Nền dân chủ dưới cái nhìn của Francis Fukuyama

Thomas MüllerDominic Nahr phỏng vấn Francis Fukuyama

Nguyễn Xuân Xanh trình bày

A person in a suit

AI-generated content may be incorrect.

Francis Fukuyama (27/10/1952)

Lời nói đầu

Một cuộc trò chuyện với nhà khoa học chính trị Francis Fukuyama, tác giả cuốn sách “Sự kết thúc của lịch sử” về  Hoa Kỳ, Trung Quốc và tương lai của nền Dân chủ do báo Neue Zürcher Zeitung (NZZ), Thụy Sĩ, thực hiện: Thomas Müller (văn bản), Dominic Nahr (hình ảnh). Francis Fukuyama được cho là nhà khoa học chính trị nổi tiếng nhất thế giới và, ở tuổi 72, vẫn là một người bảo vệ kiên định cho nền dân chủ tự do. Báo NZZ đã gặp ông tại sảnh khách sạn của ông ở Zurich, nơi ông đang lưu trú để tham dự lễ hội văn học. Đăng ngày 11 tháng 7 năm 2025. Xin cảm ơn Báo NZZ. (Tiêu đề hơi khác với NZZ)

Quyển sách “cột mốc” của Francis Fukuyama, xuất bản đầu tiên năm 1992 tại Avon Books.

Từ Lời bạt của lần tái bản năm 2006 của sách, Francis Fukuyama đã viết rằng, cụm từ “Sự kết thúc của lịch sử” xuất phát từ Hegel, và từ Marx nhiều hơn, rằng nhiều trí thức tiến bộ, từ các quốc gia phát triển cũng như kém phát triển, trong giai đoạn từ khi Tuyên ngôn Cộng sản của Marx/Engels ra đời năm 1848 đến cuối thế kỷ XX đã tin rằng lịch sử sẽ kết thúc, và sẽ kết thúc trong một xã hội cộng sản không tưởng, thay thế cho chủ nghĩa tư bản. Nhưng rồi, lịch sử nhân loại lại hướng đến cái được gọi là “nền dân chủ tư sản”.

Dường như không có một hình thái xã hội nào cao hơn có thể vượt lên trên một xã hội dựa trên hai nguyên tắc song hành là tự do và bình đẳng. Alexandre Kojève, nhà triết học Hegel lớn người Nga gốc Pháp, đã nói đáng lẽ lịch sử đã kết thúc vào năm 1806, năm mà Napoleon đánh bại chế độ quân chủ Phổ trong trận Jena-Auerstadt chỉ trong một đêm, qua đó mang những nguyên tắc của Cách mạng Pháp đến vùng đất Đức của Hegel. Mọi thứ xảy ra sau đó chỉ là sự bổ sung, bởi những nguyên tắc đó đã được phổ biến trên toàn thế giới. Hegel, không ai khác, lúc đó đã viết trong một bải giảng năm 1806 như sau đã chào đón tin vui như hừng đông của một thời kỳ mới:

Chúng ta đang đứng trước ngưỡng cửa của một thời đại quan trọng, một thời kỳ lên men, khi tinh thần tiến lên phía trước với một bước nhảy vọt, bỏ qua hình dạng trước đó và khoác lên nó mình một hình dạng mới. Toàn bộ khối lượng biểu hiện, khái niệm và mối liên kết trước đây kết nối thế giới của chúng ta với nhau đang tan rã và sụp đổ như một bức tranh trong mơ. Một giai đoạn mới của tinh thần đang chuẩn bị ra đời. Triết học đặc biệt phải chào đón sự xuất hiện của nó và thừa nhận nó, trong khi những người khác, những ai phản đối nó một cách bất lực, bám víu vào quá khứ.

Samuel Huntington, thầy của Francis Fukuyama, trong tác phẩm “Sự Xung Đột Giữa Các Nền Văn Minh và Việc Tái Lập Trật Tự Thế Giới” đã đưa ra một tầm nhìn rất khác, rằng nguồn gốc lịch sử của nền dân chủ tự do thế tục hiện đại nằm ở Kitô giáo. Thật ra, Hegel, Tocqueville, và Nietzsche, cùng nhiều nhà tư tưởng khác, cũng đã lập luận rằng nền dân chủ hiện đại là một phiên bản thế tục của học thuyết Kitô giáo về phẩm giá phổ quát của con người, và điều này hiện đã trở thành một học thuyết chính trị phi-tôn giáo về nhân quyền. Điều đó giống như các phương pháp khoa học, nền tảng của nền văn minh công nghệ hiện đại của chúng ta, cũng xuất hiện vì những lý do lịch sử ngẫu nhiên tại một thời điểm nhất định trong lịch sử châu Âu cận đại, dựa trên tư tưởng của các triết gia như Francis Bacon và René Descartes, nhưng dần dần đã trở thành tài sản chung của toàn nhân loại, và có thể sử dụng được dù bạn là người châu Á, châu Phi hay Ấn Độ. Hoặc học thuyết kinh tế chính trị của Adam Smith cũng thế.

Nguồn gốc của “Lịch sử” theo nghĩa Marx-Hegel, Francis Fukuyama viết tiếp, cuối cùng nằm ở khoa học và công nghệ như những công cụ ngày càng tinh vi và chính những thứ đó đã chấp cánh cho thế giới kinh tế bay cao, hết tiến bộ động cơ hơi nước đến tiến bộ bóng bán dẫn và máy tính, khác với thời đại của than, thép, không ngừng tạo nên sự gia tăng năng suất khổng lồ, thúc đẩy chủ nghĩa tư bản hiện đại phát triển vượt bậc, lan tỏa khắp thế giới.

Sự giàu có lần lần ảnh hưởng lên chính trị, làm cho nó ngày càng cởi mở hơn, dân chủ hơn. Theo nghiên cứu của nhà xã hội học Seymour Martin Lipset, khi một quốc gia vượt qua mức thu nhập bình quân đầu người khoảng 6.000 đô la Mỹ, quốc gia đó không còn là một xã hội nông nghiệp nữa. Quốc gia đó có thể sẽ có một tầng lớp trung lưu sở hữu tài sản, một xã hội dân sự đa dạng, có trình độ giáo dục đại chúng và tinh hoa cao hơn. Tất cả những yếu tố này có xu hướng thúc đẩy khát vọng tham gia dân chủ, và do đó thúc đẩy nhu cầu về các thể chế chính trị dân chủ. Như nhà kinh tế Ấn độ giải Nobel Amartya Sen nhận định, “Dân chủ như một giá trị nội tại”. Cựu Tổng thống Hàn Quốc Kim Dae-jung cũng cho rằng “Không phải lịch sử (truyền thống), mà dân chủ mới là định mệnh của chúng ta”.

Theo Fukuyama, Huntington đã đúng khi nói rằng chúng ta sẽ không bao giờ muốn sống trong một thế giới của sự đồng nhất về văn hóa, một nền văn hóa toàn cầu mà Huntington gọi là “Con người Davos”. Thật vậy, chúng ta sẽ không muốn sống trong một thế giới mà chúng ta có cùng những giá trị văn hóa phổ quát dựa trên một kiểu chủ nghĩa Mỹ toàn cầu hóa nào đó. Chúng ta sống vì những truyền thống lịch sử chung, các giá trị tôn giáo và những khía cạnh khác của ký ức chung tạo nên cuộc sống chung.

Lịch sử con người có lẽ sẽ chỉ kết thúc, khi khoa học và công nghệ kết thúc, điều thật sự khó tin. Thời đại trí tuệ nhân tạo mở ra chân trời mới chưa ai lường được chiều sâu của nó, và càng không thể phóng tầm nhìn về sự phát triển của lịch sử ở cuối đường. Rồi chuyện gì sẽ xảy ra sau đó. Một 1806, hay 1989 mới, hoặc 1984 của Orwell? Chưa biết. Những vấn đề rất phức tạp.

Nguyễn Xuân Xanh

NỘI DUNG TRẢ LỜI PHỎNG VẤN

Thưa ông Fukuyama, năm 1989, ông đã viết bài luận nổi tiếng “Sự kết thúc của lịch sử”. Kể từ khi Nga xâm lược Ukraine, nhiều người đã tuyên bố sự trở lại của lịch sử. Liệu nó có trở lại không?

Theo nghĩa hiển nhiên thì đúng vậy. Năm 1989, chúng ta đang ở giữa một giai đoạn dài dân chủ hóa toàn cầu, đỉnh điểm là sự sụp đổ của Liên Xô cũ. Giờ đây, diễn biến này đã đảo ngược. Theo nghĩa này, chúng ta đang trở lại một thế giới của địa chính trị (Geopolitik) và quyền lực (Macht).

Trong bài luận (quyển sách), ông đã lập luận rằng, với nền dân chủ tự do, nhân loại đã đạt đến hình thức chính quyền cao nhất. Putin và Tập Cận Bình có lẽ có quan điểm khác.

Liệu có thực sự có một hình thức chính phủ nào tốt hơn cho người dân hay không vẫn là một cuộc tranh luận mang tính quy phạm. Tôi vẫn chưa thấy có lựa chọn nào khác. Tôi cũng không tin có ai coi hình thức chính phủ Nga là hình thức tổ chức chính trị lý tưởng. Đó là một chế độ độc tài phủ nhận quyền công dân và gây ra những cuộc chiến tranh đẫm máu, vô nghĩa. Một lựa chọn khả thi hơn có lẽ là Trung Quốc, một quốc gia đã thành công trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế công nghệ cao. Nhưng ngay cả trong trường hợp của Trung Quốc, tôi tin rằng sẽ có những điểm yếu lâu dài bởi vì đất nước này tập trung quyền quyết định vào tay một người. Tôi cũng tin rằng nhiều người Trung Quốc muốn sống trong một xã hội với nhiều tự do hơn.

Tuy nhiên, có điều gì đó đã thay đổi trong những năm gần đây. Các nước BRICS tạo thành một khối phi tự do (illiberal), khối này thậm chí còn lớn mạnh hơn cả phương Tây về mặt kinh tế.

Vâng, có khối này tồn tại. Nhưng tôi không nghĩ nó được thúc đẩy bởi bất kỳ ý tưởng bao quát nào khác ngoài sự bất mãn với quyền lực phương Tây. Ví dụ, Ấn Độ vẫn là một nền dân chủ. Về phần mình, Brazil thậm chí còn là một nền dân chủ tương đối lành mạnh, nhưng đơn giản là có lý do để không ưa Hoa Kỳ. Nam Bán cầu phân tán thành nhiều kiểu hệ thống chính trị khác nhau và không đưa ra một cách thức tổ chức xã hội nào khác. Tôi nghĩ nếu bạn muốn tìm một lời phê phán nghiêm túc hơn cho luận điểm của tôi, thì phê phán đó liên quan đến Hoa Kỳ.

Ông có thấy mối đe dọa lớn nhất đối với nền dân chủ tự do ở Hoa Kỳ hay không?

Tôi tin rằng Trump là một tổng thống thực sự độc đoán, người đang trong quá trình phá hủy toàn bộ trật tự hiến pháp của Hoa Kỳ.

Ông không phải là người hâm mộ Trump. Một số trí thức nổi tiếng đã rời khỏi đất nước. Ông có dự định di cư không?

Không.

Ông có tin rằng Trump sẽ dễ dàng bị bãi nhiệm thông qua bầu cử dân chủ không?

Tôi sẽ rất ngạc nhiên nếu Đảng Dân chủ không giành lại được ít nhất Hạ viện trong cuộc bầu cử năm tới. Một số chính sách của ông ta (D. Trump), đặc biệt là thuế quan, sẽ có tác động rất tiêu cực đến nền kinh tế. Người dân Mỹ trung bình sẽ gánh chịu hậu quả nặng nề nhất. Hơn nữa, Trump vừa thông qua dự luật ngân sách vô lý, phân bổ khoảng 170 tỷ đô la để thành lập một lực lượng cảnh sát quốc gia mới nhằm trục xuất người nhập cư. Vậy nên ông ta đang trong quá trình tạo ra một nhà nước cảnh sát. Tôi không nghĩ điều đó sẽ được ủng hộ. Người dân muốn biên giới phía Nam được tuần tra. Họ không muốn một nhà nước cảnh sát.

Tại sao nền dân chủ tự do lại phải chịu nhiều áp lực như vậy, không chỉ ở Hoa Kỳ?

Các xã hội tự do thiếu một nguồn bản sắc chung mạnh mẽ để dựa vào, chẳng hạn, tôn giáo, sắc tộc, hay quốc tịch. Tôi không nghĩ một bản sắc như vậy còn khả năng tồn tại trong thế giới hiện đại. Các xã hội quá đa nguyên cho điều đó. Lấy một quốc gia như Ấn Độ làm ví dụ: Thủ tướng Modi có thể đang cố gắng xây dựng bản sắc dân tộc của Ấn Độ dựa trên Ấn Độ giáo, nhưng điều đó lại bỏ sót một phần tư tỷ người không theo Ấn Độ giáo. Các xã hội tự do thành công là những xã hội có một xã hội dân sự năng động, nơi mọi người đoàn kết với nhau trên cơ sở tôn giáo hoặc một niềm đam mê chung nào đó. Điều giới hạn là họ không áp đặt niềm đam mê đó lên người khác. Một xã hội tự do đòi hỏi sự khoan dung đối với những quan điểm khác nhau về cuộc sống tốt đẹp.

Tại sao chúng ta ngày càng ít có khả năng làm được điều này ở thế giới phương Tây?

Có nhiều yếu tố. Thứ nhất là sự phát triển công nghệ. Sự trỗi dậy của Internet, theo nhiều cách, đã làm suy yếu một nền tảng chung cho kiến thức thực nghiệm đơn giản. Ví dụ, Donald Trump có thể dễ dàng tuyên bố rằng ông đã bị đánh cắp cuộc bầu cử năm 2020, và nhờ có Internet, ông ta có thể thuyết phục được khoảng 30 đến 40 phần trăm dân số Mỹ tin vào điều đó. Tôi không nghĩ điều đó có thể xảy ra cách đây 20 hoặc 30 năm. Hồi đó, giới tinh hoa nắm quyền kiểm soát lớn hơn đối với những gì mọi người hiểu là sự thật. Thêm vào đó là một số diễn giải sai lệch về chủ nghĩa tự do đã gây ra phản ứng dữ dội.

Cái gì chẳng hạn?

Ở phía hữu, có cái gọi là chủ nghĩa tân-tự do, một kiểu áp dụng cực đoan của nền kinh tế thị trường, làm gia tăng bất bình đẳng ở các quốc gia. Ở phía bên kia, có chính trị của bản sắc, từ bỏ nguyên tắc tự do về phẩm giá bình đẳng cho tất cả mọi người và thay vào đó chia con người thành các nhóm dựa trên sắc tộc hoặc giới tính. Ví dụ, tư tưởng phản tự do này đã gây ra phản ứng từ người da trắng ở Hoa Kỳ.

Các xã hội tự do và nền dân chủ tự do luôn gắn liền chặt chẽ với thị trường tự do. Nhưng hy vọng về “thay đổi thông qua thương mại” vẫn chưa thành hiện thực. Tại sao?

Trước hết, chính sách tự do hóa được theo đuổi trong những năm 1990 và 2000 đã dẫn đến mức độ bất bình đẳng cao. Sau khi Trung Quốc gia nhập WTO vào đầu những năm 2000, khoảng hai đến ba triệu công nhân Mỹ đã thất nghiệp. Nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng, nhưng tầng lớp lao động Mỹ lại chịu thiệt hại nặng nề. Hơn nữa, việc tự do hóa thị trường tài chính là một sai lầm lớn. Những gì xảy ra với tầng lớp lao động Mỹ đã trực tiếp dẫn đến phản ứng dữ dội xung quanh cuộc bầu cử của Trump năm 2016.

Điều gì quan trọng hơn trong phản ứng dữ dội này: mất đi bản sắc chung hay bất bình đẳng kinh tế?

Đây là điều chúng ta đã tranh luận nhiều năm nay. Nhưng hai điều này có liên quan đến nhau. Khi bạn mất việc, bạn cũng mất đi rất nhiều phẩm giá. Nếu bạn là một thợ mỏ than ở Tây Virginia, có cha và ông nội làm thợ mỏ và kiếm được nhiều tiền, và đột nhiên bạn mất việc, điều đó không chỉ có nghĩa là thiếu thốn về kinh tế mà còn mất đi địa vị xã hội. Và điều đó, đến lượt nó, dẫn đến rất nhiều bất ổn xã hội. Ví dụ, việc sử dụng ma túy đã tăng mạnh trong nhóm dân số này. Và còn một vấn đề lớn khác mà chúng ta chỉ mới bắt đầu nhận ra.

Điều gì?

Hố ngăn cách giới tính. Những thay đổi do biến đổi kinh tế gây ra đã đặc biệt ảnh hưởng đến vị thế của nam giới trẻ. Cuốn sách ít được đọc nhất của tôi, được xuất bản năm 1999 có tựa đề “The Great Disruption” (Sự đổ vỡ lớn). Lập luận chính là sự chuyển đổi từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế thông tin sẽ có tác động lớn đến lực lượng lao động, đặc biệt là việc trao quyền cho hàng trăm triệu phụ nữ đã tham gia thị trường lao động ở các nước công nghiệp hóa từ cuối những năm 1960. Đặc biệt ở các cấp học thấp hơn, phụ nữ có thành tích tốt hơn nam giới đáng kể. Nhiều nam giới trẻ không thấy tương lai cho mình, và điều này gây ra nhiều hậu quả. Các ứng cử viên cánh hữu có nhiều khả năng đáp lại sự phẫn nộ của nam giới trẻ tuổi, những người ngày càng khó tìm được sự công nhận và tôn trọng.

Chúng ta có thể làm gì để chống lại điều đó?

Đó là câu hỏi lớn. Sự chuyển dịch giới tính này sẽ ảnh hưởng đến mọi xã hội. Nó cũng đang diễn ra ở Trung Quốc ngay lúc này. Một trong những vấn đề lớn của Trung Quốc là việc nước này đào tạo ra hàng chục triệu sinh viên tốt nghiệp đại học mỗi năm, và tỷ lệ thất nghiệp trong số sinh viên trẻ mới tốt nghiệp lại lên tới 20%. Chính phủ Trung Quốc thậm chí còn ngừng công bố số liệu thống kê vì chúng quá xấu. Cho nên, các chính phủ độc tài không có câu trả lời cho những câu hỏi này. Giờ đây, chúng ta lại một lần nữa đối mặt với những thay đổi lớn, được thúc đẩy bởi trí tuệ nhân tạo. Chúng ta không biết mình sẽ thích nghi như thế nào với những thay đổi về xã hội, chính trị và thị trường lao động.

Ông đã viết “Sự kết thúc của lịch sử” trong một thời kỳ của hy vọng, một khoảnh khắc của lạc quan. Ngày nay, con người bi quan hơn nhiều. Liệu chủ nghĩa tự do có thể tồn tại nếu thiếu lạc quan?

Chúng ta hãy chờ xem. Nhưng có một điều rõ ràng: chủ nghĩa tự do không phải là một cỗ máy tự vận hành. Nếu mọi người không tin vào nó và không đấu tranh vì nó, nó sẽ không thể tồn tại. Nhưng tôi tin rằng có rất nhiều cuộc đấu tranh như vậy trên thế giới. Hãy nhìn vào Ukraine. Sự tận tụy của người Ukraine đối với chủ nghĩa tự do thực sự phi thường. Họ đã chịu đựng những đau khổ không thể tin được để bảo vệ nền độc lập và tự do của mình.

Hồi đó ông cũng viết rằng ông cảm thấy một nỗi khao khát mãnh liệt về thời kỳ mà lịch sử vẫn còn tồn tại. Ông có muốn diễn đạt lại điều đó nữa không?

Tôi nghĩ, ai cũng cảm nhận được nỗi khao khát đó. Sau ngày 7 tháng 10, mọi trường đại học ở Mỹ đều bị những người biểu tình ủng hộ Palestine tràn ngập. Tại sao ở vấn đề này? Bởi vì họ không có vấn đề công bằng xã hội nào cần giải quyết trong xã hội của mình, vậy mà họ lại muốn đấu tranh cho người khác. Vậy nên, vấn đề là lấp đầy một khoảng trống được tạo ra khi bạn có một xã hội dân chủ, an toàn và thành công. Mọi người vẫn muốn đấu tranh, và vì vậy họ sẽ đấu tranh cho bất kỳ lý tưởng nào họ tìm thấy.

Liệu điều này có nghĩa là nền dân chủ tự do sẽ luôn bất ổn không?

Đó là lập luận tôi đã nêu trong cuốn sách đầu tay. Mọi người không bao giờ đọc năm chương cuối của “Hồi kết của Lịch sử và Con người Cuối cùng”. Ở đó có đoạn viết: Nếu người dân sống trong một nền dân chủ thành công, hòa bình và ổn định, và họ không có cơ hội đấu tranh cho dân chủ, thì cuối cùng họ sẽ chống lại dân chủ. Và tôi nghĩ đó là những gì chúng ta đang thấy hiện nay.

T.N. – D.M. – F.F. 

*

Cảm ơn. Tác giả nợ những lời cảm ơn sâu sắc đến người bạn T.M.K. (Berlin) đã luôn luôn đồng hành và cung cấp cho tôi những tài liệu nghiên cứu quý giá, ở đây cũng như ở những nơi khác, giúp cho công việc được thực hiện rất nhanh chóng. 

Nguồn bản dịch: rosetta.vn

  

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn