Hồi kết về thế kỷ dài của Mỹ

Trump và các nguồn gốc về sức mạnh của Mỹ

Robert O. Keohane & Joseph S. Nye, Jr.Foreign Affairs, tháng Bảy, tháng Tám, 2025

Đỗ Kim Thêm dịch

An eagle on a barbed wire tree

AI-generated content may be incorrect.

(Dave Murray)

Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington.

Khi làm tất cả những điều này, Trump có thể hành động từ một vị thế mạnh mẽ. Những nỗ lực của ông trong việc sử dụng thuế quan để gây áp lực với các đối tác thương mại của Mỹ cho thấy rằng ông tin rằng các mô hình hiện nay về tình trạng tương thuộc sẽ tăng cường sức mạnh của Mỹ. Các quốc gia khác dựa vào sức mua của thị trường Mỹ khổng lồ và sự chắc chắn về sức mạnh quân sự của Mỹ. Những lợi thế này mang lại cho Washington điều kiện để trang bị vũ khí mạnh mẽ  đối với các đối tác của mình. Quan điểm của ông phù hợp với một lập luận mà chúng ta đã đưa ra gần 50 năm trước: tình trạng tương thuộc bất đối xứng mang lại lợi thế cho tác nhân ít phụ thuộc hơn trong một mối quan hệ. Trump than thở về thâm hụt thương mại đáng kể của Mỹ với Trung Quốc, nhưng ông dường như cũng hiểu rằng sự mất cân bằng này mang lại cho Washington đòn bẩy to lớn đối với Bắc Kinh.

Ngay cả khi Trump đã xác định một cách chính xác cách mà Hoa Kỳ là mạnh mẽ, về cơ bản, ông đang sử dụng sức mạnh đó theo những cách phản tác dụng. Bằng cách công kích tình trạng tương thuộc, ông đã làm suy yếu nền tảng của quyền lực Mỹ. Sức mạnh liên quan đến thương mại là sức mạnh cứng, dựa trên khả năng vật chất. Nhưng trong 80 năm qua, Hoa Kỳ đã tích lũy quyền lực mềm, dựa trên sự hấp dẫn hơn là cưỡng ép hoặc áp đặt chi phí. Chính sách khôn ngoan của Mỹ sẽ duy trì, thay vì phá vỡ các mô hình về việc tương thuộc mà nó củng cố sức mạnh của Mỹ, cả quyền lực cứng bắt nguồn từ các mối quan hệ thương mại và sức mạnh mềm của sự thu hút. Việc tiếp tục chính sách đối ngoại hiện tại của Trump sẽ làm suy yếu Hoa Kỳ và đẩy nhanh sự xói mòn trật tự quốc tế mà kể từ Đệ nhị Thế chiến đã phục vụ rất nhiều quốc gia – trên hết là Hoa Kỳ.

Trật tự dựa trên sự phân phối quyền lực ổn định giữa các quốc gia, các chuẩn mực mà nó ảnh hưởng và hợp pháp hóa hành vi của các quốc gia và các tác nhân khác, và các định chế giúp củng cố nó. Chính quyền Trump đã làm rung chuyển tất cả các trụ cột này. Thế giới có thể đang bước vào một thời kỳ hỗn loạn, một thời kỳ chỉ lắng xuống sau khi Toà Bạch Ốc thay đổi hướng đi hoặc một khi một thời kỳ mới nắm giữ ở Washington. Nhưng sự suy giảm đang diễn ra có thể không chỉ là một sự sụt giảm tạm thời; nó có thể là một cú lao xuống vùng nước đục. Trong nỗ lực thất thường và sai lầm của mình để làm cho nước Mỹ trở nên hùng mạnh hơn, Trump có thể đưa thời kỳ thống trị của mình – điều mà nhà xuất bản Mỹ Henry Luce lần đầu tiên gọi là "thế kỷ Mỹ" – đi đến một kết thúc không kèn trống.

Lợi thế khiếm khuyết

Khi chúng tôi viết quyển Power and Interdependence vào năm 1977chúng tôi đã cố gắng mở rộng những hiểu biết thông thường về quyền lực. Các chuyên gia về chính sách đối ngoại thường nhìn thấy quyền lực qua lăng kính của cuộc cạnh tranh quân sự trong thời Chiến tranh LạnhNgược lại, nghiên cứu của chúng tôi đã khám phá thương mại ảnh hưởng đến quyền lực như thế nào và chúng tôi lập luận rằng sự bất đối xứng trong mối quan hệ kinh tế tương thuộc trao quyền cho tác nhân ít phụ thuộc hơn. Nghịch lý của sức mạnh thương mại là thành công trong một mối quan hệ thương mại  như được chỉ ra bởi một quốc gia có thặng dư thương mại với một quốc gia khác  là một nguồn gốc của tình trạng dễ bị tổn thương. Ngược lại, và có lẽ phản trực giác, thâm hụt thương mại có thể củng cố vị thế thương lượng của một quốc gia. Xét cho cùng, quốc gia thâm hụt có thể áp đặt thuế quan hoặc các rào cản thương mại khác đối với quốc gia thặng dư. Quốc gia thặng dư bị nhắm làm mục tiêu đó sẽ gặp khó khăn trong việc trả đũa vì tương đối thiếu nhập khẩu để trừng phạt.

Đe dọa cấm hoặc hạn chế nhập khẩu có thể gây áp lực thành công cho các đối tác thương mại. Nều xét về tình trạng tương thuộc và quyền lực bất đối xứng, Hoa Kỳ đang ở một vị trí đàm phán thuận lợi với tất cả bảy đối tác thương mại quan trọng nhất của mình. Thương mại của nước này là cực kỳ bất đối xứng với Trung Quốc, Mexico và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, tất cả đều có tỷ lệ xuất nhập khẩu hơn hai trên một với Hoa Kỳ. Đối với Nhật Bản (khoảng 1,8:1), Hàn Quốc (1,4:1) và Liên minh châu Âu (1,6:1), những tỷ lệ này cũng không đối xứng. Canada có tỷ lệ cân bằng hơn, khoảng 1,2:1.

Tất nhiên, các tỷ lệ này không thể nắm bắt được toàn bộ các khía cạnh của các mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia. Các yếu tố đối kháng, chẳng hạn như các nhóm lợi ích trong nước có quan hệ xuyên quốc gia với các tác nhân nước ngoài ở các thị trường khác hoặc các mối quan hệ cá nhân và nhóm xuyên biên giới, có thể làm phức tạp vấn đề, đôi khi dẫn đến các ngoại lệ hoặc hạn chế tác động của tình trạng tương thuộc bất đối xứng. Trong quyển Power and Interdependence, chúng tôi mô tả nhiều kênh kết nối này là "tình trạng thuộc phức tạp", và trong một phân tích chi tiết về mối quan hệ Mỹ - Canada từ năm 1920 đến năm 1970, chúng tôi đã chỉ ra rằng mối quan hệ thường củng cố cho Canada. Ví dụ, hiệp ước ô tô Mỹ-Canada vào những năm 1960 là kết quả của một quá trình đàm phán mà nó bắt đầu với việc Canada đơn phương đưa ra trợ cấp xuất khẩu cho phụ tùng ô tô. Trong mọi phân tích về sự tương thuộc và quyền lực bất đối xứng, cần phải xem xét cẩn thận các yếu tố đối kháng có thể làm giảm những lợi thế thường tích lũy cho quốc gia thâm hụt.

Trung Quốc dường như yếu nhất chỉ riêng trong lĩnh vực thương mại, với tỷ lệ xuất khẩu so với nhập khẩu là 3:1. Trung Quốc cũng không thể kêu gọi quan hệ liên minh hoặc các hình thức của quyền lực mềm khác. Nhưng họ có thể trả đũa bằng cách khai thác các yếu tố đối kháng, trừng phạt các tập đoàn quan trọng của Mỹ hoạt động ở Trung Quốc, chẳng hạn như Apple hoặc Boeing, hoặc các tác nhân chính trị quan trọng trong nước của Mỹ, chẳng hạn như các nông dân trồng đậu nành hoặc phim trường ở Hollywood. Trung Quốc cũng có thể sử dụng sức mạnh cứng như cắt nguồn cung cấp khoáng sản quý hiếm. Khi hai bên phát hiện chính xác hơn những tình trạng dể bị tổn thương lẫn nhau của họ, trọng tâm của cuộc thương chiến sẽ chuyển sang phản ánh tiến trình học hỏi này.

Mexico có ít nguồn lực hơn để gây ảnh hưởng tương phản, và vẫn rất dễ bị tổn thương nặng nề trước những ý tưởng bất chợt của Hoa Kỳ. Châu Âu có thể thực hiện một số ảnh hưởng đối nghịch trong lĩnh vực thương mại vì họ có thương mại cân bằng với Mỹ hơn so với Trung Quốc và Mexico, nhưng họ vẫn phụ thuộc vào khối NATO, vì vậy những lời đe dọa của Trump về việc không ủng hộ liên minh có thể là một công cụ thương lượng hiệu quả. Canada có thương mại cân bằng hơn với Hoa Kỳ và một mạng lưới quan hệ xuyên quốc gia với các nhóm lợi ích của Hoa Kỳ khiến nước này ít bị tổn thương hơn, nhưng có lẽ họ đang thua cuộc về thương mại vì nền kinh tế của họ phụ thuộc vào nền kinh tế Hoa Kỳ nhiều hơn so với ngược lại. Ở châu Á, sự bất đối xứng trong quan hệ thương mại của Mỹ với Nhật Bản, Hàn Quốc và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á phần nào được bù đắp bởi chính sách cạnh tranh của Mỹ với Trung Quốc. Chừng nào sự cạnh tranh này còn tiếp tục, Mỹ cần các đồng minh và đối tác Đông Á và Đông Nam Á, và họ không thể tận dụng tối đa đòn bẩy thương mại của mình. Do đó, ảnh hưởng tương đối của chính sách thương mại Hoa Kỳ thay đổi tùy thuộc vào bối cảnh địa chính trị và các mô hình tương thuộc bất đối xứng.

Quyền lực thực sự

Chính quyền Trump bỏ lỡ một khía cạnh chính của quyền lực. Quyền lực là khả năng khiến cho người khác làm những gì bạn muốn. Mục tiêu này có thể được thực hiện bằng cách cưỡng bức, trả tiền mua chuộc hoặc gây thu hút. Hai cách đầu tiên là quyền lực cứng; cách thứ ba là quyền lực mềm. Trong ngắn hạn, quyền lực cứng thường vượt trội hơn quyền lực mềm, nhưng về lâu dài, quyền lực mềm thường chiếm ưu thế. Joseph Stalin được cho là đã từng hỏi một cách chế giễu, "Đức Giáo Hoàng có bao nhiêu sư đoàn?". Nhưng Liên Xô đã biến mất từ lâu, và triều đại giáo hoàng vẫn tồn tại.

Tổng thống dường như cam kết quá mức với việc cưỡng ép và thực hiện quyền lực cứng của Mỹ, nhưng ông dường như không hiểu quyền lực mềm hoặc vai trò của nó trong chính sách đối ngoại. Ép buộc các đồng minh dân chủ như Canada hoặc Đan Mạch làm suy yếu niềm tin vào các liên minh của Hoa Kỳ; Panama đe dọa đánh thức lại nỗi sợ hãi về chủ nghĩa đế quốc trên khắp châu Mỹ La tinh; làm tê liệt Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ [U.S. Agency for International Development] gây suy yếu thanh danh của Hoa Kỳ về lòng nhân từ. Cấm phát thanh Đài Tiếng nói Hoa Kỳ [the Voice of America] làm tắt thông điệp của đất nước.

Giới hoài nghi nói: Vậy thì sao? Chính trị quốc tế là trái bóng cứng, không phải mềm. Và phương cách cưỡng chế và giao dịch của Trump đã tạo ra những nhượng bộ với lời hứa sẽ có nhiều hơn nữa. Như Machiavelli đã từng viết về quyền lực, đối với một hoàng tử, thà được sợ hãi hơn là được yêu thương. Nhưng tốt hơn hết là vừa được sợ và vừa được yêu thương. Quyền lực có ba chiều, và bằng cách phớt lờ việc gây thu hút, Trump đang bỏ qua một nguồn sức mạnh quan trọng của Mỹ. Về lâu dài, đó là một chiến lược thua cuộc.

Và quyền lực mềm tạo ra vấn đề ngay cả trong ngắn hạn. Nếu một quốc gia gây thu hút, nó sẽ không cần phải dựa nhiều vào các động lực khích lệ và hình phạt để định hình về hành vi của những quốc gia khác. Nếu các đồng minh coi đó là có thiện chí và đáng tin cậy, họ sẽ dễ thuyết phục hơn và có khả năng đi theo sự dẫn dắt của quốc gia đó, mặc dù phải thừa nhận rằng họ có thể điều động các ưu thế về lập trường của nhà nước nhiều thiện chí hơn. Đối mặt với sự bắt nạt, họ có thể tuân thủ, nhưng nếu họ coi đối tác thương mại của mình là một kẻ bắt nạt không đáng tin cậy, họ có nhiều khả năng làm trì trệ và giảm sự tương thuộc trong lâu dài khi có thể. Châu Âu trong thời Chiến tranh Lạnh là một ví dụ điển hình về động lực này. Năm 1986, nhà phân tích người Na Uy Geir Lundestad mô tả thế giới bị chia thành một đế chế Liên Xô và một đế chế Mỹ. Trong khi Liên Xô đã sử dụng vũ lực để xây dựng châu Âu là một tỉnh thuộc quyền tài phán của họ, phía Mỹ là "một đế chế theo lời mời". Liên Xô đã phải gửi quân vào Budapest vào năm 1956 và Praha vào năm 1968 để giữ cho các chính phủ ở đó phụ thuộc vào Moscow. Ngược lại, khối NATO vẫn mạnh mẽ trong suốt thời Chiến tranh Lạnh.

Ở châu Á, Trung Quốc đã tăng cường đầu tư mạnh mẽ về quân sự và kinh tế, nhưng cũng đang nuôi dưỡng sức thu hút quyền lực của mình. Năm 2007, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào phát biểu tại Đại hội toàn quốc lần thứ 17 của Đảng Cộng sản Trung Quốc rằng Trung Quốc cần tăng cường quyền lực mềm của mình. Chính phủ Trung Quốc đã chi hàng chục tỷ đô la để đạt được mục tiêu đó. Phải thừa nhận rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đạt được những kết quả hỗn hợp một cách tốt nhất, do hai trở ngại lớn: Đảng Cộng sản Trung Quốc đã châm ngòi cho các tranh chấp lãnh thổ với một số nước láng giềng và duy trì sự kiểm soát chặt chẽ đối với tất cả các tổ chức và ý kiến trong xã hội dân sự. Trung Quốc tạo ra sự phẫn nộ khi phớt lờ các biên giới được quốc tế công nhận. Và Trung Quốc gây khó khăn cho mọi người ở nhiều quốc gia khi bỏ tù các luật sư về nhân quyền và buộc những người không tuân thủ, chẳng hạn như nghệ sĩ xuất sắc Ngải Vị Vị [Ai Weiwei], đi lưu vong.

Ít nhất là trước khi nhiệm kỳ thứ hai của Trump bắt đầu, Trung Quốc đã tụt hậu xa so với Mỹ trong dư luận toàn cầu. Pew đã khảo sát 24 quốc gia vào năm 2023 và báo cáo rằng phần lớn những người được hỏi ở hầu hết các quốc gia đều thấy Hoa Kỳ hấp dẫn hơn Trung Quốc, với châu Phi là lục địa duy nhất có kết quả thậm chí còn gần nhau. Gần đây hơn, vào tháng 5 năm 2024, Gallup phát hiện ra rằng trong 133 quốc gia mà họ khảo sát, Hoa Kỳ có lợi thế ở 81 quốc gia và Trung Quốc ở 52. Tuy nhiên, nếu Trump tiếp tục làm suy yếu quyền lực mềm của Mỹ, những con số này có thể thay đổi rõ rệt.

Chắc chắn, quyền lực mềm của Mỹ đã có những thăng trầm trong những năm qua. Hoa Kỳ không được ưa chuộng ở nhiều quốc gia trong Chiến tranh Việt Nam và Chiến tranh Iraq. Nhưng quyền lực mềm bắt nguồn từ xã hội và văn hóa của một quốc gia, không chỉ từ hành động của chính phủ đó. Ngay cả trong Chiến tranh Việt Nam, khi đám đông xuống đường trên khắp thế giới để phản đối các chính sách của Mỹ, họ không hát bài Quốc tế ca của Cộng sản mà là bài We Shall Overcome, quốc ca dân quyền của Mỹ. Một xã hội dân sự cởi mở mà nó cho phép việc phản đối và đáp ứng tình trạng bất đồng chính kiến có thể là một tài sản. Nhưng quyền lực mềm bắt nguồn từ văn hóa Mỹ sẽ không tồn tại trước sự thái quá của chính phủ Mỹ trong bốn năm tới nếu nền dân chủ Mỹ tiếp tục bị xói mòn và đất nước này hành động như một kẻ bắt nạt ở nước ngoài.

Về phần mình, Trung Quốc đang cố gắng lấp đầy bất kỳ khoảng trống nào mà Trump tạo ra. Họ tự coi mình là nhà lãnh đạo của cái gọi là Nam bán cầu. Nó nhằm mục đích thay thế trật tự của Mỹ về các liên minh và định chế quốc tế. Chương trình đầu tư cơ sở hạ tầng Vành đai và Con đường của họ được hoạch định không chỉ để thu hút các quốc gia khác mà còn cung cấp quyền lực cứng về kinh tế. Nhiều quốc gia coi Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của họ hơn là Hoa Kỳ. Nếu ông Trump nghĩ rằng ông có thể cạnh tranh với Trung Quốc trong khi làm suy yếu lòng tin giữa các đồng minh của Mỹ, trong khi khẳng định khát vọng của đế quốc, phá hủy Cơ quan Phát triển Quốc tế của Mỹ, thách thức tinh thần thượng tôn pháp luật trong nước và rút khỏi các cơ quan của Liên Hiệp Quốc, ông có thể sẽ thất vọng.

Bóng ma của chủ thuyềt toàn cầu

Lờ mờ trên sự trỗi dậy của giới theo trào lưu dân túy ở phương Tây như Trump là bóng ma của toàn cầu hóa, mà họ gọi là một lực lượng ma quỷ. Thực ra, thuật ngữ này chỉ đơn giản đề cập đến tình trạng tương thuộc ngày càng tăng ở khoảng cách giữa các lục địa. Khi Trump đe dọa đánh thuế đối với Trung Quốc, ông đang cố gắng giảm khía cạnh kinh tế của sự tương thuộc toàn cầu của Hoa Kỳ, điều mà ông đổ lỗi cho sự thua lổ của các ngành công nghiệp và mất công ăn việc làm. Chắc chắn là trào lưu toàn cầu hóa có thể có những tác động tiêu cực và tích cực. Nhưng các biện pháp của Trump là sai chỗ, vì chúng tấn công những hình thức toàn cầu hóa phần lớn tốt cho Hoa Kỳ và thế giới, trong khi không chống lại những hình thức xấu. Về mặt cân bằng, toàn cầu hóa đã tăng cường sức mạnh của Mỹ, và cuộc tấn công của Trump vào nó chỉ làm suy yếu Hoa Kỳ.

Vào đầu thế kỷ XIX, nhà kinh tế học và chính khách người Anh David Ricardo đã thiết lập một thực tế được chấp nhận rộng rãi rằng thương mại toàn cầu có thể tạo ra giá trị thông qua lợi thế so sánh. Khi họ mở cửa cho thương mại, các quốc gia có thể chuyên môn hóa những gì họ làm tốt nhất. Thương mại tạo ra điều mà nhà kinh tế học người Đức Joseph Schumpeter gọi là "sự hủy diệt sáng tạo": việc làm bị mất trong tiến trình này, và nền kinh tế quốc gia phải chịu những cú sốc đến từ nước ngoài, đôi khi là kết quả của chính sách có chủ ý của các chính phủ nước ngoài. Nhưng sự gián đoạn đó có thể giúp các nền kinh tế trở nên nhiều năng suất và hiệu quả hơn. Về mặt cân bằng, trong suốt 75 năm qua, sự hủy diệt sáng tạo đã tăng cường sức mạnh của Mỹ. Là quốc gia kinh tế lớn nhất, Hoa Kỳ đã được hưởng lợi nhiều nhất từ sự đổi mới tạo ra tăng trưởng và các tác động lan tỏa mà tăng trưởng đã gây ra trên toàn thế giới.

Đồng thời, sự phát triển có thể gây đau đớn. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng Hoa Kỳ đã mất (và đạt được) hàng triệu việc làm trong thế kỷ XXI, buộc người lao động phải trả chi phí điều chỉnh, họ là những người thường không nhận được khoản bồi thường thỏa đáng từ chính phủ. Thay đổi công nghệ cũng đã loại bỏ hàng triệu việc làm khi máy móc thay thế con người, và rất khó để gỡ rối các tác động liên kết của việc tự động hóa và ngoại thương. Những căng thẳng thông thường của sự tương thuộc đã trở nên tồi tệ hơn nhiều bởi doanh nghiệp xuất khẩu khổng lồ của Trung Quốc, mà vốn họ không ngừng nghỉ.

Ngay cả khi toàn cầu hóa kinh tế nâng cao năng suất của nền kinh tế thế giới, những thay đổi này có thể không được hoan nghênh đối với nhiều cá nhân và gia đình. Người dân ở nhiều cộng đồng miễn cưỡng di chuyển đến những nơi mà họ có thể dễ dàng tìm được việc làm hơn. Tất nhiên, những người khác sẵn sàng di chuyển nửa vòng trái đất để tìm thêm cơ hội. Vài thập niên qua của toàn cầu hóa được đặc trưng bởi sự di chuyển ồ ạt của người dân qua biên giới quốc gia, một loại hình thái khác của tình trạng tương thuộc. Phong trào di cư làm phong phú văn hóa và mang lại lợi ích chính yếu về kinh tế cho các quốc gia tiếp nhận người nhập cư bằng cách đưa những người có kỹ năng đến những nơi mà họ có thể sử dụng những kỹ năng đó hiệu quả hơn. Các quốc gia mà người dân nhập cư có thể được hưởng lợi từ việc giảm bớt áp lực dân số và từ những người nhập cư gửi kiều hối. Trong mọi trường hợp, phong trào di cư có xu hướng tạo ra sự di chuyển hơn nữa. Trong trường hợp không có các rào cản cao do các quốc gia xây dựng, di cư trong thế giới đương đại thường là một tiến trình tự tồn tại.

Trump đổ lỗi cho người nhập cư vì đã gây ra sự thay đổi gây rối. Mặc dù ít nhất một số hình thức nhập cư rõ ràng là tốt cho nền kinh tế trong dài hạn, nhưng các nhà phê bình có thể dễ dàng mô tả chúng là có hại trong thời gian tới, và chúng có thể khuấy động sự phản đối chính trị mạnh mẽ trong một số người. Sự gia tăng đột ngột về nhập cư gây ra phản ứng chính trị mạnh mẽ, với những người di cư thường chịu trách nhiệm cho những thay đổi kinh tế và xã hội khác nhau, ngay cả khi họ rõ ràng là không có lỗi. Trong những năm gần đây, việc nhập cư đã trở thành vấn đề chính trị chính yếu mang màu sắc dân túy, nó được sử dụng để chống lại các chính phủ đương nhiệm ở hầu hết các nền dân chủ. Nó đã thúc đẩy cuộc bầu cử của Trump vào năm 2016 – và một lần nữa vào năm 2024.

Các nhà lãnh đạo dân túy dễ dàng đổ lỗi cho người nước ngoài về biến động kinh tế hơn là chấp nhận vai trò quyết định hơn nhiều của thay đổi công nghệ và vốn. Toàn cầu hóa đã đặt ra những thách thức cho giới đương nhiệm trong nhiều cuộc bầu cử gần đây ở nhiều quốc gia. Sự cám dỗ của chính trị gia khi đối mặt với những căng thẳng này là tìm cách đảo ngược trào lưu toàn cầu hóa bằng cách áp đặt thuế quan và các rào cản khác đối với trao đổi quốc tế, như Trump đang làm.

Trong quá khứ, trào lưu toàn cầu hóa kinh tế đã bị đảo ngược. Thế kỷ XIX được đánh dấu bằng sự gia tăng nhanh chóng trong cả hai việc thương mại và di cư, nhưng nó chậm lại nhanh chóng khi bắt đầu Thế chiến thứ nhất vào năm 1914. Thương mại tính theo tỷ lệ phần trăm trong hoạt động kinh tế toàn cầu đã không phục hồi về mức năm 1914 cho đến gần năm 1970. Điều này có thể xảy ra một lần nữa, mặc dù sẽ cần một số nỗ lực. Thương mại thế giới tăng trưởng cực kỳ nhanh chóng từ năm 1950 đến năm 2008, sau đó chậm hơn kể từ cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009. Nhìn chung, thương mại tăng 4.400% từ năm 1950 đến năm 2023. Thương mại toàn cầu có thể một lần nữa rơi vào suy thoái. Nếu các biện pháp thương mại của Mỹ chống lại Trung Quốc dẫn đến một cuộc thương chiến cam kết hơn, nó có thể gây ra rất nhiều thiệt hại. Nói chung, cuộc thương chiến có thể dễ dàng biến thành xung đột kéo dài và leo thang, với khả năng thay đổi thảm khốc.

Ở phía khác của cuốn sổ tổng kết, chi phí của việc hủy bỏ hơn nửa nghìn tỷ đô la thương mại có khả năng hạn chế sự sẵn sàng của các quốc gia tham gia vào các cuộc thương chiến và có thể tạo ra một số động lực khích lệ cho sự thỏa hiệp. Và mặc dù các quốc gia khác có thể hành động hổ tương với Hoa Kỳ, nhưng họ sẽ không nhất thiết phải hạn chế thương mại với nhau. Các yếu tố địa chính trị cũng có thể đẩy nhanh trào lưu thương mại. Ví dụ, một cuộc chiến tranh về Đài Loan có thể khiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc bị đình trệ.

Một số nhà phân tích đổ lỗi làn sóng phản ứng theo tinh thần dân tộc mang màu sắc dân túy ở gần như tất cả các nền dân chủ là do sự lan rộng và tốc độ toàn cầu hóa ngày càng tăng. Thương mại và di cư tăng tốc song song sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, khi thay đổi chính trị và cải tiến về công nghệ truyền thông làm giảm chi phí xuyên biên giới và viễn thông. Hiện nay, thuế quan và kiểm soát biên giới có thể làm chậm các dòng chảy đó. Đó sẽ là tin xấu đối với quyền lực của Mỹ, vốn đã được tăng cường bởi năng lượng và năng suất của người nhập cư trong suốt lịch sử của nó, bao gồm cả trong vài thập niên qua.

Các vấn đề không liên quan đến hộ chiếu

Không có cuộc khủng hoảng nào làm nổi bật sự tương thuộc không thể nào tránh khỏi tốt hơn là tình trạng biến đổi khí hậu. Các nhà khoa học dự đoán rằng biến đổi khí hậu sẽ gây ra chi phí khổng lồ khi các chỏm băng toàn cầu tan chảy, lũ lụt các thành phố ven biển, các đợt nắng nóng gia tăng và các mô hình thời tiết thay đổi hỗn loạn vào cuối thế kỷ này. Ngay cả trong thời gian tới, cường độ của các cơn bão và cháy rừng cũng trở nên trầm trọng hơn do biến đổi khí hậu. Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (The Intergovernmental Panel on Climate Change) là tiếng nói quan trọng khi họ nêu rõ sự nguy hiểm của biến đổi khí hậu, chia sẻ thông tin khoa học và khuyến khích hoạt động hỗn hợp xuyên quốc gia. Tuy nhiên, Trump đã loại bỏ sự ủng hộ đối với hành động quốc tế và quốc gia để chống lại việc biến đổi khí hậu. Trớ trêu thay, trong khi chính quyền của ông đang tìm cách hạn chế các loại toàn cầu hóa có lợi, nó cũng cố tình làm suy yếu khả năng của Washington trong việc giải quyết các loại toàn cầu hóa sinh thái, chẳng hạn như biến đổi khí hậu và đại dịch, mà chi phí có khả năng tiềm tàng là khổng lồĐại dịch COVID-19 ở Hoa Kỳ đã giết chết hơn 1,2 triệu người; Lancet đã đưa ra số người chết trên toàn thế giới là khoảng 18 triệu. COVID-19 lan truyền nhanh chóng trên toàn thế giới và chắc chắn là một hiện tượng toàn cầu, được thúc đẩy bởi du lịch là một phần không thể thiếu của toàn cầu hóa.

Trong các lĩnh vực khác, sự tương thuộc vẫn là nguồn sức mạnh chính của Mỹ. Ví dụ, mạng lưới tương tác chuyên nghiệp giữa các nhà khoa học đã có tác động tích cực to lớn trong việc đẩy nhanh các khám phá và đổi mới. Cho đến khi chính quyền Trump nắm quyền, việc mở rộng hoạt động khoa học và mạng lưới đã tạo ra rất ít phản ứng tiêu cực về chính trị. Bất kỳ bảng danh mục nào về những ưu và nhược điểm của toàn cầu hóa đối với phúc lợi nhân sinh đều phải bao gồm vấn đề này ở khía cạnh tích cực. Ví dụ, trong những ngày đầu của đại dịch COVID-19 ở Vũ Hán vào năm 2020, các nhà khoa học Trung Quốc đã chia sẻ việc giải mã về di truyền của coronavirus mới với các đối tác quốc tế trước khi họ bị Bắc Kinh ngăn chặn làm như vậy.

Đó là lý do tại sao một trong những khía cạnh kỳ lạ nhất của nhiệm kỳ mới của Trump là chính quyền của ông cắt bỏ hỗ trợ của liên bang đối với nghiên cứu khoa học, bao gồm cả trong các lĩnh vực mang lại doanh thu to lớn về đầu tư, mà nó chịu trách nhiệm chính cho tốc độ đổi mới trong thế giới hiện đại, và đã nâng cao uy tín và quyền lực của Hoa Kỳ. Mặc dù các trường đại học nghiên cứu của Mỹ dẫn đầu thế giới, chính quyền đã tìm cách bóp nghẹt họ bằng cách hủy bỏ tài trợ, hạn chế sự độc lập của họ và khiến việc thu hút những sinh viên sáng giá nhất từ khắp nơi trên thế giới trở nên khó khăn hơn. Cuộc tấn công này rất khó hiểu, ngoại trừ việc xem nó như một loạt đạn trong cuộc chiến văn hóa chống lại giới tinh hoa giả định mà họ là giới không chia sẻ ý thức hệ của trào lưu dân túy cánh hữu. Nó tương đương  như việc mang lại một vết thương khổng lồ, tự mình gây ra.

Chính quyền Trump cũng đang tháo gỡ một công cụ quan trọng khác về quyền lực mềm của Mỹ: sự ủng hộ của đất nước đối với các giá trị dân chủ tự do. Đặc biệt là trong nửa thế kỷ qua, ý tưởng về nhân quyền như một giá trị đã lan rộng khắp thế giới. Sau khi Liên Xô sụp đổ, vào năm 1991, các thể chế và chuẩn mực dân chủ lan rộng đến phần lớn Đông Âu (bao gồm cả Nga), cũng như các khu vực khác trên thế giới, đặc biệt là Mỹ La tinh, và có được một số chỗ đứng ở châu Phi. Tỷ lệ các quốc gia trên thế giới là dân chủ tự do hoặc bầu cử dân chủ đạt hơn 50% một chút vào thời điểm cao nhất vào khoảng năm 2000, và đã giảm một chút kể từ đó, vẫn ở gần 50%. Mặc dù "làn sóng dân chủ" trong thời hậu Chiến tranh Lạnh đã lắng xuống, nhưng nó vẫn để lại dấu ấn lâu dài.

Sự thu hút rộng rãi của các chuẩn mực dân chủ và nhân quyền, chắc chắn đã góp phần vào quyền lực mềm của Hoa Kỳ. Các chính phủ chuyên quyền chống lại những gì họ coi là sự can thiệp vào quyền tự trị chủ quyền của họ bởi các nhóm ủng hộ nhân quyền – các nhóm thường có trụ sở tại Hoa Kỳ và được hỗ trợ bởi các nguồn lực phi chính phủ và chính phủ ở Hoa Kỳ. Trong một thời gian, các chế độ độc tài đã chiến đấu trong một trận chiến phòng thủ, hậu vệ. Không có gì đáng ngạc nhiên khi một số chính phủ độc tài đã phẫn nộ trước những lời chỉ trích hoặc trừng phạt của Hoa Kỳ, nay họ đã hoan nghênh việc chính quyền Trump từ bỏ hỗ trợ nhân quyền ở nước ngoài, chẳng hạn như đóng cửa Văn phòng Tư pháp Hình sự Toàn cầu của Bộ Ngoại giao, Văn phòng về Các vấn đề Phụ nữ Toàn cầu và Văn phòng về Hoạt động Xung đột và Ổn định. Chính sách của chính quyền Trump sẽ ngăn chặn sự lan rộng hơn nữa của nền dân chủ và làm cạn kiệt quyền lực mềm của Mỹ.

Đặt cược vào thế yếu

Không có cách hủy bỏ tình trạng tương thuộc trong toàn cầu. Tình trạng này sẽ tiếp tục đến chừng nào con người còn di động và phát minh ra các công nghệ mới về truyền thông và giao thông. Rốt cuộc, toàn cầu hóa kéo dài hàng thế kỷ, với nguồn gốc kéo dài từ Con đường tơ lụa và hơn thế nữa. Vào thế kỷ XV, những đổi mới trong việc vận tải bằng đường biển đã thúc đẩy thời đại thám hiểm, tiếp theo là việc thuộc địa hóa của châu Âu mà nó định hình các ranh giới quốc gia ngày nay. Trong thế kỷ XIX và XX, tàu hơi nước và điện tín đã đẩy nhanh quá trình này khi Cách mạng Công nghiệp chuyển đổi nền kinh tế nông nghiệp. Hiện nay, cuộc cách mạng thông tin đang chuyển đổi các nền kinh tế định hướng về dịch vụ. Hàng tỷ người mang theo một chiếc máy tính trong túi chứa đựng một lượng thông tin mà 50 năm trước đây có thể lấp đầy một tòa nhà chọc trời.

Các cuộc thế chiến tạm thời làm đảo ngược toàn cầu hóa kinh tế và làm gián đoạn việc di cư, nhưng trong trường hợp không có chiến tranh toàn cầu, và cho đến chừng nào mà công nghệ còn tiếp tục phát triển nhanh chóng, toàn cầu hóa kinh tế cũng sẽ tiếp tục. Toàn cầu hóa sinh thái và hoạt động khoa học toàn cầu cũng có khả năng tồn tại, và các chuẩn mực và thông tin sẽ tiếp tục đi xuyên biên giới. Tác động của một số hình thức toàn cầu hóa có thể là gian ý: biến đổi khí hậu là một ví dụ nổi bật về một cuộc khủng hoảng không có biên giới. Để tái lập các kênh liên lạc và tái định hình toàn cầu hóa vì lợi ích chung, các quốc gia sẽ phải phối hợp. Để sự phối hợp như vậy có hiệu quả, giới lãnh đạo sẽ phải xây dựng và duy trì mạng lưới kết nối, chuẩn mực và định chế. Các mạng lưới này sẽ mang lại lợi ích cho cột thắt chính yếu của họ, Hoa Kỳ – vẫn là quốc gia hùng mạnh nhất trên thế giới về kinh tế, quân sự, công nghệ và văn hóa – cung cấp cho Washington quyền lực mềm. Thật không may, trọng tâm thiển cận của chính quyền Trump trong nhiệm kỳ thứ hai, vốn bị ám ảnh bởi quyền lực cứng mang tính cưỡng chế liên quan đến sự bất đối xứng thương mại và các lệnh trừng phạt, có khả năng làm xói mòn thay vì củng cố trật tự quốc tế do Mỹ lãnh đạo. Trump đã tập trung quá nhiều vào việc lạm dụng miễn phí của các đồng minh đến nỗi ông bỏ qua thực tế là Hoa Kỳ có thể lái xe buýt – và do đó chọn điểm đến và tuyến đường. Trump dường như không hiểu thế nào là sức mạnh của Mỹ nằm trong tình trạng tương thuộc. Thay vì làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại, ông đang đặt cược bi thảm vào sự yếu đuối.

R. O. K. & J. S. N., Jr.

***

·      Robert O. Keohane, Giáo sư hồi hưu Đại học Princeton, chuyên về các vấn đề quốc tế và là Cộng sự viên tại Trung tâm Harvard về các vấn đề quốc tế.

·      Joseph S. Nye Jr., Giáo sư hồi hưu Trường Chính phủ John F. Kennedy Đại học Harvard, là Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng về các vấn đề an ninh quốc tế và Giám đốc Hội đồng Tình báo Quốc gia trong chính quyền Clinton, tác giả của cuốn sách A Life in the American Century và các cuốn sách khác. Nye qua đời vào tháng Năm, khi bài viết này đang được tu chỉnh. Chúng tôi thương tiếc sự ra đi của ông và biết ơn gia đình ông đã cho phép chúng tôi tiếp tục tiến hành. Tiểu luận này dựa trên một số bài viết trước đây của Nye.

Cả hai là đồng tác giả của cuốn sách  Power and Interdependence: World Politics in Transition.

Dịch giả gửi BVN

 

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn