Hiển thị các bài đăng có nhãn Công nghệ giáo dục. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Công nghệ giáo dục. Hiển thị tất cả bài đăng

Công nghệ giáo dục và việc áp dụng nguyên lý dạy học “đi từ trừu tượng đến cụ thể”

Phạm Toàn

Một trong những nguyên lý dạy học theo “Công nghệ giáo dục” của GS Hồ Ngọc Đại gây tranh cãi nhiều nhất là nguyên lý “đi từ trừu tượng đến cụ thể”. Là một người theo dõi nhiều năm quá trình phát triển phải nói là thành công của những trường “Thực nghiệm” ở Hà Nội và TPHCM (1978-1998), và mới đây là thành công của một trường tư thục vào loại lớn nhất Hà Nội trong 2 năm 2015-2017 theo chương trình “Cánh Buồm” của nhà giáo Phạm Toàn, bản thân tôi cũng băn khoăn về nguyên lý này. Nhà giáo Phạm Toàn đã cố gắng giải đáp băn khoăn của tôi trong bài viết trả lời tôi sau đây, mà tôi xin chia sẻ với các bạn đọc Văn Việt, Bauxite Việt Nam, Diễn đàn, Tiếng dân, để tham khảo.
Hoàng Hưng[1]

Chiều thứ Bảy 22 tháng 9 vừa rồi, tại cuộc gặp gỡ Cà phê thứ Bảy ở Hà Nội, Giáo sư Hồ Ngọc Đại đã trình bày nguyên lý Công nghệ Giáo dục trước các bạn quan tâm. Khách tham dự ngồi kín ra cả bên ngoài phòng họp. Trong khoảng một trăm phút, giáo sư Hồ Ngọc Đại đã kể lại vắn tắt quá trình nghiên cứu Tâm lý học giáo dục và sự ra đời Công nghệ giáo dục của tôi (Hồ Ngọc Đại) chuyên về dạy học (không thuộc phạm vi hoạt động khác), với cái mẫu là cách dạy tiếng Việt ở lớp Một phổ thông (chưa là tất cả hành trình 12 năm đi học).

Trong nội dung Công nghệ giáo dục của Hồ Ngọc Đại, có vấn đề thuộc tư tưởng triết học, có vấn đề về hệ thống giải pháp nghiệp vụ sư phạm, và có cả vấn đề thuộc tổ chức xã hội cũng như tâm lý xã hội. Một chi tiết được nhiều người quan tâm trong cả đám những vấn đề to tát như thế, có nguyên lý dạy học theo cách đi từ trừ tượng đến cụ thể.

1. Người có thói quen tư duy bình thường sẽ thấy trừu tượngcụ thể là hai phạm trù khác nhau: trừu tượng được hiểu là những sự vật hoặc những ý niệm mơ hồ, còn cụ thể là những gì ngược lại.

Khi tổ chức việc học của trẻ em bậc Tiểu học, nhà sư phạm Công nghệ Giáo dục lại nhìn thấy sự vật triển diễn theo cách khác: trừu tượng là tình trạng sự vật chưa được cụ thể hóa và sự “trừu tượng” đó sẽ được cụ thể hóa dần dần cho đến khi sự vật đã bớt trừu tượng rồi đi tới chỗ hết trừu tượng.

Đây là thí dụ trong việc tổ chức cho trẻ em học ngữ âm tiếng Việt ở lớp 1.

2.a. Kể từ ngày đầu đi học lớp Một, trẻ em đều biết nói tiếng Việt mẹ đẻ, trẻ em sáu tuổi nhiều em nói khá sõi tiếng Việt. Bây giờ, khi các em phát ra một tiếng, như [mẹ] hoặc hai tiếng như [mẹ] [ơi] hoặc nhiều hơn hai tiếng như [mẹ] [ơi] [con] [đói]... Ngay khi phát âm các tiếng đó ra, chúng tan biến ngay trong không gian, chúng đều ở dạng trừu tượng. Nhưng ngay khi cho trẻ em vừa phát âm vừa phân tích theo cách vỗ tay vào mỗi âm, nhất là khi các em “ghi lại” được từng tiếng trong chuỗi lời nói đó, trẻ em sẽ nhận ra được sự cụ thể hóa ban đầu của âm tiết tiếng Việt, thí dụ

[mẹ] [mẹ] [ơi] [mẹ] [ơi] [con] [đói]

2.b. Chỉ với trình độ ngữ âm học ở giai đoạn vừa rồi, trẻ em chưa cụ thể hóa thêm được gì cho các tiếng của tiếng Việt. Qua từng bài học tiếp theo, các em sẽ nhận ra lần lượt cách cấu tạo của tiếng tiếng Việt theo trình độ càng lúc càng cụ thể hóa hơn lên:

– Qua phát âm và phân tích, tiếp tục tìm ra các tiếng giống nhau để thấy được những tiếng khác nhau, và ghi lại chưa bằng con chữ mà bằng những mô hình vuông, tròn, tam giác khác nhau về màu, thí dụ

Hoa thơm thơm lạ thơm lùng

Thơm cành thơm rễ người trồng cũng thơm

Đã thêm một bước cụ thể hóa!

– Trẻ em sẽ được hướng dẫn dùng một tiếng mẫu mang thanh ngang để tách một tiếng thành hai phần – phần đầu và phần vần – với phần đầu luôn luôn là một phụ âm. Việc thay thế thanh cho tiếng thanh ngang được trẻ em luyện tập tự nhiên, chẳng mấy khó khăn, lớp học lại rất vui.

Lại thêm một bước cụ thể hóa!

– Từ mô hình tiếng thanh ngang có hai phần trên, các em nghiên cứu mẫu tiếng [ba] và học chữ để ghi lại tất cả các tiếng có phụ âm đầu và một âm chính: [ba] [ca] [cha] [da] [đa] [ga] [kha] … … [tra] [va] [xa] … … và sau đó [ba] [be] [bê] [bi] [bo] [bô] [bơ] [bu] [bư] …

Lại thêm một bước cụ thể hóa! Và tiếp tục càng ngày càng cụ thể hóa thêm…

– Các em tiếp tục học luật chính tả bắt buộc thứ nhất liên quan đến việc ghi âm “cờ” (sau đó, mở rộng sang “gờ” và “ngờ”) khi đứng trước âm chính [e] [ê] [i] à ghi bằng con chữ k (gọi tên “ca”) để có [ke] [kê] [ki] à ghi bằng con chữ gh (gọi tên “gờ kép”) để có [ghe] [ghê] [ghi] à ghi bằng con chữ ngh (gọi tên “ngờ kép”) để có [nghe] [nghê] [nghi].

Cũng ở mẫu tiếng [ba] này, các em học luật chính tả bắt buộc thứ hai để ghi đúng âm [z] khi các tiếng mang nghĩa khác nhau như da (da thịt, ghi phụ âm đầu bằng con chữ d (gọi tên là “dờ”), như gia (gia cư, cụ già, đồ giả …, ghi phụ âm đầu bằng con chữ gi (gọi tên là “di”), như ra (đi ra đi vô, rổ rá, ra rả …, ghi phụ âm đầu bằng con chữ r (gọi tên là “rờ”).

Những bước cụ thể hóa sẽ còn được tiếp tục khi “tạm biệt” mẫu tiếng [ba] là điều đã biết, đã thành năng lực của học sinh 6 tuổi, để học sang mẫu tiếng [loa] (tiếng có ân đầu, âm đệm, và âm chính) mà ở đây cấu tạo của vần [oa] cũng được cụ thể hóa thêm thành vần [oe] [uê] [ươ] [uy], và luật chính tả ghi âm đầu “cờ” lại được cụ thể hóa thêm thành luật ghi âm đầu đó khi đứng trước âm đệm: phải ghi bằng chữ q (gọi tên là “cu”) và âm đệm [w] sẽ ghi bằng chữ u à [qua] rồi sau đó có [que] [quê] [qươ] [quy]…

Khi học sang tiếng mẫu [lan] – có âm đầu, không âm đệm, có âm chính và có thêm âm cuối – đó là một bước cụ thể hóa nữa về mẫu cấu tạo một tiếng, bây giờ mới học bán nguyên âm [ă] và [â] rồi cả luật chính tả cũng cụ thể hóa thêm [quan] rồi sau đó có [quăn] [quân], …, [quang] [quăng] [quâng], [quanh] [quăng], vv…

Tiếp tục con đường cụ thể hóa đó là điều dễ hình dung: từ tiếng mẫu [lan] chuyển sang mẫu [loan] – thể hoàn chỉnh của một tiếng tiếng Việt. Sau đó việc dùng mô hình tiếng [ba] và mô hình tiếng [loan] để giúp trẻ em phát âm và phân tích rồi tự ghi nguyên âm đôi [ia] [ua] và [ưa] khi không có và khi có âm cuối, và ta có sự phân biệt (cụ thể hóa) bằng cách ghi chính tả: [bia] và [biên]. [bua] và [buôn]. [bưa] và [bươn], những điều rất dễ nhận ra và được trẻ em ghi nhận trong ý thức, để chấm hết cuộc đời lớp Một vĩ đại, biết đọc và biết viết tiếng Việt sau một năm học so với hai mươi năm của cụ A. de Rhodes và cộng sự.

3. Có một vài điều cần nhận xét xoay quanh câu hỏi này: tại sao một câu chuyện dễ dàng đến thế lại trở thành chuyện “khó khăn” với biết bao người?

3.a. Người ta nói nhận thức của con người “không bao giờ đi từ trừu tượng đến cụ thể” cả. Mà con đường nhận thức là đi từ cụ thể đến trừu tượng. Người đời xưa phải nhặt nhạnh các vật cụ thể rồi mới đi đến tư duy phân loại. Ngay cụ A. de Rhodes cũng cóp nhặt các từ tiếng Việt mấy chục năm rồi mới hoàn thiện được bộ chữ quốc ngữ tiếng Việt.

Thực ra, ngay từ khi con người nguyên thủy ngắm nhìn hòn đá để suynghix từ các mảnh tước làm ra con dao hoặc lưỡi rìu, ngay khi đó cái trừu tượng và cái cụ thể đã hòa trộn trong tư duy về một sự vật. Và khi A. de Rhodes có khi đã ghi sai tiếng Việt (nhaôngNghi với nghĩa là “cái nhà của ông Nghị”) thì đó là vì cái tư duy đa âm tiết của ngôn từ như tiếng Ấn-Âu.

Có thể hơi hợp lý khi cho rằng tư duy khoa học của nhà nghiên cứu đã dẫn đến cách làm việc đi từ cụ thể đến những khái quát tổng hợp hoặc trừu tượng! Nhưng việc học của trẻ em không cần thiết phải lặp lại những đúng / sai của người lớn. Vì vậy con đường từ trừu tượng đến cụ thể vẫn là tiết kiệm nhất cho các em.

3.b. Xác định con đường học tập của trẻ em ngay từ lớp Một theo con đường từ trừu tượng đén cụ thể còn được bảo dảm bởi hệ thống công cụ tự học bằng các thao tác tự lao động để chuyển kết quả việc làm từ bên ngoài chuyển vào trong nhận thức và toàn bộ quy trình vừa dễ thực hiện và vừa dễ kiểm soát một cách khách quan.

Các việc làm được giao cho trẻ em thực hiện từ thao tác bằng tay, đến thao tác bằng tay kết hợp với lời nói to, nói nhỏ, nói thầm, đến chỗ trẻ em tự có năng lực đọc và viết. Cách làm việc này dẫn trẻ em đến với những khái niệm chứ không học lỏm, học mò. Đó là con đường học có ý thức, là sự khác biệt hoàn toàn giữa một nhà trường hiện đại với nhà trường kiểu cũ.

Trung Quốc, chứ không phải Nga, mới là thách thức thật sự của châu Âu

Edward Lucas

Phạm Nguyên Trường dịch

Những thỏa thuận về xây dựng cơ sở hạ tầng mờ ám ở Đông Âu mũi nhọn của chiến lược chia để trị của Bắc Kinh

Hai mươi năm trước, tôi đứng ở một “ổ gà” đầy nước, trước mặt là sông Amur và nhìn sang Trung Quốc. Những tòa nhà chọc trời trên đất Trung Quốc thể hiện rõ tính hiện đại, trong khi bên phía Nga hầu như không có cả đèn đường. Từ đó đến nay, hàng xuất khẩu, mức sống và tỷ trọng của Trung Quốc trong nền kinh tế thế giới đã tăng vọt; các chuyên gia cho rằng kinh tế Trung Quốc có thể vượt Mỹ vào năm 2030. Nga hiện đang lẽo đẽo theo sau trên tất cả các mặt trận.

Tuần trước tôi lại có mặt trên một đường biên giới khác, ở Georgia. Đất nước với 3,7 triệu dân nằm ở giao điểm của ba đế quốc: Nga, từng là đế chế cai trị nước này; đế chế Châu Âu-Đại Tây Dương của phương Tây; và cường quốc Trung Quốc đang lên. Người dân ở đây biết họ thích nước nào hơn. Mặc dù nằm ở bờ phía đông của Biển Đen, người Gruzia cảm thấymình thuộc về phương Tây. Người dân ở đây nói rằng đất nước họ đã từng nằm dưới quyền cai trị của La Mã suốt nhiều thế kỷ.

Tổng thống Nga Putin và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình

Mặc dù bị mắc kẹt - dường như là vĩnh viễn - trong phòng chờ để được tham gia khối NATO, Georgia đã đưa đội quân đội đông đảo nhất – tính theo số dân – tham gia cuộc chiến tranhở Afghanistan. Với sự trợ giúp tích cực của Mỹ, người Georgia đã tự do hoá nền kinh tế của mình, đã đối đầu với nạn tham nhũng và xây dựng được hệ thống chính trị đa nguyên, trongđó phe đối lập có thể thắng cử và đã thắng cử. Không lân bang gần gũi nào ở cả bắc, nam hay đông Georgia làm được như thế.

Hiện nay, tâm trạng ở vùng biên giới này đã thay đổi. Donald Trump, nói một cách nhẹ nhàng, không phải là Vespasian (người anh hung, rất được dân Georgia kính trọng). Đại sứ quánMỹ đang mất dần vai trò trong việc kiềm chế các tay đầu sỏ trên chính trường nước này và những hành động sai quấy của Nga. Tuyên truyền bài phương Tây và những câu chuyện kinh hoàngđược loan tải mà không bị ngăn chặn: EU sẽ buộc nước này hợp pháp hóa loạn luân, và hàng triệu người di cư Syria sẽ tràn vào nước này. Ngoài ra, trong những khu vực mà Nga cònchiếm đóng sau cuộc chiến năm 2008, thường xuyên diễn ra những cuộc tập quân mang tính đe dọa, và những vụ tấn công chớp nhoáng - bắt cóc và cướp đất – được tiến hành từ bênkia đường phân giới.

Nhưng người Georgia, tương tự như người Estonia, người Ba Lan, Ukraina và những bộ tộc đã được tôi luyện trong khu vực biên giới lo lắng nhiều hơn về sự ngây thơ, chia rẽ và tựmãn trong những quốc gia hùng mạnh ở phương Tây mà họ muốn được giúp đỡ. Họ nói, mặt trận thực sự không đi qua lãnh thổ của mình, mà đi qua những khu vực, nơi Nga có ảnh hưởng mạnh nhất: Berlin, Brussels, Rome và, thật kì quặc là, ở cả Washington DC nữa.

Tuy nhiên, vấn đề lâu dài không phải là Nga. Mặc cho quy mô về địa lý và kho vũ khí hạt nhân của mình, đế chế đã đổ nát này của Vladimir Putin thực chất là yếu. Nền kinh tế củanước này chỉ ngang với Italy. Mặc dù quân đội đã được hiện đại hóa, chi tiêu cho quốc phòng đang giảm. Hệ thống chính trị ngày càng dễ vỡ và lỗi thời. Điện Kremlin qua mặt đượcphương Tây là do ý chí và tàn nhẫn, chứ không phải là nhờ ngoại giao, kinh tế, chính trị hay quân sự. Thách thức thực sự đối với nền an ninh ọp ẹp của châu Âu có nguồn gốc từ nơi cósức mạnh hơn hẳn: Trung Quốc.

Muốn thấy tầm ảnh hưởng của Trung Quốc, chỉ cần nhìn cuốn nhật ký không có một chữ nào của Dalai Lama là đủ. Vì sợ Trung Quốc trả đũa, rất ít các nhân vật của công chúng giờ đây còn dám gặp ông già 83 tuổi, có thời từng được mọi người kính trọng này. Mặc dù ông đã hoàn toàn rời bỏ chính trường và chấp nhận rằng đất nước ông nên là một phần của Trung Quốc, Bắc Kinh – thật là lố bịch – vẫn tiếp tục coi ông là người truyền bá đầy nguy hiểm chủ nghĩa ly khai và mê tín của thời phong kiến. Trong chuyến đi châu Âu hồi tháng 6 vừa qua, chỉ có tám nghị sĩ dũng cảm của Lithuania là dám gặp nhà lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng mà thôi.

“Cơn bão” đánh vần kéo dư luận đi lạc hướng

Hoàng Dũng

Bài dưới đây đã đăng trên Lao động cuối tuần số 37 (từ 14/9 đến 16/9/2018), tr. 3, chưa đưa lên trang mạng của báo Lao động, sau khi đã cắt bỏ phần trả lời hai câu hỏi đầu tiên. Đây là bản gốc.

Theo PGS.TS ngôn ngữ học Hoàng Dũng, hiện nay, dư luận đang tập trung tranh cãi về cách đánh vần trong sách dạy của GS Hồ Ngọc Đại chứ hầu như không bàn đến chuyện khác. Mà người ta quên vấn đề lớn hơn – là cần một cơ chế giáo dục tốt hơn để không kìm hãm sự tiến bộ. Và chương trình phải lấy mục tiêu làm quan trọng chứ không phải là cách đi theo hướng nào.

Thưa ông, theo quan điểm của nhà ngôn ngữ học, ông đánh giá ra sao về phương pháp dạy tiếng Việt ở cấp tiểu học của giáo sư Hồ Ngọc Đại hiện đang gây tranh cãi ồn ào trên mạng?

Có thể thấy tâm điểm của các cuộc tranh cãi là cách đánh vần. Rất nhiều người cho cách đọc của nhà trường hiện nay là đúng, còn phía cải cách của GS Hồ Ngọc Đại là sai.

Thực ra, cả hai cách đánh vần gần nhau hơn người ta tưởng vì cùng một nguyên tắc, dù là triệt để hay không triệt để. Nguyên tắc đó là đánh vần theo âm. Ngày trước, đánh vần kiểu “bê a ba” là cách gọi tên theo chữ, chứ không phải đánh vần theo âm. Bây giờ, kể cả GS Hồ Ngọc Đại lẫn nhà trường hiện nay đều đọc “bờ a ba”, từ bỏ cách đánh vần theo kiểu gọi tên con chữ bằng cách phát ra âm mà con chữ thể hiện.

Khác là chỗ, trong khi sách của GS Hồ Ngọc Đại nhất quán về nguyên tắc ngữ âm, thì sách hiện nay trong nhà trường tiểu học lại rẽ sang hướng khác, khi gán cho cách đánh vần – vốn chỉ có một mục đích là để học trò đọc được – thêm một nhiệm vụ nữa là giúp cho học trò sửa lỗi chính tả. Ca đều có cùng một phụ âm đầu, nên theo đúng nguyên tắc ngữ âm, phải đánh vần “cờ a ca”, “cờ ê kê” như cách của GS Hồ Ngọc Đại. Nhưng sách của Bộ Giáo dục hiện hành chọn cách dạy “cờ a ca” nhưng “ca ê kê”. Đó là vì họ sợ học trò do đánh vần hai từ này như nhau mà viết cùng một chữ như nhau: ca, . Để tránh nguy cơ sai chính tả, họ hy sinh tính nhất quán của hệ thống, đánh vần theo cách gọi tên con chữ.

Thực ra có thể giải quyết theo một cách khác: chỉ cần dạy học sinh khi âm “cờ” đứng trước i, ê, e, thì viết chữ “k”.

Chuyện thiếu nhất quán như thế còn bộc lộ ở nhiều chỗ khác. Chẳng hạn, qua – vốn là [âm đầu “cờ” + âm đệm + nguyên âm a] – đánh vần theo ngữ âm như sách GS Hồ Ngọc Đại là “cờ oa qua”, còn sách hiện hành của Bộ Giáo dục là “quờ a qua”, do muốn dùng cách đánh vần để dạy chính tả. Đọc “qu” là “quờ” (gồm “cờ” + âm đệm) như một cái mẹo với mong muốn nhờ thế trẻ viết đúng chính tả, thì cũng không sao. Nhưng sách của Bộ Giáo dục chỉ gán âm đệm cho phụ âm đầu trong trường hợp âm đệm kết hợp với “cờ”, còn với các phụ âm khác thì âm đệm vẫn là một bộ phận của vần: qua là “quờ a qua”, nhưng hoa lại “hờ oa”, chứ không phải “huờ a hoa”. Hệ quả là, một cách logic, qua (vần a) phải được xem là không cùng vần với hoa (vần oa) – một điều trái với cảm thức của người Việt.

Tuy thế, nguyên tắc đánh vần theo ngữ âm không phải ổn thỏa trong mọi trường hợp. Điều này lộ ra rõ nhất ở trường hợp chữ quốc. Thầy Đại đọc “quốc” trong “quốc gia” là “cờ uốc cuốc”, hoàn toàn giống cái cuốc. Điều này đúng với với cách phát âm của người miền Bắc. Tuy nhiên, chữ này còn có hai cách đọc khác nhau – “quấc” ở miền Nam, ví dụ trong từ điển “Đại Nam quấc âm tự vịcủa Huỳnh Tịnh Paulus Của và “quức” ở miền Trung, ví dụ ở Huế.

Như thế, người Việt không có địa phương nào đọc chữ “quốc” với âm đệm + vần uốc cả. Tóm lại, “quốc” là cách viết sai chính tả. Người đầu tiên phát hiện ra lỗi sai chính tả là một người Mỹ, ông M. B. Emeneau trong cuốn Studies in Vietnamese (Annamese) Grammar năm 1951.

Tranh cãi về một điều quá cũ như thế phải chăng chúng ta nên bỏ cách đánh vần, thưa ông?

- Giữa thế kỷ 17, trường phái Port-Royal chủ trương bỏ cách đánh vần theo tên con chữ, để theo âm. Đánh vần theo cách nào, theo ngữ âm học hay theo cách đọc tên con chữ, là vấn đề xưa cũ ở châu Âu cách đây mấy thế kỷ mà giờ Việt Nam lại khơi dậy cuộc tranh cãi đó thì thật lạ.

Vấn đề ở chỗ, trên thực tế học xong đánh vần (theo bất cứ cách nào) là người ta quên sạch, khi đọc là đọc thẳng, chứ không hề đánh vần. Vậy thì, liệu có phải chăng không cần đánh vần? Mặt khác, có hàng vạn người nước ngoài học tiếng Việt mà không cần đánh vần. Bàn là “bàn” chứ không “bờ an huyền bàn”. Kết quả là người ta vẫn nói được tiếng Việt như thường.

Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa hề có công trình nào nghiên cứu so sánh dạy không đánh vần và đánh vần cả. Một chuyện kéo dài mấy thế kỷ, tác động đến hàng triệu con em của chúng ta, thì không lý do gì mà giới nghiên cứu giáo dục không ai để tâm cả. Vấn đề thì có, mà nghiên cứu thì không. Vì sao? Chương trình rất chặt chẽ, đã bắt đánh vần thì giáo viên nào cũng phải tuân theo. Trẻ con đi học theo đúng chương trình của nhà nước, mà không cho đánh vần thì có mà chết à? Làm thế nào mà thực nghiệm giáo dục nếu hễ dạy khác đi là phạm luật?

Trong chương trình mới sắp được áp dụng, người ta đặt ra mục tiêu về năng lực, chứ không bó buộc về phương pháp. Khi đó, thầy cô giáo, nhà soạn sách giáo khoa muốn đánh vần theo cách nào hay không đánh vần đều được phép, miễn là đạt yêu cầu mà chương trình đề ra. Và những ai xem đây là một đề tài tử tế để nghiên cứu, đối chiếu, đưa ra kết luận, sẽ có điều kiện để thực hiện.

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn