Tổng
Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng tại
Paris
Một
trong những mục tiêu quan trọng nhất, hoặc chính là mục
tiêu cao nhất trong chuyến công du Pháp vào cuối tháng Ba
năm 2018 của Nguyễn Phú Trọng, đã được xác nhận: vận
động cho Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - châu
Âu (EVFTA) được Hội đồng châu Âu và Nghị viện châu
Âu “linh hoạt sớm thông qua”.
Người
ta có thể đặt dấu hỏi về việc tại sao ông Trọng
cần có cuộc gặp thứ ba với Chủ tịch Thượng viện
Pháp Gérard Larcher, sau hai cuộc gặp với Tổng thống và
Thủ tướng Pháp mà đáng ra đã mang lại đầy đủ “thể
diện” lẫn “sĩ diện” dành cho “Bậc nhân kiệt thế
thiên hành đạo” - nhân vật đứng đầu đảng cầm
quyền ở Việt Nam.
“Hai
bên bày tỏ mong muốn…”
“Chủ
tịch Thượng viện Pháp cũng khẳng định sẽ tích cực
quan tâm thúc đẩy phê chuẩn Hiệp định Thương mại tự
do Việt Nam - EU sau khi Hiệp định được ký kết, tạo
động lực mới cho hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với
Pháp và các nước EU” - một trong những nội dung mà các
báo đảng như Thông tấn xã Việt Nam, Nhân Dân và Quân
Đội Nhân Dân đưa tin.
Trong
“Tuyên bố chung Việt Nam - Pháp” - bản văn được phát
ra báo chí sau bữa ăn trưa giữa Macron và Trọng, chứ
không như Tuyên bố chung Việt - Mỹ được phát đi sau
một cuộc hội đàm chính thức Obama - Trọng kéo dài đến
hơn một giờ đồng hồ tại Phòng Bầu dục ở Washington
vào tháng Bảy năm 2015, cũng đề cập: “Hai bên bày tỏ
mong muốn sớm ký kết và phê chuẩn Hiệp định thương
mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu trong năm
2018 và đưa Hiệp định vào thực hiện nhanh chóng, hiệu
quả”.
Theo
quy định của Liên minh châu Âu, muốn EVFTA được thông
qua, Việt Nam cần có được toàn bộ đồng thuận của
quốc hội ở 28 nước châu Âu, mà nếu chỉ một nước
không đồng ý thì Hà Nội coi như công cốc và trắng
tay.
Đó
là nguồn cơn vì sao ông Trọng lại phải gặp giới nghị
sĩ của Quốc hội nước Pháp.
Vậy
tương lai ngắn hạn và trung hạn của Hiệp định EVFTA,
hay chính xác hơn là của bản dự thảo của hiệp định
chưa thành hình này - sẽ ra sao hoặc đi về đâu?
Cần
chú ý, “Hai bên bày tỏ mong muốn…” luôn là một cụm
từ thể hiện ý nguyện, thậm chí chỉ là một cụm từ
thuần chất ngoại giao và xã giao chứ chưa hoặc không
thể hiện tính hành động cụ thể. Có lẽ người Pháp
đã tỏ thái độ thận trọng cần thiết khi dùng cụm từ
này để hãm bớt sự nôn nóng muốn “ăn ngay” của
giới chóp bu Hà Nội, với một hiệp định thương mại
mà có thể cứu vãn nền kinh tế lẫn chân đứng của
chế độ Việt Nam trong một khoảng thời gian ít năm nữa.
Có
thể hiểu, “Hai bên bày tỏ mong muốn…” là tất cả
những gì mà Nguyễn Phú Trọng đạt được về EVFTA
trong chuyến công du Pháp. Thực tế quá đỗi sơ sài này,
dù có được nêu trong “Tuyên bố chung Việt - Pháp”
như một sự an ủi, cũng chẳng khác gì kết quả mà giới
quan chức cấp cao của Việt Nam đã nhận, hoặc phải
nhận, trong các chuyến “dân vận” giới chính khách
châu Âu cho EVFTA vào năm 2017.
Mật
vụ Việt Nam thấp thoáng khắp châu Âu
Sau
khi EVFTA đã hoàn tất đàm phán vào cuối năm 2015 nhưng
trải qua nguyên năm 2016 vẫn chẳng có tín hiệu nào được
xúc tiến nhanh hơn việc ký kết và thông qua, đến năm
2017 ông Trọng đã phải liên tiếp chỉ đạo các đoàn
của Chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, Phó thủ
tướng Vương Đình Huệ và Trưởng ban đối ngoại trung
ương đảng Hoàng Bình Quân, chưa kể đoàn của Bộ Công
thương và các bộ ngành khác, đi châu Âu để vận động
từng nước một. Tuy nhiên, một thực tế trơ trọi là
tất cả những chuyến vận động này đều chỉ nhận
được lời hứa hẹn chung chung từ giới chính khách châu
Âu. Tuyệt đối không có lấy một bản ghi nhớ hay thỏa
thuận cam kết nào của bất kỳ quốc gia châu Âu nào về
việc sẽ “giúp Việt Nam sớm vào EVFTA”.
Những
chuyến “dân vận” châu Âu của các đoàn Việt Nam đã
chỉ giúp cho hệ thống báo đảng trong nước có thêm cơ
hội tuyên giáo một chiều về Thụy Điển, Bỉ, Séc…
“hoàn toàn ủng hộ Việt Nam tham gia EVFTA” theo phương
châm “nhét chữ vào miệng” giới quan chức châu Âu,
cùng tinh thần “tự sướng” về “EU sẽ thông qua
EVFTA vào cuối năm 2017” và sau đó là “EU sẽ thông qua
EVFTA vào đầu năm 2018”.
Nhưng
cả thời gian năm 2017 và đầu năm 2018 đã bẵng trôi mà
không có bất kỳ kết quả nào về “EU thông qua EVFTA”.
Tất cả vẫn lặng tăm chờ… cải thiện nhân quyền.
Trong
khi đó, chủ đề nhân quyền Việt Nam ngày càng nóng bỏng
nơi nghị trường châu Âu.
Chỉ
vài ngày trước chuyến thăm Pháp của Nguyễn Phú Trọng,
3 tổ chức nhân quyền quốc tế có trụ sở tại Paris là
Liên Đoàn Quốc tế Nhân quyền (FIDH), Uỷ ban Bảo vệ
Quyền Làm Người Việt Nam (VCHR) và Hội Nhân quyền Pháp
quốc (LDH) đã đồng ký chung một bức thư ngỏ gửi Tổng
thống Pháp Emmanuel Macron, khẩn thiết yêu cầu “hãy đặt
ra câu hỏi nóng bỏng về nhân quyền trong các cuộc tiếp
xúc TBT Nguyễn Phú Trọng”, yêu cầu Pháp tạo áp lực
để Việt Nam phải trả tự do cho các tù nhân lương tâm,
chấm dứt mọi sách nhiễu, bạo hành công an đối với
các xã hội dân sự, cũng như chấm dứt các cuộc đàn
áp tôn giáo và huỷ bỏ mọi điều luật chống nhân
quyền.
Nhưng
không chỉ có thế. Nhân quyền còn liên quan đến… Trịnh
Xuân Thanh.
Vào
tháng Hai năm 2018, trang Borderlex của châu Âu đã chính
thức cho biết để thông qua EVFTA, “EU khăng khăng yêu
cầu Việt Nam phê chuẩn ba hiệp ước của Tổ chức Lao
động Quốc tế (ILO) về tự do lập hội, quyền tổ chức
và thương lượng tập thể, và việc bãi bỏ lao động
cưỡng bức dường như đã mang lại kết quả”, và
khẳng định “Phía sau việc trì hoãn này (EVFTA) còn có
một số lý do chính trị như: ưu tiên đưa ra thỏa thuận
của EU với Nhật Bản, cuộc đụng độ ngoại giao giữa
Berlin và Hà Nội, và Liên minh châu Âu nhấn mạnh rằng
Việt Nam cần tôn trọng hơn các quyền con người và
quyền lao động”.
“Cuộc
đụng độ ngoại giao giữa Berlin và Hà Nội” lại chính
là điều mà một quan chức ngoại giao Đức mô tả “như
phim trong thời chiến tranh lạnh”: vụ Nhà nước Đức
tố cáo mật vụ Việt Nam bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ngay
tại Berlin vào tháng Bảy năm 2018.
Không
chỉ quyết định tạm ngừng quan hệ đối tác chiến
lược với Việt Nam vào tháng 10/2017, hủy bỏ hiệp định
miễn visa cho quan chức Việt Nam đi công tác ở Đức vào
tháng tiếp sau đó, đến tháng Ba năm 2018 Tổng công tố
Liên bang Đức còn tiến hành điều tra Trung tướng Đường
Minh Hưng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh, Bộ
Công an Việt Nam với cáo buộc vào tháng Bảy năm trước,
ông Hưng đã tới Đức để phối hợp tổ chức vụ bắt
cóc ông Trịnh Xuân Thanh tại Berlin.
Cho
tới nay, vẫn chẳng có dấu hiệu nào cho thấy các cuộc
đàm phán giữa Đức và Việt Nam về vụ Trịnh Xuân
Thanh được khai thông. Tất cả vẫn hầu như bế tắc.
Đã
rất rõ là khác nhiều với cuộc công du Mỹ vào năm
2015, chuyến đi Pháp lần này của Nguyễn Phú Trọng đụng
phải bầu không khí đón tiếp lạnh nhạt và đầy cảnh
giác. Cả châu Âu dường như đều thấp thoáng bóng dáng
mật vụ Việt Nam.
Giờ
đây, trong lúc giới chóp bu Việt Nam đang đôn đốc vận
động Ủy ban châu Âu hoàn tất bản thảo của EVFTA vào
cuối tháng 3/2018 để trình Hội đồng châu Âu và sau đó
trình Nghị viện châu Âu với hy vọng “sẽ thông qua vào
mùa thu năm 2018”, việc chính thể Việt Nam vẫn chưa có
bất kỳ động tác cải thiện nhân quyền nào đã khiến
cho tiến trình EVFTA vẫn giậm chân tại chỗ, bất chấp
trong chuyến công du pháp vào tháng Ba năm 2018, ông Trọng
đã “đạo diễn” cho hãng hàng không Việt Nam (Vietnam
Airlines) mua 24 máy bay Airbus của Pháp - một thỏa thuận
thương mại mà cũng giống như vụ Việt Nam đặt mua 100
máy bay Airbus của Pháp trong chuyến công du của Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng đến nước này vào năm 2013 - có trời
mới biết có được thực hiện hay chỉ là “thỏa thuận
khống”.
P.C.D.
Bài
đã đăng trên VOA
Tác
giả gửi BVN