Hiển thị các bài đăng có nhãn 30-4-1975. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn 30-4-1975. Hiển thị tất cả bài đăng

Lại đến tháng Tư

Nguyễn Xuân Thọ

Cứ đến dịp này hàng năm là tôi lại chia sẻ những suy tư về ngày 30.4.1975, ngày đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc.

Gần đây tôi không hay viết lên mạng về nhiều đề tài mà người ta quan tâm, từ kẻ mà tôi biết là bất lương đang phá hoại nước Mỹ và thế giới, từ nhà tu hành chân đất đang làm cho nhiều người nghĩ lại về đức tin của họ gửi vào Phật giáo, rồi việc kỷ niệm ngày 30.4 thế nào cho hợp đạo lý…

30/4/1975 – 30/4/2025: Nhìn lại một giai đoạn lịch sử của dân tộc để nói với tuổi năm mươi

Đỗ Kim Thêm

BVN nhận được bài này, viết nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày 30 tháng Tư sắp tới. Bài viết đặt ra nhiều vấn đề - không nặng phần nhìn lại những thành tựu nổi bật trong 50 năm thống nhất đất nước, nhất là về kinh tế, ngoại giao mà chính tác giả đã thừa nhận bằng những lời vắn tắt nhưng nồng nhiệt. Chủ yếu tác giả muốn nhắm tới những gì còn tồn tại như cái giới hạn cốt tử phải vượt qua để một dân tộc có đủ điều kiện hướng tới tương lai với tư thế một thế hệ đầy sinh lực, có vị trí trên thế giới, trong đó, hạnh phúc thực sự là được hưởng một nền dân chủ đích thực, có đầy đủ các quyền làm người, và bình đẳng với nhau giữa mọi tầng lớp xã hội. Là những vấn đề trọng đại và nghiêm túc, bài viết đòi hỏi phải có sự tham góp của nhiều bậc trí giả. Ý kiến của một cá nhân tất nhiên không thể tránh khỏi sai sót, phiến diện. Tuy nhiên, cách đặt vấn đề cũng chưa phải nằm ở tầm vi mô, liên quan trực tiếp đến các chính sách cụ thể của nhà nước, chỉ mới trong phạm vi lý thuyết chung nhất mà thôi, vì thế ai cũng có thể bàn bạc, miễn với thái độ chân thành.

Trên tinh thần đó, chúng tôi xin mạnh dạn gửi đến bạn đọc xa gần công trình của nhà nghiên cứu Đỗ Kim Thêm. Xin được nhắc thêm, quan điểm cũng như phong cách ngôn từ thể hiện trong bài là thuộc về người viết, Ban biên tập không có ý can dự khi đăng bài.

Bauxite Việt Nam

Nguyễn Thị Thanh Bình phỏng vấn GS Lê Xuân Khoa về ngày 30/4

Nguyễn Thị Thanh Bình thực hiện năm 2021

TIỂU SỬ GS. LÊ XUÂN KHOA

Lê Xuân Khoa vào nghề dạy học năm 1950 tại trường trung học Nguyễn Huệ, Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp Đại học Văn khoa và Cao đẳng Sư phạm năm 1953, ông vào Saigon dạy tại trường công lập Petrus Ký. Năm 1958, ông được chuyển sang làm chuyên viên viết sách giáo khoa cho Sở Tu thư Bộ Quốc gia Giáo dục. Ông cũng  tham gia ban biên tập nguyệt san Văn Hóa của Bộ Giáo dục do Giáo sư Nguyễn Khắc Kham làm Chủ bút, hợp tác với tạp chí Bách Khoa, tập san Tư Tưởng của Viện Đại học Vạn Hạnh và các nhật báo Tự Do, Chính Luận.

Trước 1975, ngoài nghề nghiệp chính là giáo sư Đại học Văn Khoa và Đại học Đà Lạt, ông Lê Xuân Khoa đã đảm nhận các chức vụ sau đây:

- 1958-1960: Tổng thư ký Hội Việt Nam Nghiên cứu Liên lạc Văn hóa Á châu do Gíáo sư Nguyễn Đăng Thục làm Chủ tịch, xuất bản tạp chí Văn Hóa Á Châu và ấn bản Anh ngữ Asian Culture.

- 1962-1963: Chủ nhiệm tuần báo Xã Hội Mới, với Luật sư Vương Văn Bắc làm Chủ bút.

- 1965: Đổng lý Văn phòng Bộ Văn hóa Giáo dục, thời BS Nguyễn Tiến Hỷ, Quốc Vụ Khanh kiêm Tổng trưởng Bộ Văn hóa Giáo dục, Chính phủ Phan Huy Quát. 

- 1966: Bộ Giáo dục biệt phái một năm sang Đại học Vạn Hạnh giúp tổ chức và soạn thảo chương trình Khoa học Nhân văn.

- 1966-1967: Phó Giám đốc Tổ chức các Tổng trưởng Giáo dục Đông Nam Á (SEAMEO), Bangkok, Thái Lan.

- 1971-1975: Giám đốc Nhà xuất bản Hiện Đại do Hội Việt-Mỹ bảo trợ, thực hiện dự án dịch thuật và xuất bản các sách giáo khoa Đại học Mỹ cho sinh viên Đại học Việt Nam.

- 1973-1975: Chủ nhiệm tạp chí Phát Triển Xã Hội và ấn bản tiếng Anh Social Development với GS Luật khoa Tạ Văn Tài làm Chủ bút.

- Năm 1974-1975: Phó Viện trưởng Đại học Saigon đặc trách Nghiên cứu Phát triển, do GS Đại học Y khoa Saigon Nguyễn Ngọc Huy làm Viện trưởng.

Tháng Tư 1975, ngay sau khi tới Hoa Kỳ, GS Lê Xuân Khoa hoạt động liên tiếp 22 năm về tị nạn cho tới năm 1997.  Quan trọng nhất là những cuộc vận động các nhà làm chính sách của Hoa Kỳ và quốc tế về cứu trợ, bảo vệ và định cư tị nạn trong thời gian ông tham gia tổ chức Indochina Refugee Action Center từ 1979 (sau đổi tên là Southeast Asia Resource Action Center (SEARAC) và chính thức cầm đầu tổ chức này năm 1981.  Ông có quan hệ làm việc trực tiếp với nhiều nhà lãnh đạo Mỹ, UNHCR, chính phủ Hong Kong và các quốc gia Đông Nam Á cho tị nạn tạm trú. Đóng góp đặc biệt của ông và SEARAC là tổ chức hội nghị 15 nước liên quan đến tị nạn Việt Nam tại Washington, DC năm 1988 để chuẩn bị cho Hội nghị quốc tế Geneva năm 1989, sau đó giúp chính phủ Hoa Kỳ thực hiện được giải pháp công bằng và nhân đạo cho thảm trạng thuyền nhân tị nạn Việt Nam năm 1995. Ông tham dự nhiều hội nghị quốc tế, không chỉ về tị nạn, đặc biệt là thành viên phái đoàn chính phù Hoa Kỳ tại hội nghị Warsaw năm 1993 do Hội đồng An ninh và Hợp tác Châu Âu (CSCE) tổ chức, được Bộ Ngoại giao và Quốc hội Hoa Kỳ ngợi khen về những sáng kiến của ông đóng góp cho hội nghị. Năm 1997, khi đang làm giáo sư thỉnh giảng tại trường Cao Học Nghiên Cứu Quốc Tế (SAIS) và học giả ngoại trú của Học Viện Chính sách Đối ngoại (FPI), ông được Ditchley Foundation mời tham dự hội nghị về “Công bằng Xã hội và Giải quyết Nạn Nghèo Đói trên Thế giới” tại Oxfordshire, Anh quốc. 

Ở Việt Nam, ngoài những bài vở và công trình nghiên cứu văn hóa giáo dục, GS Lê Xuân Khoa là tác giả cuốn Thư tịch Phật học Việt Nam (Văn Hóa Á Châu, Saigon, 1962) và Nhập môn Triết học Ấn độ (Bộ Quốc gia Giáo dục, 1965, 1972). Tại Hoa Kỳ, ông là Chủ bút tờ báo The Bridge từ 1984 đến 1997, tác giả của nhiều bài báo, bài điều trần về chính sách tị nạn gồm cả hai bài tham luận cho tạp chí Đại học Oxford ở Anh và Đại học San Francisco, California. Tác phẩm chính của ông sau khi về hưu là cuốn Việt Nam 1945-1995: Chiến tranh, Tị nạn và Bài học Lịch sử (Tiên Rồng, 2004, 2006; Người Việt, 2018). Ông đang tiếp tục hoàn tất cuốn Lịch sử Tị nạn và Cộng đồng, dự trù sẽ ra mắt cuối năm 2022.

Lịch sử sẽ viết gì về ngày 30 tháng 4

Ngô Nhân Dụng

Xin giới thiệu dự phóng của học giả Ngô Nhân Dụng về cách nhìn của con cháu người Việt 100 năm sau ngày 30-4-1975 đối với thời điểm lịch sử khó quên này. Cũng rất mong quý bạn đọc cung cấp cho BVN thêm nhiều sự dự phóng khác, ngõ hầu cuối cùng có thể tìm ra một mẫu số chung giúp chúng ta hình dung diện mạo của xã hội Việt Nam vào những thập niên cuối thế kỷ XXI tương đối gần sự thật, vì xét cho cùng, đi tìm hình bóng quá khứ cũng chính là nhằm phác họa một viễn cảnh sẽ dẫn tới trong tương lai chứ không có gì khác. 

Người học lịch sử sau này sẽ tự hỏi tại sao chế độ đó không sụp đổ nhanh hơn, theo sau các nước ở Đông Âu và Nga, để dân Việt Nam được sống tự do sớm hơn, có cơ hội phát triển kinh tế và văn hóa nhanh hơn?

Ký giả này đã nhiều lần tự hỏi một cuốn lịch sử Việt Nam in năm 2075 sẽ nói gì về ngày 30 tháng Tư trước đó 100 năm?

Nhà viết sử sẽ ghi nhận 30 tháng Tư năm 1975 là ngày cuộc nội chiến đã chấm dứt giết chết hai triệu người Việt. Sau đó ba, bốn trăm ngàn người Việt đã vùi xác trên Biển Đông khi tìm đường chạy trốn một chế độ độc tài khắc nghiệt. Sách có thể ghi chú rằng dân số cả nước lúc đó khoảng 35 triệu.

Bí mật lịch sử tháng 4 năm 1975: Trung Quốc định tung lính Dù nhảy xuống Biên Hòa chặn Bắc Việt?

2023.04.26

RFA

Tổng thống Richard Nixon thăm Trung Quốc năm 1972. The White House / National Archives

Việc Trung Quốc tìm cách can thiệp chính trị vào Miền Nam Việt Nam ở giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh Việt Nam là điều không mới, nhưng một kế hoạch can thiệp ở cấp độ “quân sự”, với việc tung vào hai sư đoàn Nhảy Dù để đánh chặn Quân đội Bắc Việt tiến vào Sài Gòn, lại là điều ít người biết đến.

Bí mật lịch sử này lần đầu được Tiến sĩ sử học George Jay Veith tiết lộ trong phần “Tay chơi cuối cùng: Trung Quốc” (“The final actor: China,”) thuộc chương 24, “Ta sẽ tuốt gươm” (“I will draw out my sword”,) trong sách “Tuốt kiếm viễn chinh” (Drawn Swords in a Distant Land) xuất bản năm 2021. Cuốn sách “Tuốt kiếm viễn chinh” được TS. Jay Veith phát triển từ luận án Tiến sĩ sử học ông bảo vệ tại Monash University, Australia. Nhân dịp 30/4, RFA phỏng vấn TS. Jay Veith về bí mật lịch sử này.

Khi tàn chinh chiến, người Việt Nam nào cũng chung một nỗi đau

Không có bên thua cuộc hay bên thắng cuộc.

Bạch Huỳnh Duy Linh

Hàng năm, đến dịp kỷ niệm 30/4/1975, tôi thường được theo dõi các cuộc tranh luận nảy lửa của người Việt Nam thuộc cả hai bên thắng cuộc (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) và bên thua cuộc (Việt Nam Cộng hòa) về bản chất của các vấn đề xung quanh cuộc chiến năm 1975.

Việc sử dụng thuật ngữ “bên thắng cuộc”, “bên thua cuộc” chỉ để dễ dàng phân chia hai phe trong cuộc chiến, chứ thực sự người viết nghĩ rằng khi chiến tranh diễn ra, cả hai bên đều là những người thua cuộc. Mẹ Việt Nam luôn cảm thấy buồn khi những đứa con của mình đánh nhau và bị chết trong chiến tranh.

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn