Nguyễn Huệ Chi
Chúng tôi xin đăng bài dưới đây của GS Nguyễn Huệ Chi để chấm dứt một cuộc tranh luận đã dài trên chủ đề này; thông tin và luận cứ của hai bên đã đầy đủ và công khai trên mạng. Mặt khác chúng tôi hy vọng ông Boristo Nguyễn và báo VN TP HCM đủ tự trọng để không còn làm những việc như lợi dụng sự kiện thiền sư Thích Nhất Hạnh vừa trở về chùa cũ tĩnh dưỡng, để tuyên truyền cho những ý đồ phi học thuật đã cũ của mình. Diễn Đàn |
I
Bài “Có phải GS Nguyễn Huệ Chi tìm ra tên của Tuệ Trung Thượng sĩ là Trần Tung” của Boristo Nguyen công bố trên Văn nghệ TP HCM ngày 1-12-2018 trước sau chỉ nhằm mục đích tố cáo tôi lấy cắp công lao của Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong việc phát hiện ra người mang pháp danh Tuệ Trung Thượng sĩ đời Trần chính là Trần Quốc Tung, không phải Trần Quốc Tảng như ý kiến của Bùi Huy Bích trong Hoàng Việt văn tuyển. Nhưng muốn làm được điều đó thì không thể đi lại con đường Nguyễn Hòa đã đi, vốn đã bị Đặng Văn Sinh bác bỏ một cách thuyết phục (xem đây). Lần này phải làm sao “nói có sách mách có chứng”, chỉ một cú nhấp chuột “xong” ngay! Vốn học về khoa học tự nhiên (như ông từng cho biết), Boristo Nguyen bèn sử dụng tay nghề có sẵn, đưa ra một bài toán thống kê và loại trừ, bày trước mắt người đọc 4 văn bản, hoặc dịch hoặc phỏng dịch toàn văn hoặc một phần bài Thượng sĩ hành trạng mà cả Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tôi đều nhất thiết phải dùng đến. 4 văn bản đó là: 1. Bản dịch đầy đủ của Thiền sư Thích Thanh Từ, 1996; 2. Bản dịch đầy đủ của Đỗ Văn Hỷ và Nguyễn Huệ Chi trong Thơ văn Lý-Trần Tập II thượng, 1989; 3. Những đoạn trích dịch và phỏng dịch của Thích Nhất Hạnh (Nguyễn Lang) trong Việt Nam Phật giáo sử luận I, 1973; 4. Những đoạn trích dịch và phỏng dịch của Nguyễn Huệ Chi trong bài Trần Tung một gương mặt lạ trong làng thơ thiền thời Lý-Trần in trong Văn học Việt Nam Cổ cận đại - Từ góc nhìn văn hóa đến các mã nghệ thuật, 2013. Hai văn bản trên được xem như “bàng chứng” soi tỏ hai văn bản dưới, để từ đó có cơ sở so sánh và nhận định. Quả hết sức chỉn chu. Cuối cùng, sau khi đối chiếu, sàng lọc kỹ lưỡng, ông chọn được một đoạn theo ông có ba câu “giống nhau như đúc” (chúng tôi tô đậm ở dưới) giữa bản của Thích Nhất Hạnh và bản của tôi:
Thích Nhất Hạnh (Nguyễn Lang): “Hồi em gái Tuệ Trung Hoàng hậu Thiên Cảm còn sống, một hôm ông được bà mời vào cung ăn tiệc. Trên bàn có những món mặn và món chay, ông đã gắp thức ăn một cách không phân biệt. Hoàng hậu hỏi: “Anh tu thiền mà ăn thịt ăn cá thì làm sao mà thành Phật được?”. Ông cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh; anh không cần thành Phật. Phật không cần thành anh. Em chẳng nghe cổ đức nói ‘Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát’ đó sao?” [tr. 276]
Nguyễn Huệ Chi: “Một lần, Hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm, vợ Trần Thánh Tông, mời ông anh Tuệ Trung vào cung ăn tiệc. Trên bàn tiệc có cả cỗ mặn lẫn cỗ chay. Thấy anh mình trong bữa ăn quên cả kiêng khem mà nhúng đũa cả vào cỗ mặn một cách phóng túng, Hoàng hậu khẽ nhắc ông: “Anh tu thiền mà ăn thịt cá thì làm sao thành Phật được?”. Tuệ Trung Thượng sĩ cả cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh; anh không hề muốn làm Phật, Phật cũng không hề muốn làm anh. Em chẳng nghe cổ đức có nói: Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát, đó sao?” [tr. 375]
Thế là ông reo lên: Eureka, bắt tận tay day tận trán đây rồi. Sau khi đưa ra ba nhận xét: 1. Trường hợp dùng tên Nguyên Thánh Thiên Cảm giống nhau ở câu mở đầu (trong khi nguyên văn là Thái hậu) “có thể gây nghi vấn là Nguyễn Huệ Chi chịu ảnh hưởng của Nguyễn Lang” nhưng “chỉ là nghi vấn chứ chưa đủ để chứng minh”; 2. Câu “Anh tu thiền mà ăn thịt cá thì làm sao mà thành Phật được?” “giống nhau gần như đến từng chữ, từng từ” và câu chữ trong đó lại khác với 2 bản bàng chứng; 3. Hai câu nữa: “Phật là Phật, anh là anh; anh không hề muốn làm Phật, Phật cũng không hề muốn làm anh.Em chẳng nghe cổ đức có nói: Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát, đó sao?” “gần như giống nhau hoàn toàn”, riêng câu cuối thì 2 bản bàng chứng cũng dịch y như vậy. Kết luận:
“Cả 3 loại nhận xét này đều nói lên việc người đi sau đạo của người đi trước, tức là Nguyễn Huệ Chi [1977] đạo của Nguyễn Lang [1973]. Tình cờ trùng nhau 1 câu, 1 chỗ xác suất đã nhỏ; “ý tưởng lớn” gặp nhau nhiều lần thì xác suất vô cùng nhỏ, hầu như là không thể!
Mà việc đạo văn của Nguyễn Huệ Chi cũng đồng nghĩa với việc ông ăn cắp kết quả của Nguyễn Lang và gán cho mình!
Sau những phân tích ở trên, liệu các bạn đọc có còn tin là Nguyễn Huệ Chi đã tự mình phát hiện Tuệ Trung thượng sĩ là Trần Tung nữa không? Còn tôi, tôi không tin!” (tôi bôi đậm để bạn đọc đọc cho rõ - NHC).
Thật là chặt chẽ. Bản án khép lại, bị cáo chẳng còn tài nào xoay trở. Cứ để cho ông Boristo Nguyen mừng.
Ta hãy trở lại từ đầu cho mạch lạc. Trước hết, ở đầu bài viết, Boristo Nguyen có một nhận định cần được cải chính. Ông viết: “Năm 1977, tức 4 năm sau [Nguyễn Lang], trong Thơ văn Lý-Trần (quyển I, trang 113-115, Phần khảo luận) và trong bài viết Trần Tung một gương mặt lạ trong làng thơ Thiền thời Lý-Trần Nguyễn Huệ Chi công bố mình đã độc lập tìm ra Trần Tung (bớt một chữ Quốc) chính là Tuệ Trung Thượng Sĩ. Nếu đúng Nguyễn Huệ Chi tự mình tìm ra Trần Tung thì việc này xảy ra sau 4 năm”. Với người bình thường, xét trên hình thức, ông nói thế không sai. Sách Thơ văn Lý-Trần Tập I đúng là in xong năm 1977, và bài viết của tôi trên Tạp chí Văn học cũng ra đời cuối tháng Tám năm đó. Nhưng đừng cố ý đánh đồng hai chuyện lại. Đối thoại với nhau trên tinh thần cốt tìm ra chân lý thì không ai phớt lờ một sự thực mà Đặng Văn Sinh đã tìm hiểu nghiêm túc và chỉ dẫn đến nơi đến chốn: tuy sách Thơ văn Lý-Trần Tập I in xong năm 1977 nhưng thực tế nó đã hoàn thành nhiều năm trước, bởi bản thảo phải trải qua nhiều khâu duyệt, khoảng cuối năm 1973 được Viện Văn học đưa sang NXB KHXH, NXB này lại đưa cho Viện Sử học đọc, đến giữa 1974 mới chuyển tới Nhà in Thống nhất. Tiếp đó đến khâu xin chữ Hán và xếp chữ Hán cực kỳ vất vả của Nhóm soạn giả cùng với công nhân xếp chữ tiếng Việt, ròng rã gần 4 năm. Phần viết 2 trang rưỡi về Trần Tung và Thượng sĩ ngữ lục trong Khảo luận của tôi cũng in đầy chữ Hán giản thể, chứng tỏ nó đã xong cùng toàn bộ bản thảo một lần. Không thể giả thiết 2 trang rưỡi này “chèn thêm vào sau” vì: 1. Chữ Hán giản thể là xin của báo Tân Việt Hoa thuộc ĐSQ Trung Quốc giữa 1974. Sau 1975, khi Khmer Đỏ trở về Campuchia và gây rối biên giới Việt Nam kể từ ngày 2, nhất là ngày 4-5-1975 đánh chiếm ngay đảo Phú Quốc, thì quan hệ với ĐSQ Trung Quốc trở nên căng thẳng, cán bộ bình thường đến đó giao thiệp không được nữa nếu không có lệnh từ cấp cao. Muốn xin chữ Hán tất nhiên cũng bó tay. 2. Sách in hiện đang còn, cứ nhìn chữ in không xộc xệch, không hàng nào xô lệch đến mất cân đối thì biết, khó có một người nào đủ khả năng phù phép để nhét thêm 2 trang rưỡi vào cho 632 khuôn chì đã xếp chữ gần như trọn vẹn, chuẩn bị đưa lên máy in, trừ phi tháo dỡ hết cả ra (phần Khảo luận của tôi lại nằm ở ngay đầu). Hãy thanh thỏa với nhau chuyện ấy cho gọn đi.
Chớ nghĩ tôi đánh trống lảng. Tôi nói thế là nói một sự thực để cho phân minh: có hai mốc khác nhau trong việc tôi chứng minh Tuệ Trung Thượng sĩ chính là Trần Tung. Mốc trước khi đưa NXB gồm 2 trang rưỡi trong Khảo luận Thơ văn Lý-Trần Tập I (TVLT I) là bước một, tôi khảo sát những nguồn tài liệu có khác với Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận Tập I (VNPGSL I): hai bản in của sách Thượng sĩ ngữ lục vào hai thời điểm 1683 “do Tuệ Nguyên đề tựa” (ký hiệu A.1932), và 1903 “do Thanh Cừ cho khắc” (A. 2048), cùng với 4 sách Hoàng Việt văn tuyển, Đại việt sử ký toàn thư, An Nam chí lược, Nguyên sử. Trong khi đó Nguyễn Lang khảo sát bản in Thượng sĩ ngữ lục năm 1943 “của [Tổng] hội Phật giáo Bắc Kỳ, căn cứ trên một bản in cũ năm 1903 do sa môn Thanh Cừ chùa Pháp Vũ thực hiện” (VNPGSL I, 1973, tr. 280), cùng với nó là Hoàng Việt văn tuyển và Đại Việt sử ký toàn thư.
Từ 3 nguồn tài liệu mà Nguyễn Lang khảo sát, ông đi đến cái tên Trần Quốc Tung, một dự đoán tài tình, hiếm người có được, nhưng tên Trần Quốc Tung thì tìm khắp trong 3 tài liệu ấy đều không có, chỉ có độc một chữ Tung đứng sau tước Hưng Ninh vương trong Đại Việt sử ký toàn thư. Về phía tôi, thông qua 6 nguồn tài liệu đã dẫn, tôi tìm ra đích xác tên Trần Tung gắn với mấy chữ Hưng Ninh vương in rõ rệt trong 1 tài liệu. Tuy vậy, ở kết luận, thái độ của tôi tỏ ra có chút dè dặt, vì một vài vướng mắc bấy giờ chưa thể giải quyết: Trần Tung có phải thực là con cả Trần Liễu hay không và Trần Tung tham gia việc nước đến thời gian nào thì chuyển hẳn sang tu Thiền?
“Tóm lại, mặc dầu còn phải tìm hiểu thêm điểm này điểm kia, ta vẫn có thể chính thức gạt bỏ một nhầm lẫn đã tồn tại từ lâu đến nay là đem Thượng sĩ ngữ lục gán cho Trần Quốc Tảng. Mặt khác, ta cũng có nhiệm vụ phải khôi phục dần tên tuổi, sự nghiệp cho chính tác giả thực của tác phẩm đó. Đó là Trần Tung 陈嵩 (1230-1291) bác ruột Trần Quốc Tảng” (TVLT I, tr. 115).
Nguyễn Lang không như tôi, khẳng định rất chắc chắn, có lẽ dựa trên sự linh cảm khác thường: “Sách Hoàng Việt Văn Tuyển nói Tuệ Trung Thượng Sĩ là Hưng Ninh Vương Trần Quốc Tảng, con lớn của Trần Hưng Đạo. Sự thực thì tuy Tuệ Trung Thượng Sĩ có tước hiệu là Hưng Ninh Vương nhưng ông không phải tên là Trần Quốc Tảng, cũng không phải là con Trần Hưng Đạo. Ông là anh cả của Trần Hưng Đạo và tên ông là Trần Quốc Tung” (VNPGSLI, 1973, tr.273). Ở dưới chú thích, ông dẫn câu trong Đại Việt sử ký toàn thư nói về Hưng Ninh vương Tung và sự phân tích chủ yếu của ông hầu như cô lại trong chừng ấy.
Vậy là đối tượng khảo sát khác nhau (bản 1683 đối chiếu với bản 1903 / và bản 1943), cách tiếp cận vấn đề khác nhau (một bên là văn bản học / một bên có khảo chứng sơ sơ nhưng sử Phật giáo mới là chính yếu), số lượng nguồn tài liệu soi sáng khác nhau (một bên 6 / một bên 3), và trình tự luận giải cũng khác nhau, kết quả của tôi ngay trong bước một đã không đồng nhất với Nguyễn Lang (NHC: Trần Tung / NL: Trần Quốc Tung). Không thể phủ nhận sự thực đó theo kiểu viết đánh lừa độc giả rất khôn của Boristo Nguyen mà tôi thừa biết.
Chỉ đến mốc 1977 là bước hai, tôi mới tiếp tục khai triển đầy đủ và đẩy đến tận cùng những luận điểm đã đạt được ở Khảo luận, do đó không còn giữ thái độ dè dặt như trước mà có kết luận rõ ràng; nhưng cơ bản vẫn thống nhất với phương hướng tìm tòi của Khảo luận, vận dụng ba sự so sánh chéo nhằm tìm đến một kết quả duy nhất và cũng thống nhất với Khảo luận là Trần Tung, không hề có Trần Quốc Tung.
Từ hai bước hiển nhiên trong tiến trình phát hiện Trần Tung của tôi, được thể hiện ở hai văn bản khác nhau như đã thấy, nay muốn so sánh Nguyễn Lang với tôi để mong tìm ra những đoạn văn “giống nhau như đúc”, xin hỏi Boristo Nguyen: ông phải lựa chọn văn bản nào thì mới có kết luận đúng? Một kết luận quan hệ đến đạo đức khoa học của tôi như lời phán quyết của ông là chuyện cực kỳ nghiêm trọng, sao ông lại đập nhập hai giai đoạn nghiên cứu của tôi làm một, coi nhẹ kết quả khác nhau giữa tôi và Nguyễn Lang ngay trong chặng đầu tiên, và cũng chỉ so sánh với “một hiện vật” độc nhất là bài viết giai đoạn sau, tự tiện bỏ qua đoạn văn tôi trình bày hẳn hoi ở giai đoạn đầu? Ông có hiểu như thế là sai thủ tục và cả trình tự bắt buộc trong thao tác “điều tra”, để dựng lên một “bản án” có lợi cho mình? Tôi không vội đánh giá ông, chỉ đề nghị ông hãy làm lại, hãy thống kê và đối chiếu lại văn bản của Nguyễn Lang với hai văn bản của tôi ở cả hai bước tôi đã nêu: bước một rồi mới đến bước hai, vội vàng đốt cháy giai đoạn là không được.
Ta cùng mở văn bản của tôi ra để cả bên nguyên bên bị đều nhìn tận mắt. Dưới đây là văn bản bước một: xin đưa ảnh chụp 2 trang rưỡi viết về Trần Tung và Thượng sĩ ngữ lục trong Khảo luận TVLT I lên bài. Ông cứ việc so sánh kỹ với Nguyễn Lang đi:
Khảo luận, tr. 113
Khảo luận, tr. 114
Khảo luận, tr. 115
Thế nào? Ông Boristo Nguyen có thấy gì không? Phần tôi chẳng hề tìm ra một chỗ nào tôi giống với Nguyễn Lang như ông vạch vòi cả. Cả đoạn văn phỏng dịch có 3 câu ông chọn ra để bắt bẻ tôi “gần như giống Nguyễn Lang từng chữ từng từ” ở đây hoàn toàn không có. Bỏ qua đoạn ấy thì những đoạn khác cũng chẳng hề có một chữ nào trùng với Nguyễn Lang. Không chỉ về câu chữ, mà như trên đã phân tích, về đối tượng, nguồn tài liệu soi vào luận chứng, lập luận và kết quả, giữa tôi và Nguyễn Lang đều khác nhau. Vậy kết luận tôi ăn cắp Nguyễn Lang trong văn bản bước một này là phạm luật. Ông có đồng ý không?
Tôi thừa biết nếu chỉ dừng ở đây thôi thì ông quật lại liền. So sánh là so sánh VNPGSL I của Nguyễn Lang với Trần Tung – một gương mặt lạ trong làng thơ Thiền thời Lý-Trần viết năm 1977 chứ đâu có so sánh với Khảo luận viết 4 năm về trước. 4 năm trước tôi chưa đọc được VNPGSL I thì sao? Đúng là vậy. Tôi chỉ muốn cho ông thấy tận mắt 2 trang rưỡi Khảo luận là một luận văn liền mạch, viết xong vào năm sách được chuyển sang NXB, chứ không phải “mới sửa chữa lại sau” như ông hay ai đó cố tình gán ghép bừa. Hãy cần thế đã. Tiếp theo, ta sẽ so sánh VNPGSL I với văn bản bước hai. Nhưng thưa ông, vì văn bản bước hai hoàn thành vào cuối năm 1977, nên để cho đích xác, lại phải so sánh với đúng văn bản ra đời năm 1977, nghĩa là văn bản đăng trên Tạp chí Văn học số 4-1977. Nếu quả tôi có ý đồ ăn cắp thì chính ở đấy “tang vật” mới lòi ra đầy đủ, chứ đi so sánh với văn bản in trong cuốn Văn học Cổ cận đại Việt Nam – từ góc nhìn văn hóa đến các mã nghệ thuật in năm 2013 thì thực vô nghĩa. Chẳng lẽ một kẻ thạo ngón nghề “đạo chích” mà lại không tìm cách xóa dấu vết đi, nhất là sau đến hơn 40 năm, cứ để lại sờ sờ trên giấy trắng mực đen cho những người như ông dễ dàng vào lục lọi thì có mà ngu ngốc ư? Trong tuyển tập in 2013 ông chỉ tìm được một đoạn phỏng dịch có 3 câu “gần như giống từng chữ từng từ” với Nguyễn Lang, chắc tên kẻ cắp sơ ý chưa xóa hết, thì trong văn bản 1977 tất ông phải tìm được nhiều hơn nhiều.
Tôi lại xin giúp ông chụp lại bài viết in trên Tạp chí Văn học số 4-1977 đem lên. Nhưng bài viết quá dài, đến 20 trang, đưa hết e không tiện, tôi tính thế này: bài có hai phần, Phần 1 gồm 3 tiểu mục, tập trung chứng minh Trần Tung chính là Tuệ Trung Thượng sĩ, gồm 11 trang rưỡi, và Phần 2 phân tích đặc điểm thơ Thiền Trần Tung, gồm 8 trang rưỡi, tôi sẽ bỏ phần sau lại vì chẳng còn dính dáng gì đến việc ta đang bàn, chỉ chụp và đưa lên 12 trang đầu, nếu còn nghi ngờ ông cứ chịu khó tìm đọc vào bản gốc vậy. Đây, 12 trang đầu của bài viết năm 1977 của tôi đây, chụp rất rõ, Boristo Nguyen cứ soi thật kỹ, không để sót chỗ nào không soi.
Trần Tung một gương mặt lạ… tr. 116
Trần Tung một gương mặt lạ… tr. 117
Trần Tung một gương mặt lạ… tr. 118
Trần Tung một gương mặt lạ… tr. 119
Trần Tung một gương mặt lạ… tr. 120
Trần Tung một gương mặt lạ… tr. 121
Trần Tung một gương mặt lạ… tr. 122
Trần Tung một gương mặt lạ… tr. 123
Trần Tung một gương mặt lạ… tr. 124
Trần Tung một gương mặt lạ… tr. 125
Trần Tung một gương mặt lạ… tr. 126
Trần Tung một gương mặt lạ… tr. 127
Toàn bộ 12 trang đầu bài viết năm 1977 của tôi đã lên xong, tôi phải xin lỗi làm phiền bạn đọc, nhưng trước một bản cáo trạng nghiêm khắc như của Boristo Nguyen thì chứng cứ trình ra để cùng “ba mặt một lời” phải thật đầy đủ, chẳng phải chuyện có thể đùa. Xin Boristo Nguyen chỉ rõ những câu tôi “đạo” của Nguyễn Lang ở đâu trong bài viết này? Thì ra hoàn toàn không có. Không có 3 câu ông dẫn chứng và cũng chẳng có cả những đoạn khác diễn giải bài Thượng sĩ hành trạng mà trước đây Nguyễn Hòa gán cho tôi mô phỏng lại Nguyễn Lang. Vì sao vậy nhỉ? Ô hay! Có phải tôi đã dùng cây đũa thần bắt chúng biến đi? Thật là khó hiểu. Thôi thì bật mí để ông và bạn đọc khỏi sửng sốt: những đoạn văn ông và Nguyễn Hòa chộp được và lấy làm đắc ý vốn chưa hề xuất hiện trong bài báo in năm 1977 của tôi. Nhiều năm về sau, khi bài viết in lại trong một vài tuyển tập, tôi mới viết bổ sung để thêm vào. Lý do vì sao sẽ giải thích ở cuối, nhưng văn bản then chốt trình bày toàn bộ luận cứ tìm tòi của tôi về Trần Tung thì đã nằm hết ở đây rồi, mở rộng hơn và hoàn chỉnh hơn chứ không hề có gì trái ngược so với văn bản bước một, cũng chẳng giống chút gì với lập luận của Nguyễn Lang.
Tôi nhắc lại: 2 đoạn văn phỏng dịch Thượng sĩ hành trạng của tôi và Nguyễn Lang mà Boristo Nguyen đưa ra làm bằng về sự “giống nhau như đúc” là chỉ để quy kết cho tôi ăn cắp “phát hiện Trần Quốc Tung” của Nguyễn Lang, dựa trên suy luận logic: tôi viết sau Nguyễn Lang 4 năm -> giống nhau lời văn ở một đoạn chứng tỏ tôi “đạo” Nguyễn Lang vì tôi công bố sau -> cái này đã “đạo” thì nghiễm nhiên cái kia, cái quan trọng nhất cũng phải “đạo” của Nguyễn Lang. Vậy nay tìm cả bài không thấy bất kỳ đoạn nào giống nhau thì Boristo Nguyen còn định làm gì? Logic của ông tự nhiên đổ nhào, tôi chẳng cần biện bác gì nữa. Chưa nói hệ luận logic kiểu đó ngay từ đầu đã hỏng, đơn giản đích đến của Nguyễn Lang là giả định Trần Quốc Tung thì tôi đâu có đi đến đấy. Tôi không vượt ra ngoài sử sách mà sử sách thì không hề có Trần Quốc Tung. Ông cứ cố gán cái “không có” cho tôi mới lạ. Lại cố tình phân biệt giữa “tìm ra” và “chứng minh”, làm như người “chứng minh” thì không thể “tìm ra”, sao mà kỳ cục quá! Từ đó, bằng mọi cách ông hạ thấp và đánh lộn sòng những chứng minh xác thực của tôi với giả thuyết của Nguyễn Lang: “Tìm ra Trần Tung (Trần Quốc Tung) sau hàng trăm năm nhầm lẫn là một đóng góp có giá trị lớn và khó hơn nhiều so với việc sau khi đã biết thân nhân ông là ai, chứng minh để khẳng định điều đó. Việc chứng minh có lẽ không phải là khó khăn lắm đối với người nghiên cứu lịch sử và văn học cổ trung đại Việt Nam”. Viết “Tìm ra Trần Tung” rồi mở ngoặc (Trần Quốc Tung) mà không viết “Tìm ra Trần Quốc Tung” rồi mở ngoặc (Trần Tung) là có đầy chủ ý, để bạn đọc yên chí người gợi ý cái tên Trần Quốc Tung cũng đã tìm được tên Trần Tung từ trước, nghĩa là hai sự kiện khác hẳn nhau xuất hiện tại hai vùng đất xa cách nhau bỗng… biến thành một. Quá ranh mãnh, nhưng lại rất nực cười.
Cho nên không phải không có lý do ngay đầu đề bài viết tôi đã nói “Boristo Nguyen đã bé cái nhầm”. Ông cố tạo bằng được một bản án gà mờ mà không có tinh thần thực sự cầu thị, không tìm hiểu rõ sự khu biệt trên đủ mọi khâu dẫn đến kết quả tìm tòi khác biệt giữa đôi bên, chỉ lo kiếm cho ra chứng cứ, bất chấp cả quy định phải điều tra “vụ án” với đầy đủ hiện vật, hiện vật lại phải xuất hiện đúng vào thời điểm sự kiện xảy ra. Ông chưa đủ nghiệp vụ để vu oan giá họa cho tôi. Hồi ông Nguyễn Hòa lên tiếng chất vấn tôi, trong khi ông Đặng Văn Sinh đưa ra những luận chứng rất khoa học thì tôi chỉ bấm bụng cười thầm, biết ông Hòa đã rơi vào bẫy, đem cái không hề có trong văn bản của tôi ra mà chất vấn, cũng hệt như ông bây giờ. Nhưng tôi không trả lời ông Hòa. Người bạn trung hậu của tôi đã thừa sức bẻ gãy ông ta thì tôi còn lên tiếng làm gì nữa. Huống chi trong cuộc đời nghiên cứu của mình, tôi chỉ trả lời những ai mà tôi thấy đáng phải trả lời. Đó là nguyên tắc không thay đổi, trừ một vài ngoại lệ.
II
Nói thêm cho Boristo Nguyen rõ: trong bài viết đăng trên Tạp chí Văn học năm 1977 tôi đã đọc Nguyễn Lang. Tôi đọc cả bản dịch Thượng sĩ ngữ lục của Trúc Thiên do Lá Bối, Sài Gòn, in năm 1969. Ông hãy đi lục tìm hồ sơ ở Vụ Tổ chức UBKHXH thì may ra tìm được: đầu tháng Tám năm 1977 người bố của tôi được điều động từ Sài Gòn ra công tác ở Ban Hán Nôm. Ông ra, mang cả sách ra cho tôi. Tuy mới đọc vội, tôi đã chú thích Nguyễn Lang ngay trên trang đầu bài viết, cốt thông báo với toàn giới nghiên cứu Cổ cận đại tin tức nóng hổi này, nhưng cũng vì vội nên chú dẫn có sai năm xuất bản cuốn VNPGSL I (nhầm 1973 ra 1974), còn Trúc Thiên thì trích vài bài, những chỗ trích đều có chú. Tôi viết: “Cũng xin nói thêm là trong quá trình biên soạn bộ sách Thơ văn Lý-Trần chúng tôi đã phát hiện ra vấn đề này tương đối sớm, và đã có dịp trình bày sơ lược trong phần Khảo luận đầu sách. Gần đây, có đồng chí mách cho biết: trong cuốn Việt Nam Phật giáo sử luận (Lá Bối; Sài Gòn; 1974) Nguyễn Lang cũng có ý kiến giống chúng tôi về tác giả đích thực của Thượng sĩ ngữ lục. Tuy nhiên, tìm đọc kỹ những điều ông Nguyễn Lang đã viết, chúng tôi thấy vẫn cần có một bài báo nói kỹ hơn về những tìm tòi của mình để bạn đọc tham khảo. Vì không những tài liệu và lập luận của chúng tôi có khác, mà cách đánh giá của chúng tôi đối với thơ văn Trần Tung cũng không giống Nguyễn Lang. Vả chăng cho đến nay, mặc dầu đã có ý kiến sơ bộ của Nguyễn Lang, dư luận chung vẫn coi Trần Quốc Tảng là tác giả Thượng sĩ ngữ lục” (Tạp chí Văn học 4-1977; tr. 116).
Boristo Nguyên ngẫm nghĩ thử, tôi có cố ý giấu giếm Nguyễn Lang để mình trở thành “độc đắc” đâu. Không hề. Trái lại, tôi cần công bố Nguyễn Lang để thấy tìm tòi của mình không đơn độc. Tôi cũng cần công bố tiếp kiến giải của mình vì đọc vào Nguyễn Lang tôi nhận ra ngay sự khác nhau trong mục tiêu của hai người. Nguyễn Lang, do tư cách một người viết sử và một nhà tư tưởng Phật giáo thâm hậu, không hề coi việc tìm kiếm chi ly ai là tác giả Thượng sĩ ngữ lục là chuyện chính yếu. Nhiều chỗ ông chỉ mặc nhận bằng sự mẫn cảm, hoặc bằng tín niệm (như cái tên Trần Quốc Tung). Việc chính của ông là thông qua Thượng sĩ hành trạng và Thượng sĩ ngữ lục để đưa con người đang “xa lạ” này vào trang sử Phật, làm hiện lên một cốt cách trác việt cũng như một tư tưởng độc sáng mà chỉ với một người trong giới có tầm mới thấu hiểu và đúc kết thành những mệnh đề có ý nghĩa khái quát chắc và sâu. Đó là chỗ đáng phục của ông. Còn tôi, một người làm văn bản học thơ văn Lý-Trần, tôi buộc phải giải đáp tận gốc ai là tác giả Thượng sĩ ngữ lục bằng luận cứ chắc chắn (cũng giống nhiều tác giả tác phẩm Lý-Trần khác mà tôi đã tiến hành tìm tòi và có những phát hiện trong toàn bộ phần Khảo luận, không riêng một tác giả này). Bởi thế, câu nào tôi trích dịch ở sách nào đều rất chọn lọc và cố dịch từ văn bản cổ nhất, lại phải là câu có chứa đựng “mã khóa” giúp mình gỡ ra từng mắt của một cái lưới khó gỡ. Tôi chỉ nêu một dẫn chứng có liên quan đến Nguyễn Lang: một đoạn duy nhất chọn dịch ở Thượng sĩ hành trạng, có tham khảo cả Trúc Thiên và Nguyễn Lang, nhưng tôi buộc phải dịch bám sát cấu trúc từng cụm từ trong nguyên văn chữ Hán nên có khác hai ông: 上士欽明慈善太王之弟一子。元聖天感皇太后之長兄。初太王薨。太宗皇帝義之封興 寧王也 (Thượng sĩ, Khâm minh từ Thiện Thái vương chi đệ nhất tử, Nguyên thánh Thiên cảm Hoàng thái hậu chi trưởng huynh. Sơ, Thái vương hoăng, Thái Tông Hoàng đế nghĩa chi phong Hưng Ninh vương dã). Tôi dịch: “Tuệ Trung Thượng sĩ là con thứ nhất [Trúc Thiên và Nguyễn Lang đều dịch con đầu] của Khâm minh Từ thiện Đại vương [Trúc Thiên dịch Thái vương, tôi không tán thành vì đời Trần không phong anh em tôn thất là Thái vương, chỉ đến đời Mạc mới phong; sách Thượng sĩ ngữ lục in 1683 chắc còn vương dấu vết của thời Mạc], và là anh cả của Nguyên thánh Thiên cảm Hoàng thái hậu [Nguyễn Lang dịch Hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm]. Xưa, lúc [Nguyễn Lang dịch Khi và không có chữ lúc] Đại vương mất, Thái Tông Hoàng đế [Nguyễn Lang dịch Hoàng đế Trần Thái Tông] vì cảm nghĩa mà phong cho ông là [Nguyễn Lang thêm Thượng sĩ tước] Hưng Ninh vương” (Tạp chí Văn học, 4-1977; tr.123 / VNPGSL I, tr. 274). Bỏ qua những sai biệt khác lúc cần tôi sẽ nói, chỉ những người đang phải giải quyết một vấn đề văn bản học hắc búa mới biết mấy chữ “đệ nhất tử” (弟一子) tôi tìm ra ở đây là chìa khóa hết sức hệ trọng để giải đáp một mâu thuẫn về vị thứ của Tuệ Trung Thượng sĩ trong gia đình Trần Liễu mà hồi viết Khảo luận tôi sơ ý bỏ qua nên vẫn chưa tìm ra lời giải. Hóa ra người chép “đệ nhất tử” rất có ý thức phân biệt với “trưởng tử” (長子 / con đầu). Nếu Tuệ Trung Thượng sĩ là “trưởng tử” thì mâu thuẫn với Đại Việt sử ký toàn thư vì Đại Việt sử ký toàn thư đã ghi rõ Võ Thành vương Doãn là con đẻ của Trần Liễu và Thuận Thiên [Hoàng hậu], lại hơn Tuệ Trung nhiều chục tuổi. Thế là bài toán thành ra vô nghiệm, đâm rắc rối to. Nhưng chép Tuệ Trung là “con thứ nhất” thì vấn đề trở nên thanh thỏa, bởi sau khi Võ Thành vương Doãn chống lại Trần Thái Tông năm 1237 do vua cướp mẹ ruột mình làm vợ (lúc Tuệ Trung mới 7 tuổi), rồi phải chạy sang phương Bắc sau ngày Trần Liễu và Thuận Thiên đều mất, kế đó bị bắt và bị giết, thì nghiễm nhiên Tuệ Trung trở thành “con thứ nhất” không sai. Chỗ khéo léo đó trong ghi chép của Trần Nhân Tông đến bấy giờ tôi mới nhận ra.
Cũng phải nói, rất may cho tôi nữa trong vấn đề Trần Tung để tôi tiến dược đến đúng đích mà không phải phỏng đoán là Trần Quốc Tung như Nguyễn Lang, vì tôi đã dựa được vào một tài liệu quý của hai tác giả Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm là cuốn Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên-Mông thế kỷ XIII do NXB Khoa học xã hội in năm 1968, trong đó có dẫn hai nguồn sử liệu là An Nam chí lược và Nguyên sử nói rõ cả họ tên và tước hiệu Hưng Ninh vương Trần Tung, là “tòng huynh” tức anh con bác ruột vua Trần Thánh Tông. Đối chiếu với ghi chép của Thượng sĩ hành trạng thì câu hỏi khó bậc nhất: tên thực Hưng Ninh vương là gì và quan hệ với Trần Quốc Tuấn như thế nào đã gần như nằm sẵn trong sách của nhóm Hà Văn Tấn. Mặc dù cả trong Khảo luận và trong bài viết của mình, đề cập những dẫn liệu này tôi đều có ghi rõ xuất xứ, nhưng sau này in lại vào tuyển tập, tôi đã viết thêm một dòng tri ân: “Phát hiện của chúng tôi một phần được gợi ý từ công trình Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên-Mông thế kỷ XIII của Hà Văn Tấn - Phạm Thị Tâm, NXB Khoa học xã hội, H., 1968. Ở trang 238 và trang 267 hai tác giả đã dựa vào An Nam chí lược, Q. IV và Nguyên sử, “Truyện A-lại-bát-xích”, tờ 2a, đề cập đến Hưng Ninh vương Trần Tung là anh con bác của Trần Thánh Tông. Đây là một manh mối khơi nguồn cho những phán đoán hệ thống của chúng tôi”. Trừ phi là bịt mắt lại, ông Boristo Nguyen không thể nào không nhận ra tôi có những lợi thế mà Nguyễn Lang không thể có để tìm ra Trần Tung, và là lợi thế có ngay từ buổi đầu công việc khảo sát của mình, thế thì tôi còn phải cóp của Nguyễn Lang để làm gì?
Cái tính muốn đổ riệt cho người bằng bất cứ giá nào khiến Boristo còn có những phát biểu kỳ quặc. Ông dẫn một câu rất thành thực của tôi “Tuy vậy, cho đến nay, dư luận bạn đọc vẫn phân vân nửa tin nửa ngờ. Có người còn cho là quá táo bạo và lạ lẫm. Chúng tôi rất hiểu tình thế khó khăn là phải làm sao chiến thắng được một tâm lý quen thuộc vốn đã gắn quá chặt bộ Thượng sĩ ngữ lục cũng như những sợi dây tinh thần giữa Thiền phái Trúc Lâm với cái tên Trần Quốc Tảng”, để hạ luôn một lời ác ý: “Việc dư luận dễ có những ngờ vực cũng là điều dễ hiểu. Một mặt, chưa biết thực hư thế nào nhưng Nguyễn Huệ Chi là người dính líu đến nhiều vụ lình xình và bị không ít người chất vấn về đạo đức khoa học”. Khi viết bài lên tạp chí tôi không hề muốn khoe danh mà chỉ muốn giúp học giới thanh toán một ngộ nhận từ lâu để lại, chắc chắn chưa rứt đi được và có thể còn kéo dài, đó là lời nói thật tình xét từ tâm lý tiếp nhận, cái động hình (stéréotype dynamique) đã in vào tâm trí thì khó mà gỡ ra. Kết quả của việc tôi làm trông thấy nhãn tiền, không cần chờ đợi. Một nhà văn chuyên viết về thời đại Lý-Trần là Hà Ân, sau khi đọc được bài tôi đã tìm đến Viện Văn học gặp tôi và Ban văn học Cổ cận đại than thở, rằng vì bài tôi công bố quá chậm mà anh phải vứt bỏ mất cả một tập II cuốn tiểu thuyết Người Thăng Long lấy Trần Quốc Tảng làm nhân vật chính. Anh còn gặp tôi nhiều lần, một lần nhân làm cuốn phim tài liệu về anh, anh cho biết đã phải cặm cụi viết lại Tập II trong vòng 10 năm mới tạm ưng ý, nói xong anh rơm rớm nước mắt. Một nhà phê bình – cũng là người đạo diễn bộ phim tài liệu về Hà Ân – sau này có viết: “phải nhìn thấy những giọt lệ lăn dài trên gò má nhăn nheo của nhà văn già khi ông gặp lại nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Huệ Chi, người đã công bố bài khảo cứu "định mệnh" về văn bản Phóng cuồng ca trên Tạp chí Văn học năm nào – tôi đã cố tình sắp đặt ra cái "xen" gặp gỡ này, nhưng không yêu cầu ông phải khóc, tất nhiên – tôi mới cảm thấu được sự tâm huyết mà ông đã dồn trút vào tác phẩm của mình” (Hoài Nam – Nhà văn Hà Ân: Người kể chuyện xưa). Đủ thấy việc viết bài Trần Tung của tôi không phải vì tôi mà trước hết là vì đòi hỏi khách quan của văn học sử. Cũng như năm 1992 tôi đã gắng tổ chức một Hội đồng thẩm định để Nhà nước cho phép in và phổ biến Việt Nam Phật giáo sử luận 3 tập của Nguyễn Lang trên khắp nước, đánh bạt đi cái định kiến Thích Nhất Hạnh là “tên biệt kích văn hóa thực dân mới” đến những năm này rồi vẫn cứ còn lởn vởn trong nhiều đầu óc, không phải là vì cá nhân Thiền sư Thích Nhất Hạnh, ông Boristo Nguyen nhớ chưa?
III
Chắc Boristo Nguyen sẽ không hết ấm ức mà hỏi thêm: Vậy thì tôi đưa những phần trích dịch Thượng sĩ hành trạng bổ sung vào bài viết Trần Tung về sau khi bài này in lại trong sách là để làm gì, khiến cho ông… hụt hẫng? Xin thưa: tôi đưa vào làm đoạn mở đầu cho bài viết của tôi, để chuyển hình thức từ một bài “khảo luận” sang một “chân dung văn học”, vì những tuyển tập in lại phần lớn mang chủ đề “gương mặt nhà văn”, chẳng hạn một trong số đó là Gương mặt văn học Thăng Long. Đó chỉ là 3 trang rưỡi mở đầu, có tính chất nhập đề, phác họa vài ba nét diện mạo của Tuệ Trung Thượng sĩ, một con người kỳ dị, cốt cách ngang tàng, xuất hiện giữa làng thơ Thiền Lý-Trần mà nhìn trên hình thức lại có vẻ như chống Phật, cũng chưa ai biết ông là ai – đó chỉ là cách gây hứng thú cho bạn đọc trước khi bước vào các phần chính ở sau chứ không có tác dụng gì khác. Đó cũng là đoạn được kết thúc bằng câu chú thích nói về những gì tôi đã từng lầm lẫn về Trần Quốc Tảng, tiếp đó đã làm được trong Khảo luận TVLT I cũng như những gì Nguyễn Lang đã đạt được trong VNPGSL I của ông ở miền Nam. Mấy câu này từng in trên Tạp chí Văn học 1977, nay sửa lại đúng hơn và đặt ở chính văn cho trang trọng hơn: “Trước đây khá nhiều năm, bản thân chúng tôi cũng đinh ninh Trần Quốc Tảng là tác giả Thượng sĩ ngữ lục không có gì phải bàn cãi. Nhưng chỉ một thời gian sau đó khảo sát kỹ mới biết mình đã lầm. Những tìm tòi tư liệu trong hai năm 1973-1974 mà sau này có dịp công bố vắn tắt trong Thơ văn Lý-Trần Tập I (1977), đã đưa chúng tôi đến một giả thuyết mới: Người thầy của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử không phải là Trần Quốc Tảng mà là Trần Tung 陳嵩. Sau ngày đất nước thống nhất, chúng tôi được biết, một nhà nghiên cứu Thiền học nổi tiếng hiện ở Pháp là Nguyễn Lang, cũng từng có những phát hiện thấu đáo trong bộ Việt Nam Phật giáo sử luận (Tập I, 1973)” (Văn học Cổ cận đại Việt Nam từ góc nhìn…; tr. 378). Thiết tưởng, như vậy cũng đủ rõ 3 trang “khúc dạo đầu” mang chút hơi hướng trữ tình ngoại đề này chẳng liên quan gì đến những luận điểm về Trần Tung của tôi hoặc sự dự phóng Trần Quốc Tung của Nguyễn Lang. Về thời gian, nó xuất hiện cách các phần chính của bài viết rất nhiều năm. Tất nhiên, khi đã giới thiệu công trình của Nguyễn Lang ngay chỗ đó, thì một vài đoạn phỏng dịch có tham bác Nguyễn Lang về từ này chữ kia là điều không có gì đáng lên án, miễn đó chẳng phải là một luận cứ nào quan trọng của Nguyễn Lang. Ngay chính Nguyễn Lang khi phỏng dịch Thượng sĩ hành trạng trong VNPGSL I cũng theo khá sát lời dịch của Trúc Thiên là bản dịch ra đời 4 năm trước ông, kể cả câu văn mà ông đưa ra để nói tôi và Nguyễn Lang giống nhau.
Đầu đuôi là vậy. Tôi xin nhắc để Boristo Nguyen biết là trong giới dịch Hán văn trước nay, trên cùng một bản dịch, thế hệ đi sau nhiều khi mượn của thế hệ đi trước một đôi chữ đôi câu, chẳng thành vấn đề gì cả. Như trong phần dịch Thượng sĩ ngữ lục của Thiền sư Thích Thanh Từ năm 1996 mà bài ông có nhắc đến, ông sao chẳng để ý rằng nhiều bài thơ Thiền sư Thích Thanh Từ đã mượn hẳn lời dịch của chúng tôi hoặc của dịch giả Trúc Thiên. Vào đầu, Thiền sư đã dẫn tên chúng tôi cũng như tên Trúc Thiên, xem là những người đã có “những bản dịch khá hay” công bố trước mình ”song thỉnh thoảng có đôi chỗ không thích hợp lý Thiền”. Ông mượn nó rồi sửa thêm ít nhiều, tôi nghĩ cũng chẳng sao, bởi trong kinh nghiệm dịch, chúng tôi rất biết, có những bản dịch của người trước tạm gọi là đã “thành”, muốn thay thế dăm bảy chữ thì được nhưng thay hết là bất khả. Chẳng hạn dẫn vài bài sau đây để Boristo Nguyen thấy tận mắt:
Bài Phóng cuồng ngâm bản dịch của chúng tôi (1989):
Trời đất liếc trông chừ sao mênh mang
Chống gậy nhởn nhơ chừ phương ngoài phương
Hoặc cao cao chừ mây đỉnh núi
Hoặc sâu sâu chừ nước trùng dương
Đói thì ăn chừ cơm tùy ý
Mệt thì ngủ chừ làng không làng
Hứng lên chừ thổi sáo không lỗ
Lắng xuống chừ đốt giải thoát hương
Mỏi nghỉ tạm chừ đất hoan hỉ
Khát uống no chừ nước thênh thang
Láng giềng Qui Sơn chừ chăn con trâu nước
Cùng thuyền Tạ Tam chừ hát khúc Thương Lang
Thăm Tào Khê chừ vái chào Lư Thị
Viếng Thạch Đầu chừ sánh lão Bàng
Vui cái ta vui chừ Bố Đại vui
Cuồng cái ta cuồng chừ Phổ Hóa cuồng…
(TVLT II, tr.280)
Bản dịch của Thích Thanh Từ (1996):
Trời đất liếc trông chừ sao thênh thang
Chống gậy rong chơi chừ phương ngoại phương
Hoặc cao cao chừ mây đỉnh núi
Hoặc sâu sâu chừ nước trùng dương
Đói thì ăn chừ cơm tùy ý
Mệt thì ngủ chừ nào có quê hương
Hứng lên chừ thổi sáo không lỗ
Chỗ lặng chừ đốt giải thoát hương
Nhọc chút chừ nghỉ đất hoan hỉ
Khát uống no chừ thang tiêu dao
Qui Sơn láng giềng chừ chăn con trâu nước
Tạ Tam đồng thuyền chừ hát khúc Thương Lang
Thăm Tào Khê chừ chào Lư Thị
Viếng Thạch Đầu chừ sánh lão Bàng
Vui ta vui chừ Bố Đại vui
Cuồng ta cuồng chừ Phổ Hóa cuồng…
Bài Trữ tình tự răn bản dịch của chúng tôi (1989):
Tháng ngày nước chảy
Giàu sang mây trôi
Gió lửa tan rồi
Trẻ già thành bụi
Hồn phách lìa, sắc thân như mộng
Cuộc mưu sinh, trò rối kéo co
Thường đùa cợt, đưa tay bắt bóng
Hạc cửu cao đầu đỏ có thừa
Cá cửa Vũ đuôi hồng chẳng mấy
Chẳng quay đầu, tia hồi quang soi lại
Tâm khế hợp, nhận rõ tính thông minh
Cầu giải thoát, chính giác viên thành
Nơi trần tục, tâm thanh diệu dụng…
(TVLT II, tr.299)
Bản dịch của Thích Thanh Từ (1996):
Ngày tháng nước chảy
Giàu sang mây trôi
Gió lửa tan rồi
Trẻ già thành bụi
Hồn phách lìa, sắc thân như mộng
Cuộc mưu sinh, con rối kéo lôi
Hằng ngày đùa, đưa tay bắt bóng
Hạc cửu cao đầu đỏ có thừa
Cá Vũ môn đuôi hồng chẳng đổi
Chẳng quay đầu, hồi quang phản chiếu
Hợp tâm yếu, thức tánh thông minh
Cầu giải thoát, chánh giác viên thành
Nơi trần tục, tâm thanh diệu dụng…
Bài Thói đời hư dối bản dịch của chúng tôi (1989):
Vân cẩu đổi thay lắm vẻ mà
Mơ màng phó trọn giấc Nam Kha
Sương vừa chớm hạ, sen đang nụ
Gió kịp vời xuân, mai đã hoa
Trăng lặn, bóng trăng khôn trở lại
Sông trôi, sóng nước mãi trôi qua
Hãy xem đàn én lầu Vương Tạ
Nay xuống làm thân với mọi nhà
(TVLT II, tr.250)
Bản dịch của Thích Thanh Từ (1996):
Vân cẩu đổi thay lắm vẻ mà
Mơ màng gởi trọn giấc Nam Kha
Sương vừa rửa hạ, sen đang nụ
Gió mới mời xuân, mai đã hoa
Trăng khuất núi tây, không còn bóng
Nước trôi đông hải, sóng đã qua
Anh xem đàn én lầu Vương Tạ
Nay đến làm thân với mọi nhà.
v.v.
Tôi nghĩ về Boristo Nguyen thế này: Cứ chăm chăm đi đánh người thì không còn giữ được cái tâm sáng để biết đâu mới là đen hay trắng. Đó âu cũng là nghiệp, ông cứ nghiệm rồi sẽ thấy.
Ngày 11-12-2018
N.H.C.
Nguồn: https://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/boristo-nguyen-da-be-cai-nham