúng tôi cũng tranh luận thêm rằng cách tiếp cận hiện nay của ASEAN đối với Trung Quốc là quá mềm mỏng và yếu ớt. Trung Quốc hiểu điều này rất rõ và đã theo đuổi mục tiêu của mình mà không bị ngăn cản. Trong khi thể hiện ra bên ngoài hình ảnh của một quốc gia biết lẽ phải và một người bạn quốc tế có trách nhiệm, Trung Quốc không thỏa hiệp về các vấn đề mà nước này coi là thiết yếu đối với lợi ích quốc gia. Vấn đề quần đảo Trường Sa là một trong lợi ích thiết yếu như vậy. Thay đổi trong văn hóa chính trị nội bộ của Trung Quốc và môi trường quốc tế có thể đã mang đến sự thay đổi trong lập trường của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa, nhưng nhân tố quyết định cho sự thay đổi đó phải là sự thống nhất của chính ASEAN và một lập trường được xác định rõ ràng hơn nữa đối với vấn đề như họ đã từng làm vào tháng 3 năm 1995, ngay sau khi xảy ra sự kiện Đá Vành Khăn, và điều đó cũng đã lẫn đến tuyên bố của Bà Hilary Clinton tại hội nghị ở Hà Nội năm 2010. Giọng điệu hòa giải mà Trung Quốc thể hiện lúc đó là kết quả của một tuyên bố chung như vậy và của việc quốc tế hóa vấn đề.

Vấn đề đặt ra hiện nay đối với ASEAN không phải là đối đầu hay làm ngơ với Trung Quốc mà tốt nhất là làm sao điều chỉnh mối quan hệ giữa ASEAN với Trung Quốc để yếu tố đe dọa trong việc mở rộng địa kinh tế của Trung Quốc bị loại bỏ hay ít nhất là giảm xuống một mức có thể chấp nhận hơn cũng như những khía cạnh tích cực trong mối quan hệ giữa hai bên được thực hiện mang tính xây dựng hơn và làm lợi cho tất cả. Vẫn chưa thể chắc là chiến thuật của ASEAN trong việc lôi kéo sự tham gia mang tính xây dựng của Trung Quốc có thành công hay không. Tuy nhiên trong lúc này, sẽ là hy vọng hão nếu cho rằng Trung Quốc một ngày nào đó có thể bị áp đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ. Trong khi không có bất kỳ lựa chọn khả thi nào khác, đây là một lựa chọn tốt nhất cho ASEAN để giải quyết thế tiến thoái lưỡng nan về an ninh của mình trước một Trung Quốc đang hồi sinh và tràn đầy tự tin. Tuy nhiên, một chiến thuật như vậy sẽ đòi hỏi ASEAN đóng một vài trò mang tính xây dựng trong mối quan hệ giữa Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Trung Quốc, những cường quốc chủ chốt sẽ quyết định tương lai của Châu Á – Thái Bình Dương. Chỉ bằng cách duy trì sự cân bằng thận trọng trong quan hệ của mình với những cường quốc trên thì ASEAN mới có thể đóng một vài trò hữu ích trong ngoại giao khu vực và tạo ra một không gian trong đó các quốc gia thành viên có thể theo đuổi công cuộc phát triển kinh tế và chính trị của riêng mình trong một trường hòa bình và ổn định. Mối quan hệ thân thiết của ASEAN với Ấn Độ có thể là nhân tố duy trì ổn định đặc biệt. Trên tất cả, chính sự đoàn kết của ASEAN sẽ không chỉ quyết định vị thế ngoại giao trong tương lai của cả khối, mà còn quyết định khả năng của ASEAN trong việc đối phó với một Trung Quốc quyết đoán./.

B.G.

Tuấn Anh (dịch)

Đỗ Thủy (hiệu đính)

Tham luận của TS. Baladas Ghoshal tại Hội thảo Quốc tế “Triển vọng Hợp tác trong các vấn đề ở Biển Đông - Prospects of Cooperation and Convergence of the Issues and Dynamics in South China Sea” ngày 31 tháng 5 năm 2011, tại Jakarta, Indonesia do Trung tâm Nghiên cứu chiến lược Châu Á, Jakarta tổ chức.

Bản gốc tiếng Anh ASEAN and the South China Sea Dispute

Nguồn: nghiencuubiendong.vn

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn