Kẹt
lớn rồi. Ông Trọng phải lo tìm một thứ lý thuyết
khác thôi, chứ vừa “thị trường” vừa “xã hội chủ
nghĩa” giả cầy như thế thì bị lật kèo là chết
đứng. Hay lại phải cắp ô sang “ông anh” vấn kế
thôi. Trong sổ ghi được điều gì chưa dùng đến thì
hãy mở ra. Nhưng cũng coi chừng “lão anh”, tướng của
nó là tướng đại xỏ xiên đấy, chẳng phải lần trước
mời lão vào điện Diên Hồng hẳn hoi mà khi sang đến
Singapore lão ta lật ngược lại một cú khiến cả đám
quan chức và nghị sĩ các ngài đều ngay râu đấy là gì.
Bauxite
Việt Nam
Không
phải chuyện nhỏ
Chỉ một tháng sau việc bất thần tung ra biện pháp trừng phạt đánh thuế “thép Việt Nam có nguồn gốc Trung Quốc” lên đến 531%, Hoa Kỳ đã khiến giới chức thương mại Việt Nam chịu sốc thêm một lần nữa khi thông báo với Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) về 8 công ty mà lẽ ra Việt Nam phải đăng ký là “doanh nghiệp nhà nước” theo quy tắc thương mại toàn cầu.
Tám
công ty mà Mỹ khai báo với WTO đều là những cái tên
nổi đình nổi đám ở Việt Nam: Tập đoàn Dầu khí Quốc
gia Việt Nam (PVN) và công ty con là Tổng công ty Dầu Việt
Nam (PV Oil), Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex), Công
ty Xăng dầu Hàng không Việt Nam (Vinapco/SKYPEC), Tổng công
ty Lương thực miền Bắc và Tổng công ty Lương thực
miền Nam (Vinafood I và Vinafood II), Công ty Vàng Bạc Đá
Quý Sài Gòn (SJC) và Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng
sản Việt Nam (Vinacomin).
Thoạt
nhìn, sự kiện trên có vẻ không mấy bất thường trong
quan hệ các thỏa thuận giao thương đa phương quốc tế.
Tuy nhiên xét về chiều sâu quan hệ thương mại song
phương giữa Mỹ và Việt Nam cũng như quan hệ thương mại
đa phương giữa Việt Nam với nhiều quốc gia, sự kiện
này không chỉ mang tính cảnh báo hay như một động tác
trừng phạt mới về thương mại của Mỹ đối với Việt
Nam, mà còn có thể khiến Việt Nam bị không ít quốc gia
quay lưng vì thói “gian lận thương mại” đã và đang
hiển lộ một cách có hệ thống.
“Gian
lận thương mại” như thế nào?
Quốc nạn độc quyền nhà nước
Toàn bộ 8 doanh nghiệp Việt Nam mà Mỹ “tố” với WTO đều là doanh nghiệp nhà nước và do Chính phủ Việt Nam sở hữu trên 50% cổ phần. Trong quan hệ làm ăn ở Việt Nam, các doanh nghiệp này vẫn thường rất tự hào với mác “quốc doanh” của họ. Không những thế, một số trong các doanh nghiệp nhà nước này đã từ quá lâu nay được hưởng thế độc quyền kinh doanh và do đó luôn tạo áp lực đáng kể đối với người tiêu dùng và xã hội về giá cả theo lối “một mình một chợ”.
Hai
tiêu biểu về thế độc quyền như trên là Tập đoàn
Dầu khí Quốc gia Việt Nam và Tập đoàn Xăng dầu Việt
Nam. Bất kể nền kinh tế Việt đã lao vào năm suy thoái
thứ 10 liên tiếp kể từ năm 2018 và đời sống người
lao động Việt ngày càng phải thắt lưng buộc bụng
trước gánh nặng tróc thuế lẫn tham nhũng hoành hành,
quốc nạn độc quền vẫn “bóc lột dân ta đến tận
xương tủy”.
Một
thực tồn khốn quẫn mà thế giới nếu chưa biết thì
hãy cần biết là nạn độc quyền ở Việt Nam đã bất
chấp từ lâu phát sinh nhiều phản ứng xã hội đòi hỏi
Chính phủ Việt Nam phải xóa bỏ vai trò độc quyền của
các doanh nghiệp nhà nước trên, trả kinh doanh về môi
trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng, cũng bất
chấp những yêu cầu liên tục từ WTO và Quỹ tiền tệ
quốc tế (IMF) về việc Việt Nam phải thỏa mãn được
các tiêu chí tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa
doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước, minh bạch
hóa hoạt động tài chính của doanh nghiệp nhà nước và
phải chống tham nhũng có hiệu quả thì mới đủ điều
kiện để quốc tế công nhận Việt Nam là “kinh tế thị
trường”.
Độc
quyền đến mức vào năm 2017, Tập đoàn Dầu khí Quốc
gia Việt Nam đã trở thành một thứ đại án về nạn
tham nhũng và thất thoát tài sản ghê gớm.
Hậu quả nào cho “giấu gốc nhà nước”?
Cần nhắc lại, liên quan vụ thép Trung Quốc, Hoa Kỳ đã áp thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với thép Trung Quốc hồi năm 2015 và 2016. Ngay sau đó, thép được nhập dồn dập vào Hoa Kỳ từ nhiều ngả khác nhau. Các nhà sản xuất thép của Mỹ phát hiện ra sản phẩm của Trung Quốc được chuyển sang các nước thứ ba để lách thuế nên đã khiếu nại lên cơ quan hữu trách Hoa Kỳ.
Trong
vụ tung ra biện pháp trừng phạt đánh thuế “thép Việt
Nam có nguồn gốc Trung Quốc” vào tháng 12/ 2017, Bộ
Thương mại Hoa Kỳ đã xác định rằng có đến 90% sản
phẩm thép từ Việt Nam nhập sang Mỹ có xuất xứ từ
Trung Quốc. Chỉ tính riêng Việt Nam, mặt hàng thép cuộn
lạnh nhập vào Mỹ năm 2015 đã tăng vọt, từ 11 triệu
đôla lên tới 295 triệu đôla. Biện pháp trừng phạt này
chắc chắn sẽ có tác động tiêu cực lên toàn bộ ngành
thép Việt Nam, trong đó có nhiều sản phẩm thép do chính
Việt Nam sản xuất.
Ngay
trước mắt, vụ việc 8 doanh nghiệp nhà nước của Việt
Nam bị phía Hoa Kỳ cáo buộc lên WTO chắc chắn sẽ có
ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động xuất, nhập khẩu
của các doanh nghiệp này, bởi cả 8 doanh nghiệp nhà nước
này đều tham gia hoạt động kinh doanh xuất, nhập khẩu.
Trong
trường hợp nếu Việt Nam không đưa ra được các chứng
cứ có tính thuyết phục để bác bỏ cáo buộc từ phía
Hoa Kỳ, mà điều này thì quá khó, rất có thể việc
xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ - thị trường đang
giúp cho Việt Nam xuất siêu đến gần 30 tỷ USD/năm –
sẽ giảm sút. Và sau đó, các nước phát triển có thể
sẽ ủng hộ quan điểm của Hoa Kỳ, dẫn đến khối
lượng hàng hóa xuất khẩu của 8 doanh nghiệp nhà nước
trên sẽ giảm sút, thậm chí các doanh nghiệp khác ngoài
8 doanh nghiệp nhà nước bị cáo buộc xuất khẩu sang các
thị trường nước ngoài cũng có thể gặp khó khăn.
Vì sao Việt Nam quá cần “kinh tế thị trường”?
Vụ việc 8 doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam cố che giấu nguồn gốc nhà nước không ngoài mục tiêu được lọt vào tiêu chuẩn ưu ái về thuế xuất nhập khẩu của quy chế “kinh tế thị trường”.
Trong
thực tế, “kinh tế thị trường” rất quan yếu đối
với các nhu cầu vay tín dụng, nhận đầu tư trực tiếp
nước ngoài và hưởng ưu đãi trong hoạt động xuất
nhập khẩu quốc tế của Việt Nam. Nếu được công nhận
“kinh tế thị trường”, hàng Việt Nam xuất khẩu sang
nhiều quốc gia sẽ được hưởng mức thuế suất nhẹ
nhàng hơn nhiều so với hiện thời, do đó mang lại lợi
ích cho các danh nghiệp nhà nước, nhất là những doanh
ngiệp độc quyền nhà nước, bổ trợ cho chân trụ của
khối “còn đảng còn mình” hãm bớt đà rệu rã hiện
thời và củng cố thêm hy vọng cho đảng “thở được
ngày nào hay ngày nấy”.
Nếu
được công nhận “kinh tế thị trường”, Việt Nam sẽ
được các tổ chức tín dụng lớn nhất như Ngân hàng
thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng Phát triển
Á Châu cho vay tín dụng với những điều kiện ưu đãi
hơn là cơ chế mặt bằng lãi suất tăng gấp ba và thời
gian ân hạn giảm xuống một nửa như hiện nay. Điều
này sẽ đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh cả đảng
lẫn cầm quyền ở Việt Nam đang phải bán đi những
doanh nghiệp cuối cùng thuộc loại “bò sữa” –như
Sabeco (Tổng công ty Rượu - Bia - Nước giải hát) và
Vinamilk (Tổng công ty Sữa Việt Nam) – để có thêm tiền
đắp đổi cho một ngân sách hụt thu nghiêm trọng và
đang hiện ra nhiều dấu hiệu cạn kiệt và trống rỗng.
Từ
năm 2013 đến nay, những chuyến đi Mỹ của các nhân vật
như ông Trương Tấn Sang – khi đó còn là Chủ tịch
nước, ông Nguyễn Tấn Dũng – khi đó còn là Thủ tướng,
ông Nguyễn Xuân Phúc – Thủ tướng đương nhiệm, vẫn
một mực đề nghị “Mỹ sớm công nhận nền kinh tế
thị trường của Việt Nam”. Nhưng không hề có tính từ
“xã hội chủ nghĩa” gắn kèm cửa miệng.
Đó
là thói khôn vặt của giới chính khách Việt! Khi cần tỏ
ra kiên định thì luôn “chua” tính từ trên vào bất cứ
khẩu hiệu nào. Nhưng để đối ngoại thì lại giấu kín
vào túi quần. Hành vi 8 doanh nghiệp Việt Nam giấu kín
gốc gác “nhà nước” của họ là một minh chứng về
thói biển lận đó.
Rốt
cuộc, quốc tế đã không còn kiên nhẫn nổi với thói
lập lờ về mặt khái niệm trong lúc không có bất kỳ
cải cách nào của Việt Nam. Vào tháng 5/2017, Bộ trưởng
Bộ Thương mại Mỹ Wilbur Ross đã phải nhắc lại “Khởi
động lại cơ chế trao đổi về quy chế thị trường
cho Việt Nam” khi gặp Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân
Phúc tại Washington.
“Đảng ngáng chân Chính phủ” và tính quả báo
Nhưng cũng vào tháng 5/2017, đã xảy đến hiện tượng “đảng ngáng chân chính phủ”. Cho dù Thủ tướng Phúc – với đức tính thực dụng về các giá trị buôn bán – có thực lòng muốn đạt được quy chế “kinh tế thị trường” chăng nữa, “Nghị quyết trung ương 5 về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” do cấp trên của ông Phúc là Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng kiên định lặp lại tại Hội nghị trung ương 5, đã khiến ông Phúc không biết ăn nói ra sao với quốc tế về sự khác biệt một trời một vực giữa “kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa” và “kinh tế thị trường”, chưa kể việc làm sao để đạt được “kinh tế thị trường” đó.
Trong
thực tế ở Việt Nam, sẽ rõ nhất nếu đối chiếu giữa
khối doanh nghiệp nhà nước và khối doanh nghiệp tư
nhân. Khối doanh nghiệp nhà nước chiếm tới 2/3 tổng
tài sản, 60% nguồn vốn tín dụng, 70% nguồn vốn ODA và
được ưu đãi rất lớn về khả năng tiếp cận tín
dụng và những điều kiện về chính sách, nhưng lại
hoạt động quá tệ. Ít nhất 30% doanh nghiệp nhà nước
bị lỗ và khối này chỉ đóng góp được khoảng 1/3
tổng sản phẩm xã hội. Gần như ngược lại, khối
doanh nghiệp tư nhân chỉ chiếm 1/3 tài sản, chẳng mấy
được ưu đãi về tín dụng và chỉ có thể “hớt cặn”
vốn ODA, lại còn bị phân biệt đối xử đủ đường,
nhưng lại tạo ra đến 2/3 tổng sản phẩm xã hội.
Nhưng
đến năm 2017, khi hơi thở khủng hoảng toàn diện đang
phả hầm hập vào gáy chế độ, nghị quyết “hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa” vẫn khư khư ôm ấp doanh nghiệp nhà
nước cùng vai trò chủ đạo của nó, trong lúc chỉ hé
miệng đôi chút về “kinh tế tư nhân có vai trò quan
trọng.”
Đến
lúc này, ngay cả những tờ báo tỏ ra chuyên chính nhất
như Nhân dân,
Quân đội nhân dân
cũng không còn quá mặn mà với điệp khúc “kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Giờ
đây luật “nhân quả” đã báo ứng. 8 doanh nghiệp mang
trên mình gốc gác nhà nước và thói độc quyền “thu
cùng diệt tận” đối với dân chúng Việt Nam đang phải
đưa đầu nhận lãnh hậu quả quay lưng từ Mỹ và cộng
đồng quốc tế. Tiếp sau đó, rất có thể sẽ xuất
hiện thêm những cái tên doanh nghiệp nhà nước khác bị
quốc tế xếp vào danh mục “gian lận thương mại”.
P.C.D.
Tác
giả gửi BVN.
Bài đã
đăng VOA.