Lê Hồng Hiệp
Đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam đã tăng mạnh. Nhưng điều này không chỉ mang lại cơ hội mà còn cả thách thức cho Việt Nam.
Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính (phải) và Thủ tướng Trung Quốc Lý Cường (trái) vẫy tay chào khi chụp ảnh trong cuộc họp tại Văn phòng Chính phủ ở Hà Nội vào ngày 13 tháng 10 năm 2024. (Ảnh của Lương Thái Linh / POOL / AFP)
Kể từ khi chiến tranh thương mại Mỹ-Trung bắt đầu vào năm 2017, Việt Nam đã trở thành lựa chọn ngày càng phổ biến cho các tập đoàn đa quốc gia (MNC) muốn đa dạng hóa chuỗi cung ứng của họ khỏi Trung Quốc để giảm thiểu rủi ro địa chính trị. Theo Tổng cục Thống kê (GSO), các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư tổng cộng 248,3 tỷ đô la Mỹ vào 19.701 dự án tại Việt Nam trong giai đoạn 2017-2023 (xem Biểuđồ 1). Số vốn này tương đương 52,8% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được đăng ký tại Việt Nam kể từ khi Việt Nam áp dụng cải cách kinh tế vào cuối những năm 1980. Xu hướng này vẫn tiếp tục vào năm 2024, với việc Việt Nam ghi nhận 27,26 tỷ đô la Mỹ vốn FDI đăng ký mới cho tới cuối tháng 10.
Các nhà đầu tư Trung Quốc đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy xu hướng này (Biểu đồ 2). Đến cuối năm 2023, Trung Quốc đã vươn lên trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ sáu tại Việt Nam, với tổng vốn đăng ký là 27,1 tỷ đô la Mỹ. Con số này đánh dấu sự gia tăng đáng kể so với vị trí trước đó là nhà đầu tư lớn thứ chín, với tổng vốn đăng ký tích lũy khoảng 8 tỷ đô la Mỹ vào cuối năm 2014. Trong mười tháng đầu năm 2024, Trung Quốc cũng là nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ hai tại Việt Nam sau Singapore, với tổng vốn đầu tư gần 3,61 tỷ đô la Mỹ trong giai đoạn này.
Điều đáng chú ý là nếu tính cả các khoản đầu tư từ Hồng Kông, FDI tích lũy của Trung Quốc vào Việt Nam sẽ tăng vọt lên 61,3 tỷ đô la Mỹ vào cuối năm 2023. Điều này đưa Trung Quốc trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ tư tại Việt Nam sau Hàn Quốc, Singapore và Nhật Bản. Ngoài ra, có khả năng một lượng vốn đáng kể của Trung Quốc đã được đầu tư vào Việt Nam thông qua các công ty được thành lập tại các nước thứ ba, bao gồm các thiên đường thuế và các cửa ngõ kinh tế khu vực như Singapore. Nếu tính đủ các khoản đầu tư này, Trung Quốc có khả năng nằm trong nhóm ba nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam tính theo FDI tích lũy đã đăng ký.
Sự gia tăng FDI của Trung Quốc vào Việt Nam có thể bắt nguồn từ hai yếu tố chính. Thứ nhất, cuộc chiến tranh thương mại đang diễn ra giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc và các rào cản thuế quan của Hoa Kỳ áp đặt lên nhiều mặt hàng Trung Quốc đã thúc đẩy các công ty nước này di dời một phần hoạt động sản xuất sang các quốc gia khác, bao gồm Việt Nam, để né tránh các rào cản thuế quan của Mỹ. Xu hướng này thể hiện rõ nhất trong ngành công nghiệp tấm pin mặt trời, nơi năm trong số bảy nhà sản xuất lớn nhất tại Việt Nam là do Trung Quốc sở hữu.
Thứ hai, các nhà đầu tư Trung Quốc đang tìm cách đa dạng hóa rủi ro và giảm phụ thuộc vào thị trường nội địa, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế nước này đang suy thoái, dân số già hóa và chính phủ thắt chặt quy định. Việt Nam có một số lợi thế về mặt này, bao gồm vị trí chiến lược, lao động giá rẻ, cơ sở hạ tầng khá tốt và khả năng tiếp cận thị trường toàn cầu thông qua 17 hiệp định thương mại tự do. Ngoài ra, vị trí địa lý gần gũi giữa Trung Quốc và Việt Nam giúp giảm chi phí hậu cần cho các nhà sản xuất Trung Quốc khi nhập khẩu hàng hóa trung gian từ các nhà cung cấp có trụ sở tại nước này. Điều này càng khuyến khích họ thành lập nhà máy tại Việt Nam.
Sự gia tăng đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam giúp củng cố quan hệ hai nước. Từ quan điểm của Bắc Kinh, quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn với Việt Nam sẽ củng cố ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Việt Nam và giúp ngăn Việt Nam liên kết với các đối thủ chiến lược của Trung Quốc, đặc biệt là Hoa Kỳ. Trong khi đó, Việt Nam coi các khoản đầu tư của Trung Quốc như một nguồn lực quan trọng để tạo điều kiện cho việc đạt được mục tiêu trở thành nền kinh tế phát triển, thu nhập cao vào năm 2045. Trung Quốc đổ nhiều tiền hơn vào Việt Nam cũng có nghĩa là Việt Nam sẽ ở vị thế mặc cả tốt hơn khi đối phó với sự hung hăng của Bắc Kinh ở Biển Đông.
Tuy nhiên, FDI của Trung Quốc gia tăng cũng đặt ra cho Việt Nam những thách thức mới. Mặc dù không có áp lực rõ ràng nào từ Hoa Kỳ đối với Việt Nam nhằm buộc Việt Nam hạn chế các tương tác kinh tế với Trung Quốc, nhưng có khả năng Hoa Kỳ có thể do dự trong việc tăng cường quan hệ với Việt Nam nếu Hà Nội tiếp tục xích lại gần Bắc Kinh về mặt kinh tế. Điều này là do lo ngại rằng quan hệ thương mại và đầu tư được tăng cường giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ cao, cuối cùng có thể mang lại lợi ích cho Bắc Kinh. Nhận thức như vậy cũng có thể lan sang hợp tác chiến lược, làm suy yếu thêm lòng tin lẫn nhau và gây tổn hại đến quan hệ song phương trong dài hạn.
Hơn nữa, việc các nhà sản xuất Trung Quốc sử dụng Việt Nam làm điểm trung gian để vượt qua các rào cản thuế quan của Hoa Kỳ gây ra rủi ro đáng kể cho Việt Nam, đặc biệt là trong thời kỳ chính quyền Trump thứ hai. Ví dụ, trong ngành tấm pin mặt trời, khoản đầu tư lớn của các công ty Trung Quốc vào Việt Nam đã dẫn đến sự gia tăng đáng kể xuất khẩu tấm pin mặt trời của Việt Nam sang Hoa Kỳ. Trên thực tế, trong năm 2023, giá trị xuất khẩu tấm pin mặt trời của Việt Nam sang Mỹ đã lên tới 4,2 tỷ đô la Mỹ, chiếm 26% tổng giá trị tấm pin mặt trời nhập khẩu vào nước này trong cùng năm. Do đó, vào tháng 4 năm 2024, Liên minh các nhà sản xuất năng lượng mặt trời của Hoa Kỳ đã nộp đơn thành công để yêu cầu điều tra chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp đối với các tấm pin năng lượng mặt trời nhập khẩu từ Việt Nam. Nếu chính quyền Trump thứ hai mở rộng các cuộc điều tra này sang các sản phẩm khác, điều này có thể dẫn đến các chế tài tiềm tàng đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam, gây tổn hại cho cả nền kinh tế Việt Nam lẫn quan hệ Việt – Mỹ.
Trong chiến dịch tranh cử của mình, Trump đã tuyên bố sẽ tăng thuế đối với hàng hóa Trung Quốc lên tới 60% nếu ông tái đắc cử. Nếu Trump thực hiện cam kết này, Việt Nam có thể sẽ tiếp tục đón nhận dòng vốn đầu tư gia tăng từ cả các nhà đầu tư toàn cầu lẫn các nhà đầu tư Trung Quốc trong những năm tới, khi các nhà đầu tư này tiếp tục đa dạng hóa chuỗi cung ứng của họ ra khỏi Trung Quốc. Mặc dù đây là tin tốt đối với Việt Nam, nhưng Việt Nam cũng nhiều khả năng sẽ phải đối mặt với sự giám sát chặt chẽ hơn từ chính quyền Trump. Trong bối cảnh đó, Hà Nội nên thận trọng khi phê duyệt các dự án của Trung Quốc có mục đích sử dụng Việt Nam làm điểm quá cảnh để vượt qua các rào cản thuế quan của Hoa Kỳ. Hà Nội cũng cần có cách tiếp cận có chọn lọc hơn và thậm chí phải sẵn sàng từ chối các dự án từ Trung Quốc mang tính chất thâm dụng lao động hoặc thâm dụng tài nguyên. Thay vào đó, Việt Nam cần tập trung thu hút đầu tư trong các ngành công nghệ cao và các lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ quan trọng. Bằng cách đó, Việt Nam có thể tận dụng được lợi thế từ nguồn đầu tư ngày càng gia tăng của Trung Quốc, đồng thời giảm thiểu các rủi ro kinh tế và địa chính trị tiềm tàng.
L.H.H.
---
Một phiên bản tiếng Anh của bài viết đã được xuất bản trên chuyên trang bình luận Fulcrum.
Nguồn: Nghiên cứu Quốc tế