Cải tổ Kinh tế tại Trung Quốc: Biết dễ làm khó

Ngô Nhân Dụng

Vào năm 2009, trong số 10 công ty giá cao nhất thế giới (tính theo tổng số giá các cổ phần), đứng đầu là PetroChina (lúc đó trị giá hơn 340 tỷ), thứ nhì là Exxon Mobil, một công ty Mỹ đã làm nghề khai thác dầu khí hơn 100 năm. Trong mười công ty lớn nhất này, Trung Quốc chiếm bốn chỗ; Ngân hàng Công thương (ICBC), đứng hạng ba, Ngân hàng Kiến thiết (CCB) đứng hạng 8 và Công ty viễn thông China Mobile đứng hạng 6. Công ty dầu khí Petrobas, của nước Brazil đứng hạng 9 cũng là một xí nghiệp quốc doanh. Sau cuộc khủng hoảng tài chánh năm 2008, kinh tế các nước Âu Mỹ bị đình trệ, trong mấy năm liền Mô hình Kinh tế Trung Quốc được nhiều người khâm phục, muốn bắt chước. Trong thời gian đó, các công ty quốc doanh khắp thế giới đều lên giá. Trong đám mười công ty lớn nhất vào năm 2009, nước Mỹ chỉ góp mặt với ba công ty, Exxon, Walmart, và Microsoft.

PetroChina bắt đầu bán một số cổ phần trên thị trường Thượng Hải năm 2007, là một công ty lớn, chiếm độc quyền một thị trường tiêu thụ hàng trăm triệu người, họ lại được Chính phủ Bắc Kinh giúp đỡ. Đó là những điều kiện rất thuận lợi để kiếm ra tiền, nhiều nhà đầu tư muốn được chia một miếng trong cái nồi cơm có bảo đảm đó bảo nhau mua cổ phần; cho nên chỉ trong một thời gian ngắn, giá cổ phần của PetroChina tăng vọt lên. Có lúc, đem cộng các cổ phần của PetroChina thì giá trị lên tới một ngàn tỷ mỹ kim, lớn hơn tất cả các công ty quốc tế khác, từ Âu Mỹ qua Á châu vào lúc đó! Trong lịch sử chưa một công ty nào trên thế giới đạt tới giá trị 1000 tỷ đô la. Mà cho tới hôm nay cũng không có. Như trong năm 2013, công ty có giá trị cao nhất thế giới là Apple, chắc ai cũng biết cái tên này. Tổng số các cổ phần của Apple (vào đầu tháng Mười 2013) chỉ lên tới 450 tỷ đô la thôi; công ty đứng hạng nhì vẫn là Exxon Mobil, giá trị tổng cộng chỉ hơn 310 tỷ! Còn PetroChina bây giờ ra sao? Hiện đang họ đứng hàng thứ 10. Nếu đem cộng tất cả các cổ phần của PetroChina lại, tổng số giá trị chỉ còn là 230 tỷ đô la. Ngày 2 tháng Chín 2013 vừa qua, Chủ tịch công ty là Tưởng Khiết Mẫn (蒋洁敏,Jiang Jiemin) đã bị ngưng chức; ông ta bị điều tra vì “vi phạm kỷ luật nghiêm trọng!” Đó là một cách nói khéo, vì không muốn nói tới chữ “tham nhũng”.

Trị giá của PetroChina đã lên cao rồi tụt xuống, cùng với uy tín của cái gọi là Mô hình kinh tế Trung Quốc. Trong những năm 2007, 08, kinh tế Mỹ và các nước Tây phương suy thoái, nhiều người nhìn về phía nước Trung Hoa. Họ thấy kinh tế Trung Quốc thoát được tai họa này, vì các quyết định quan trọng nhất nằm trong tay nhà nước, các ngân hàng lớn, các đại công ty đều do nhà nước kiểm soát. Mô hình này gọi là “tư bản nhà nước”, tức là cũng sử dụng cơ chế thị trường như lối tư bản nhưng mọi quyết định lớn đều do nhà nước nắm vai chủ động chứ không phải tư nhân.

Nhưng từ năm 2009 đến nay, số phận của các công ty và ngân hàng quốc doanh đã xuống, tại Trung Hoa cũng như ở Nga và Brazil. Những nhược điểm của kinh tế chỉ huy lại xuất hiện, ngày càng thấy rõ hơn. Kinh tế ở Mỹ đang hồi phục từ từ; trong khi đó thì Trung Quốc đang phải giảm bớt tốc độ phát triển để tránh cho thị trường địa ốc không nổ như bong bóng và các ngân hàng khỏi phá sản vì nợ xấu chồng chất. Nếu hai điều đó xảy ra thì địa vị của Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ lung lay.

Đầu tháng 11 năm 2013 hội nghị Trung ương kỳ thứ ba (khoá 18) của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã công bố những quyết định cải tổ kinh tế sâu và rộng hơn, chính vì muốn tránh nguy cơ kề trên. Trước ngày họp, ông Du Chính Thanh (Yu Zhengsheng, 俞正), nhân vật đứng hàng thứ tư trong Thường vụ Bộ Chính Trị đã báo rằng hội nghị sẽ đưa ra những quyết định mới “chưa bao giờ thấy”. Hoàn cầu thời báo, tiếng nói của đảng Cộng sản, đã so sánh các quyết định của hội nghị vừa rồi với hội nghị Trung ương thứ ba năm 1978, khi Đặng Tiểu Bình bắt đầu thay đổi toàn thể cơ cấu nền kinh tế.

Một cái bẫy dễ sụt chân

Những chính sách mới được đưa ra để cứu nền kinh tế Trung Quốc thoát khỏi cảnh bế tắc vẫn được đặt tên là “cái bẫy của mức lợi tức bậc trung” (middle income trap). Giới lãnh đạo Trung Quốc được các chuyên gia kinh tế của họ cho biết về mối nguy này. Hai ông Chủ tịch Tập Cận Bình và Thủ tướng Lý Khắc Cường có vẻ quyết tâm dẫn nền kinh tế quay sang một ngã rẽ. Nhưng giới lãnh đạo Trung Quốc có thực hiện được những cải tổ cần thiết đó hay không, và thực hiện với tốc độ nào, đó còn là một câu hỏi khó trả lời. Bởi vì biết thì dễ, làm thì khó. Cũng giống như ai cũng biết người bệnh mập phì phải bớt ăn và tập thể dục, nhưng vẫn không kiêng được, Vì mỗi cuộc thay đổi cơ chế đều khiến cho nhiều người mất những quyền lợi họ đang được hưởng. Họ sẽ cưỡng lại, trì hoãn, để giữ nguyên trạng càng lâu càng tốt.

Năm ngoái, 2012, ông Lý Khắc Cường đang làm Phó Thủ tướng, ông nói rất hoan nghênh một bản phúc trình, trong đó nói đến mối nguy của “cái bẫy lợi tức bậc trung”. Hai cơ quan cùng ký tên trên một bản phúc trình về kinh tế Trung Quốc, là Ngân hàng Thế giới (WB) và Trung tâm Nghiên cứu Phát triển thuộc Quốc vụ viện (chính phủ) Trung Quốc (Development Research Centre, DRC, 国务院发展研究中心). Bản phúc trình này gọi là Trung Quốc năm 2030 (中国 2030) khuyến cáo phải cải tổ sâu rộng cơ chế kinh tế, nếu không sẽ dần dần bị tắc nghẽn, vì “cái bẫy lợi tức bậc trung”. Nhiều quốc gia đã bị rơi vào cái bẫy này. Tiêu biểu là những nước như Brazil, Mexico và một số quốc gia ở Trung Đông. Khi kinh tế các nước đó phát triển tới mức lợi tức theo đầu người khoảng 5.000 đô la một năm, rồi không tiến thêm được nữa. Có những nước đã vượt qua được cái bẫy này trong quá trình phát triển, như Nam Hàn, Đài Loan, Singapore. Hiện nay Trung Quốc đang bước vào mức lợi tức bình quân 5.000 USD, và chưa thấy bắt đầu các bước cần thiết để thoát ra khỏi cái bẫy đó.

Quá trình phát triển bắt đầu thường dễ dàng, kinh tế cất cánh lên nhờ sử dụng được những tiềm năng trước đó vẫn bị bỏ quên. Ở một số quốc gia, đó là tiềm năng nằm dưới đất, như quặng mỏ, rừng, biển, vân vân, chỉ cần lấy từ đất lên mà khai thác sinh ra của cải. Ở một số nước khác tiềm năng nằm trong số lao động thặng dư chưa được sử dụng đúng mức; cũng có thể được khai thác; Trung Quốc và Ấn Độ có những khối người sẵn sàng làm việc, chỉ cần tạo cơ hội cho họ.

Trung Quốc đã phát triển nhanh trong hàng chục năm, với tỷ lệ tăng trưởng 10% một năm, nhờ khai thác sức lao động của số dân đông đúc chưa có đủ việc làm. Nền kinh tế dựa trên hàng xuất khẩu bán với giá rẻ vì tiền lương trả cho công nhân rất thấp so với thế giới. Số tiền thu vào được dùng để đầu tư trong các công trình xây dựng, tạo công việc làm cho số dân đông đúc này. Sức gia tăng của cả nền kinh tế là do hai nguồn đóng góp vào, lao động và vốn. Mỗi năm có nhiều người làm việc hơn, và thêm tiền vốn được đem sử dụng. Tất cả các nước Á Đông đã phát triển trong thập niên 1970 đều đi qua chặng đường này: Gia tăng hai yếu tố sản xuất là số vốn và số người làm việc, tự nhiên các hoạt động kinh tế gia tăng. Nhưng theo kinh nghiệm của các nước đã đi qua chặng đường này, sẽ tới lúc cả hai nguồn tiếp sức đó cạn dần. Hơn nữa, trong giai đoạn mới bắt đầu phát triển, các nước đang lên có ưu thế cạnh tranh là có thể sản xuất với giá thành rất hạ. Nhưng sẽ tới lúc các công nhân cũng muốn được tăng lương và giá sử dụng tài nguyên, đất đai, điện nước cũng tăng theo. Đó là lúc nền kinh tế phát triển tới mức “lợi tức bậc trung”. Vào thời điểm này, cần có những đột phá. Nếu không thì kinh tế sẽ rơi vào một cái bẫy trì trệ khó thoát được.

Bước đột phá chính yếu là làm sao gia tăng sản năng (productivity) của những người đang làm việc. Cùng một số lao động đang được sử dụng, làm cách nào cho mỗi người có thể sản xuất được những hàng hóa hay dịch vụ có giá trị cao hơn? Nói rõ hơn, công việc của người lao động xưa nay vẫn làm tăng giá trị của những thứ đi qua tay họ, nay phải làm sao cho cái “giá trị gia tăng” này lớn chứ không nhỏ như trước. Đối với một cá nhân, điều này dễ hiểu. Một người thợ mộc có thể tăng sản năng lao động nếu dùng máy móc tinh xảo thay vì dùng cưa, đục cũ kỹ. Những miếng gỗ, ván đi qua tay anh hay chị ta biến thành những đồ vật, mà phần đóng góp của anh chị ta trong một giờ làm việc giúp cho giá trị của mấy miếng gỗ tăng lên nhiều hơn; tức là “giá trị gia tăng” cao hơn.

Trong toàn thể nền kinh tế, để hiểu khái niệm “gia tăng sản năng lao động” chúng ta có thể nghĩ tới một thí dụ giản dị. Những nước đã tận dụng sức lao động rẻ tiền của người dân để kiếm lợi đều biết không thể nào để người dân mình tiếp tục ngồi bên cái máy khâu hay máy dập làm ra những món hàng rẻ tiền mãi được. Sẽ tới lúc phải có những công việc tạo ra các sản phẩm đắt tiền hơn. Từ việc may quần áo, giày dép tiến qua việc lắp ráp hàng điện tử, đó là dấu hiệu sản năng lao động đã tăng lên rồi. Người công nhân làm công việc mới này cần hiểu biết nhiều kỹ thuật khó hơn, họ được trả lương cao hơn. Những linh kiện đi qua tay người thợ, biến thành một cái laptop hay iPad, có giá trị hơn là những khúc vải qua tay người ngồi đạp cái máy khâu. Nói theo kinh tế học, các công nhân mới đã tạo ra “giá trị gia tăng” cao hơn. Nhưng sẽ tới lúc ngay cả việc lắp ráp hàng điện tử cũng vẫn bị coi là “việc rẻ tiền,” vì không làm gia tăng giá trị các sản phẩm bao nhiêu so với những công việc đòi hỏi tài chuyên môn. Thay vì chỉ lo việc lắp ráp, chỉ cần khéo tay; bây giờ tiến tới trình độ tự mình sản xuất những thứ linh kiện được lắp ráp, cần hiểu biết kỹ thuật và tổ chức công việc khó hơn. Khi người lao động làm những công việc có “giá trị gia tăng” cao hơn nữa; cả xã hội cùng thêm sung túc. Các nước thường bước vào mức “lợi tức bậc trung” sau khi quá trình công nghiệp hóa bước vào giai đoạn này.

Tuy nhiên, nếu không tiến xa hơn thì nền kinh tế sẽ rơi vào cái bẫy bế tắc. Bởi vì ngay trong tiến trình sản xuất lấy hàng hóa, người ta vẫn chỉ sử dụng những kỹ thuật đã có sẵn, được phát minh từ những nước tiên tiến. Các kỹ thuật được chuyển giao, hay được nhập cảng, nhưng vẫn là thứ kỹ thuật do người khác đã phát minh ra. Ngay cả cách tổ chức công việc, các kỹ thuật quản lý cũng đã được người nước ngoài đặt ra, chỉ cần bắt chước là đủ. Nhưng bắt chước mãi thì chỉ đi sau người ta mà thôi. Rồi sẽ tới lúc những lợi thế của mình cũng không còn là lợi thế nữa. Những lợi thế như lương công nhân rẻ, giá đất đai và chi phí về phúc lợi thấp, cũng không thể giữ ở mức thấp kém mãi.

Bước đột phá cần thiết là làm sao các xí nghiệp và những người lao động có khả năng tự họ cải thiện các kỹ thuật có sẵn, hoặc phát minh những kỹ thuật mới. Làm được điều này, người ta mới thoát được cảnh sa lầy sau khi đạt được mức lợi tức bậc trung. Nhật Bản, Đại Hàn Dân quốc và Đài Loan đã đi qua giai đoạn này, và họ đã thành công. Họ không chỉ sao chép những kỹ thuật của Âu Mỹ; chính họ đã cải thiện từ kỹ thuật sản xuất đến lề lối làm việc hoặc phát minh các kỹ thuật mới. Các xí nghiệp Nam Hàn đã tiến rất nhanh trong việc cải thiện kỹ thuật và phát minh cho nên đã vượt qua được cái bẫy “lợi tức bậc trung”. Kỹ nghệ xe hơi của Nhật Bản lúc đầu chỉ sao chép các kỹ thuật và tổ chức sản xuất được phát minh ở Mỹ hay ở Đức. Đến lúc Toyota nghĩ ra cách tổ chức việc tồn kho theo phương pháp mới thì sau đó chính các công ty xe hơi ở Detroit hay vùng Ruhr cũng phải bắt chước, và đi chậm hơn một bước. Singapore, Hương Cảng đã chuyển hướng nền kinh tế, từ việc chế hóa hàng rẻ bước sang việc khai thác các ngành kỹ thuật cao và dịch vụ, tự biến thành những trung tâm nghiên cứu, trung tâm tài chánh quốc tế, trung tâm chuyển tải thương mại quốc tế, nên không bị rơi vào cảnh sa lầy.

Hiện nay Trung Quốc đang đứng ngấp nghé trên bờ cái bẫy này. Số phát minh và sáng chế rất thấp, tính theo đầu người, so với Nam Hàn khi nước này bước vào mức “lợi tức bậc trung”. Giống như ở Mexico và Brazil trước đây, nền công nghiệp ở Trung Quốc vẫn chỉ sử dụng những kỹ thuật có sẵn, được các nước tiên tiến tạo ra chỉ cần đem về sử dụng. Đó là chưa kể những chướng ngại khác cản trở bước tiến, vì những thói quen do quá khứ chế độ chỉ huy kinh tế đã thành nếp không xóa bỏ được. Đó là nạn tập trung quyền hành, nạn tham nhũng và sử dụng người, thăng thưởng người dựa vào bè đảng chứ không theo khả năng.

Bản báo cáo “Trung Quốc 2030” đã khuyến cáo Chính phủ Trung Quốc phải thay đổi lề lối làm kinh tế; đã viết rõ ràng: “Nếu các quốc gia không gia tăng sản năng lao động qua các sáng kiến, phát minh, thì họ sẽ rơi vào cái bẫy. Trung Quốc không cần phải chịu số phận đó”. Một mối lo là cơ cấu dân số đang thay đổi, số người già ngày càng đông còn số người trong tuổi lao động thì xuống. “Trung Quốc đang đi tới một khúc quanh trên đường phát triển, khi cần phải có một ngả rẽ chiến lược mới từ nền tảng”, bản báo cáo nhấn mạnh. Những yếu tố giúp Trung Quốc phát triển nhanh chóng trong các năm qua đang dần dần biến mất. Nhà nước đóng vai chủ động trong các ngành chủ yếu là một ưu thế trong thời kỳ sơ khai, trong tương lai sẽ là một chướng ngại cho sức sáng tạo. Vai trò của lãnh vực tư nhân sẽ có tính chất quyết định, vì vùng biên cương mới của phát minh, sáng chế có tính chất khác hẳn thời kỳ chỉ cần cóp nhặt các phát minh cũ cũng giúp kinh tế chạy theo kịp các nước tiến bộ. Công việc này không thể nhờ hoạch định tập trung được nữa.

Một trong những tác giả của báo cáo là ông Lưu Hạc (Liu He, 刘鹤), nhân vật thứ nhì trong Trung tâm Nghiên cứu Phát triển (DRC). Lưu Hạc ngồi trong Ủy ban soạn kế hoạch ngũ niên mới đây; là một cố vấn cho Thường vụ Bộ Chính Trị, và được coi là rất thân cận với ông Tập Cận Bình. Ông là người soạn thảo nghị trình các phiên họp, quyết định những thông tin nào sẽ được đưa tới mắt những người lãnh đạo, đề nghị các giải pháp cho họ lựa chọn. Những viên chức Mỹ thường gặp ông cho biết ông vẫn nói với họ rằng các nước ngoài có thể tạo áp lực và nêu ý kiến để giới lãnh đạo Trung Quốc quyết tâm thay đổi mạnh hơn. Những quyết định mới sau hội nghị Trung Ương thứ ba vừa qua phản ảnh mối quyết tâm này.

Biết dễ làm khó

Sau phiên họp bốn ngày của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, kết thúc ngày 12 tháng 11 năm 2013, họ công bố từ này “Thị trường sẽ đóng vai trò quyết định trong việc phân bố tài nguyên”. Đó là một bước tiến mới, vì trước đó ngôn ngữ chính thức của Trung Cộng chỉ coi thị trường đóng “vai trò cốt yếu”. Đặc biệt, họ lại nhắc đến vai trò của thị trường trong việc “phân bố tài nguyên”, khiến người ta thấy sẽ có một cuộc cải tổ trong việc điều hành hệ thống ngân hàng, để cứu nguy cả hệ thống ngân hàng đang chứa đầy những món nợ khó đòi và các cấp chính quyền địa phương mắc nợ chồng chất.

Hệ thống ngân hàng nằm trong tay nhà nước, trả tiền lãi rất thấp cho dân chúng gửi vào, rồi đem cho các xí nghiệp nhà nước vay, đã gây ra cảnh khó khăn này. Tổng số nợ ở nước Trung Hoa từ năm 2006 đến 2012 đã tăng từ 125% lên tới 210% GDP. Nhưng các món tiền cho vay đó được dùng như thế nào? Rất nhiều “thị xã ma” đã xuất hiện, gồm những ngôi nhà và cao ốc mọc lên mà không có ai mua hoặc thuê. Nhiều thứ hàng hóa sản xuất ra được chất đống trong nhà kho, bến cảng, từ than đá, đồ chơi, cho tới các máy điện dùng trong nhà, không tới tay người tiêu thụ. Ai cũng thấy cứ mỗi lần nhà nước nới tay để các ngân hàng được cho vay thì lập tức có một phong trào xây dựng lên cao. Số thương xá và cao ốc đã xây dựng rồi mà hiện nay vẫn chưa ai thuê hoặc mua sẽ phải chờ chín năm nữa mới được sử dụng hết. Một nhà phân tích đã nhận xét: Kinh tế Trung Quốc đang “tự buộc thòng lọng” trên cổ mình vì bị lệ thuộc vào hành động cho vay không cần biết nợ có được hoàn lại hay không (Patrick Chovanec, Trưởng chiến lược đầu tư, Công ty Silvercrest Asset Management tại New York).

Các ngân hàng cũng bơm tiền cho chính quyền các địa phương, dùng vào các công trình xây dựng lớn. Đường lối này được các cán bộ hoan nghênh; vì họ có thể trưng ra các con số xây dựng lên cao chứng tỏ địa phương mình vẫn “phát triển tốt”. Mặt khác, mỗi công trình xây dựng lại là một dịp cho các “lỏa quan” lớn, nhỏ rút ruột. Số nợ trong các ngân hàng ở Trung Quốc đã gia tăng trong các năm qua tới tình trạng giống hệt như ở Nhật Bản, Nam Hàn và Thái Lan trước khi các nước này bị khủng hoảng tài chánh khiến kinh tế suy sụp. Nhà kinh tế Mao Vu Thức (Mao Yushi, 茅于轼) ở Quảng Đông chứng kiến cảnh chính quyền các tỉnh, huyện ngày càng mang nợ nhiều, đã nói thẳng: “Tôi cảm thấy sợ đến chết!”

Chủ trương cũ kỹ đó cần thay đổi. Ông Chu Tiểu Xuyên (Zhou Xiaochuan, 周小), đứng đầu ngân hàng trung ương từ năm 2002, chủ trương gia tăng cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng, và tạo cơ hội cho các ngân hàng tư nhân nhỏ xuất hiện, cũng như nhận thêm vốn đầu tư của của người ngoại quốc. Một đề nghị của ông là cho các ngân hàng tự quyết định lãi suất trả cho người gửi tiền, kích thích họ cạnh tranh với nhau; thay vì để nhà nước quyết định lãi suất. Biện pháp đó sẽ giúp cho người dân bình thường có thêm tiền khi gửi vào ngân hàng, nhờ thế dân được tiêu thụ nhiều hơn; đúng chủ trương chuyển tài nguyên từ các vụ cho vay đầu tư phí phạm sang tay người tiêu thụ. Ông cũng đề nghị thành lập một Quỹ bảo hiểm cho Người gửi tiền (trương chủ), giống như cơ quan FDCI ở Mỹ. Cơ quan Federal Deposit Insurance Corporation bảo đảm nếu một ngân hàng khánh tận thì nhà nước Mỹ sẽ trả lại tiền cho người có trương mục, tới mức 100,000 đô la. Hiện nay các trương chủ ở Trung Quốc gửi tiền vào ngân hàng đều không có bảo hiểm. Nhưng tất cả hệ thống vẫn chạy, vì ai cũng tin rằng chính phủ đóng vai nhà bảo hiểm, sẽ bỏ tiền cứu các ngân hàng nếu bị khánh tận vì không đòi được nợ. Thành lập một Quỹ bảo hiểm cho trương chủ sẽ giúp cho các ngân hàng tư và nhỏ có thể mạnh hơn. Các ngân hàng tư này sẽ cho các xí nghiệp tư nhân nhỏ và trung vay tiền, thay vì bao nhiêu tiền dân để dành bị các ngân hàng của nhà nước chuyển cho các xí nghiệp quốc doanh. Đó là ý nghĩa của quyết định cho thị trường sẽ đóng “vai trò quyết định” trong việc phân bố tài nguyên, thay thế vai trò điều khiển vẫn dành cho bộ máy nhà nước.

Cũng trong mục đích tạo cơ hội cho thị trường đóng vai trò quyết định, một thứ tài nguyên khác sẽ dần dần được “giải phóng” là ruộng đất. Nông dân Trung Hoa được phép bán hoặc cho thuê dài hạn các ruộng đất mà họ được “quyền sử dụng.” Họ còn được dùng ruộng đất đó để cầm thế cho các ngân hàng khi vay tiền. Khi nói đến quyền sở hữu, người ta phân tách ra nhiều thứ quyền. Ngoài quyền sử dụng theo nhu cầu của mình còn có quyền sang nhượng, quyền cho người khác thuê để dùng, quyền đem cầm thế vật sở hữu để vay nợ. Nông dân Trung Hoa sẽ được hưởng cả ba thứ quyền, gần như trở thành chủ sở hữu của ruộng đất, chỉ chưa được chính thức đứng tên sở hữu mà thôi. Thông báo về hội nghị Trung ương Đảng kỳ ba còn quy định là trong thị trường ruộng, đất sẽ không được phân biệt giữa nông thôn và thành thị. Tất cả được mua bán như nhau trong cùng một “thị trường điều hợp thống nhất”. Bản thông báo đầu tiên sau hội nghị cũng nói: “Chúng ta phải ấn định những quy luật thị trường công bằng, cởi mở và công khai trong suốt”.

Với chính sách mới, giá trị ruộng và đất ở nông thôn sẽ tăng lên, nông dân có thêm tiền tiêu, kích thích kinh tế và chuyển hướng cả nền kinh tế qua việc gia tăng tiêu thụ thay vì chỉ đầu tư và xuất cảng. Nhưng đây cũng là những biện pháp chính trị, nhằm xoa dịu nỗi bất mãn của nông dân. Từ nay, ruộng đất ở Trung Quốc bắt đầu được thị trường hóa, theo chủ trương “thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bố tài nguyên”. Các nông dân sẽ hưởng lợi, nhưng một hệ quả quan trọng hơn là họ có thể nhân danh chính sách mới khi chống lại các hành động truất hữu quyền dùng đất, ruộng mà các chính quyền địa phương vẫn ép dân để lấy đất bán cho các nhà đầu tư.

Một biện pháp kinh tế có ảnh hưởng lớn khác trong việc phân bố “tài nguyên lao động” là quyết định thay đổi chế độ hộ khẩu. Hộ khẩu là thứ cùm vô hình khóa chân các nông dân, gây cảnh sống khó khăn cho gần 300 triệu người đã lên các thành phố kiếm việc làm và phải đổi chỗ ở. Vì không có hộ khẩu ở nơi cư trú mới, gia đình họ không được hưởng các dịch vụ như y tế, trường học cho trẻ em, không được hưởng chế độ hưu bổng của thành phố, vân vân. Họ trở thành những “công dân hạng nhì” ngay trong đất nước họ. Chính sách mới sẽ cho phép các di dân được hưởng một số quyền lợi kể trên, tăng thêm dần dần theo thời gian, bắt đầu áp dụng với các thành phố nhỏ. Các biện pháp này đã được thí nghiệm từ mấy năm qua, nay trở thành chính sách chung. Sau khi thí nghiệm trên toàn quốc, sẽ tiến tới việc bãi bỏ hệ thống hộ khẩu, đã được Mao Trạch Đông sử dụng với mục đích kiểm soát từ miếng ăn, áo mặc cho đến nơi làm việc, nơi đi học, giải trí, cho tới nơi chữa bệnh của dân Trung Hoa.

Việc thay đổi về hộ khẩu gây một hệ quả kinh tế ngay lập tức là khi biết con cái được đi học trường công, có bệnh được chữa trị miễn phí thì các di dân sẽ yên tâm tiêu thụ nhiều hơn. Hơn nữa, còn gia tăng số người làm việc. Nếu số lao động tăng lên thì tỷ lệ phát triển cũng tăng theo. Hiện nay lương công nhân ở Trung Quốc đã lên cao khiến nhiều xí nghiệp khó kiếm người làm. Một hệ quả khác là các thành phố phải chi tiêu nhiều hơn cho các di dân. Nhưng người ta đã tính chi phí cho mỗi di dân chỉ vào khoảng 2,500 đồng nguyên một năm (hơn 400 đô la Mỹ), có thể chịu được. Hơn nữa, Tập Cận Bình đã nhượng bộ các viên chức địa phương bằng cách cho các thành phố được tăng thuế.

Ngoài hai điều cụ thể liên can đến toàn dân trên đây, Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ mở cửa thị trường tài chánh rộng hơn cho tư nhân tham dự, khuyến khích các ngân hàng tư và giới kinh doanh tư nhân; trong khi buộc các doanh nghiệp nhà nước phải đóng góp thêm tiền cho chính phủ. Chương trình đổi mới của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc được gọi tên là Kế hoạch Tam bát tam (383). Số ba thứ nhất là mục tiêu cải tổ giúp cân bằng ba ngành, gồm thị trường, chính quyền, và các doanh nghiệp nhà nước. Vai trò thị trường sẽ được nâng cao, tất nhiên nhà nước và doanh nghiệp nhà nước sẽ phải nhường. Tám lãnh vực sẽ được cải tổ gồm có ngân hàng, thuế khóa, tài sản công, phúc lợi xã hội, ruộng đất, đầu tư ngoại quốc, cải tiến phát minh, và quản trị có hiệu quả.

Chương trình đề ra đầy tham vọng. Nếu thực hiện được thì đúng là một cuộc “cải cách thứ nhì,” sau bước đầu do Đặng Tiểu Bình đưa ra năm 1978. Nó sẽ giúp kinh tế Trung Quốc không bị rơi vào cái bẫy “lợi tức bậc trung”. Nhưng liệu đảng Cộng sản Trung Quốc có thực hiện được điều mà họ biết là cần thiết hay không?

Việc thực hiện sẽ khó khăn, nếu ông Tập Cận Bình không đủ mạnh để bắt cả hệ thống phải thay đổi. Một con thuyền nhỏ có thể xoay hướng dễ dàng; một hàng không mẫu hạm khó hơn. Nhất là các chướng ngại lớn xuất phát từ ngay trong nội bộ. Chướng ngại lớn nhất là những “nhóm lợi ích” đã thành hình từ hai chục năm qua, do chính sách cải tổ từng bước không toàn diện và không thấu triệt.

Những người quản lý các cơ sở quốc doanh, cùng với giới lãnh đạo trung cấp ở các địa phương lâu nay vẫn làm giàu nhờ hệ thống kinh tế vẫn bảo vệ các đặc quyền của họ. Họ nắm những độc quyền về kinh tế và chính trị, trong lúc vận dụng được đường lối chuyển các tài nguyên quốc gia qua tay các ngân hàng của nhà nước, đưa cho đám quan chức này sử dụng và làm giàu. Nếu hệ thống kinh tế thay đổi, họ sẽ phải chịu theo những thứ “kỷ luật thị trường”, như các quản đốc doanh nghiệp tư; và mất nhiều quyền lợi. Lề lối làm ăn đó đã thành quen, giống như nghiện ma túy, rất khó bỏ. Hiện nay, Chính phủ Bắc Kinh đang nắm quyền quyết định trên 1.500 loại dự án đầu tư, các địa phương kiểm soát 17 ngàn loại khác, nếu họ không chấp thuận thì không ai được phép làm. Nếu các ngân hàng tư nhân và các xí nghiệp tư được phát triển, thì quyền kiểm soát và thao túng của các quan chức sẽ mất. Các chính quyền địa phương lâu nay vẫn kiếm ra tiền nhờ truất hữu đất của dân trao cho những nhà đầu tư sử dụng. Nếu ruộng đất được thị trường hóa thực sự, thì họ sẽ kiếm đâu ra tiền? Chủ trương mới cũng dự đoán nỗi khó khăn đó, cho nên sẽ cho phép các địa phương được quyền tăng các món thuế theo nhu cầu. Nhưng trong việc thu thuế thì số tiền bỏ vào túi các quan chức sẽ bị giảm xuống.

Các doanh nghiệp nhà nước trước đây hành xử giống như các cơ quan chính phủ. Những người đứng đầu các công ty lớn như PetroChina hay China Mobile được chính thức coi ngang hàng với chức thứ trưởng trong nội các. Chế độ này khiến cho các người quản trị doanh nghiệp nhà nước không hành động như các doanh nhân mà chỉ giữ thói quen của các viên chức tìm cách làm báo cáo cho đẹp để vừa lòng cấp trên. Các doanh nghiệp nhà nước khó tự cải biến thành những doanh nghiệp bình thường. Sau hội nghị Trung ương vừa qua, các chức hàm thứ trưởng của chủ tịch các công ty lớn đã bị bãi bỏ chính thức, trong chiều hướng tách các doanh nghiệp ra khỏi guồng máy chính quyền. Nhưng biện pháp đó chưa biết sẽ có hiệu quả, thay đổi được hành vi, tác phong của các nhà quản đốc lớn nhỏ hay không.

Các doanh nghiệp nhà nước đã đem tiền của xí nghiệp đầu tư vào những ngành không liên hệ gì đến công việc của chính xí nghiệp họ cai quản. Nhiều người đầu tư vào địa ốc, vì được vay tiền dễ dàng với lãi suất thấp trong khi hy vọng lợi nhuận cao; nhưng chính hành động này đã thúc đẩy giá nhà đất tăng lên, gây mối lo ngại cả thị trường địa ốc sẽ bùng nổ. Nhưng các doanh nghiệp và ngân hàng vẫn có quyền báo cáo những số doanh thu lớn, khiến người ta tưởng họ vẫn có lợi nhuận. Như trong nửa đầu năm 2013, các doanh nghiệp nhà nước đều có lời. Nhưng phân tích rạch ròi người ta sẽ thấy một nửa số tiền lời này là do các ngân hàng kiếm ra nhờ cho vay. Trong phần còn lại, những doanh nghiệp sản xuất thực thụ đóng góp rất ít, mà đa số là do các vụ đầu cơ địa ốc của các doanh nghiệp cùng với tiền lãi kiếm được trong hệ thống các quỹ tín thác do những ngân hàng lập ra để tránh không phải theo những hạn chế vì luật lệ và chính sách về ngân hàng.

Trung Quốc có thực hiện được các chính sách mới của ông Tập Cận Bình hay không, hoàn toàn tùy thuộc thái độ và hành động của các viên chức địa phương. Nếu họ không muốn mất các quyền lợi đang hưởng, họ sẽ có nhiều phương pháp để trì hoãn, lái sang hướng khác có lợi cho họ. Giáo sư Liêu Kim Chung (Liao Jinzhong,聊金), Đại học Hồ Nam, đã nhiều lần diễn thuyết cho các cán bộ trong Trường Đảng ở Hồ Nam. Ông đã khuyên họ bớt theo đuổi đến các công trình xây dựng lớn lao, trong khi “Chúng tôi chỉ mong được thấy có một hệ thống ống cống thoát chất phế thải chạy tốt hơn!” Thành phố Trường Sa ở tỉnh Hồ Nam công bố tỷ lệ kinh tế gia tăng sẽ tới gần 13% trong năm 2013, nhờ đã đầu tư vào nhiều công trình giao thông lớn. Giáo sư Liêu kể rằng sau khi ngồi nghe xong, các cán bộ đều bắt tay khen ngợi ông đã can đảm, dám nói thẳng những sự thật mất lòng. Nhưng, ông kể: “Chính họ lại nói với tôi rằng họ không thể thay đổi lối làm việc đó được!” Tại sao họ biết mà lại không làm? Ông Liêu Kim Chung giải thích: “Tất cả guồng máy đang chạy nhờ các cán bộ chỉ lo thăng quan tiến chức mà thôi. Tôi không thấy triển vọng mọi sự sẽ sắp được thay đổi”.

Tình trạng khắp nơi ở Trung Quốc chắc cũng không khác gì thành phố Trường Sa. Cho nên hy vọng nền kinh tế thoát khỏi cái bẫy “lợi tức bậc trung” vẫn còn mong manh. Chương trình cải tổ đợt hai của ông Tập Cận Bình đã được nhiều người tán thưởng, nhưng có thể sẽ chỉ được “thi hành” trên giấy tờ, báo cáo mà thôi. Có đến 60 biện pháp được đưa ra, nhưng đến lúc ông về hưu sau hai nhiệm kỳ chưa chắc mỗi biện pháp đã thực hiện được một nửa. Kinh tế Trung Quốc sẽ đi vào một giai đoạn trì trệ, có thể kéo dài vài chục năm. Chúng ta có thể nhìn Nhật Bản như một tiền lệ. Kinh tế Nhật đã phát triển rất mạnh trong những năm từ 1970 đến 1990, ai cũng nghĩ nó chỉ có đường đi lên, không thể đi xuống được. Nhưng từ năm 1990, kinh tế đã bắt đầu trì trệ, cho tới bây giờ vẫn chưa thoát ra được. Lý do chính cũng vì có nhiều “nhóm lợi ích” kìm hãm không cho giới lãnh đạo thi hành một cuộc cải tổ toàn diện, mặc dù ai cũng đồng ý cải tổ là một điều cần thiết.

N.N.D.

Ngày 1 Tháng 12 năm 2013

Tác giả gửi trực tiếp cho BVN

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn