“Suối đã đục dòng, chỉ lệ còn trong”

(Mênh mông thế sự để gió cuốn đi số 27)

Tương Lai

Những ngày cuối năm miên man trong suy ngẫm về những diễn biến, những sự kiện của năm 2017, nỗi ám ảnh của hình tượng và tứ thơ của nhà thơ Pháp lại cứ trĩu nặng trong đầu mà đôi lần đã dẫn ra trong Mênh mông thế sự:

 Giữa mùa phản phúc
 Tối đen tù ngục
 Suối đã đục dòng,
 Chỉ lệ còn trong

Vào mỗi cuối năm, người ta hay điểm lại những diễn biến lớn của thế sự trong năm bằng cách quy vào trong biểu đồ sự kiện theo dạng nổi bật nhất thu hút được sự chú ý của công luận trong và ngoài nước. Là người ngồi một chỗ rất ít bước ra khỏi nhà, chỉ qua chiếc máy tính và câu chuyện bên ấm trà của bạn bè đến chơi mà nắm thông tin từ những cuộc luận bàn thế sự, ếch ngồi đáy giếng, sao có thể cao giọng sơ kết, tổng kết tình hình mà dựng lên sơ đồ, biểu đồ khái quát.

Đã thế, tin trên mạng truy cập qua máy tính thì loạn xà ngầu, hay có, dở có, thật giả khó phân, vàng thau lẫn lộn, lại không có điều kiện kiểm chứng. Còn tin trên báo chính thống, trên màn hình tivi thì cùng một kiểu, một giọng của “quanh quẩn mãi chỉ vài ba dáng điệu/ Tới hay lui cũng ngần ấy mặt người”. Tệ hai hơn là cây gậy chỉ huy thò ra quá trắng trợn, chọc thủng trang báo, vạch nát màn hình, nên dù có đúng đôi phần thì một tin mười ngờ, không cần kiểm chứng vì “đi vào đi ra vẫn thằng cha lúc nãy” mặt nhẵn như chùi, thì kiểm cái nỗi gì cho phí thời gian.

Dân chúng thì đã thật mục sở thị trò bịp bợm nói dối không chỉ một lần, không chỉ mười lần, mà trăm lần, vạn lần theo kiểu sáng đúng, chiều sai, sáng mai lại đúng của chủ trương, chính sách và những lời rao giảng, những phát ngôn liều lĩnh, dốt nát mà ai đó mỉa mai bằng khái niệm “phát ngôn ấn tượng” từ nơi chóp bu, khiến cho lòng tin của dân đã bị cuốn theo dòng nước lũ của ngôn từ bịp bợm khái niệm bị đánh tráo, ngày càng dồn dập với sức tàn phá khủng khiếp!

Vậy thì chẳng nhẽ gác bút, đậy bàn phím máy tính, ngồi nhâm nhi ly cà phê để tự an ủi “lão giả an chi” sao? Khốn nỗi, chính ngay khái niệm “lão giả an chi” trong gốc gác lại là một thôi thúc hành động của nhà tư tưởng Trung Hoa thời cổ đại mà Mênh mông thế sự đã từng đề cập. Khổng tử muốn xây nên một xã hội mà người già có thể an hưởng tuổi già, bạn bè tin nhau, lấy chữ tín mà đối đãi với nhau, con trẻ được chăm sóc khiến cho chúng biết ngưỡng mộ, nhớ đến cha ông. Vậy thì “Lão giả an chi, bằng hữu tín chi, thiếu giả hoài chi” là một định hướng tích cực, một lý tưởng sống đấy chứ, đâu phải là một lời khuyên đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ, rằng khôn cũng gật rằng khờ cũng vâng.

Để cho con cháu biết kính trọng và nhớ đến (thiếu giả hoài chi) thì thế hệ cha anh hôm nay phải biết xua gậy đi trước để thúc giục lớp trẻ phải thấm thía nỗi khổ nô lệ, đau đớn vì thân phận chư hầu, nhục nhã vì đất nước lạc hậu, lạc điệu về thể chế chính trị giữa một thế giới văn minh, kinh tế, văn hóa, khoa học, công nghệ thua kém các nước trong khu vực, đành phải làm quân cờ trong cuộc chơi giữa các nước lớn.

Không đủ điều kiện đưa ra những con số thống kê, những sơ đồ khái quát sự kiện, những biểu đồ về diễn biến báo hiệu một chiều hướng sắp tới từ những thảm trạng đã qua, nhưng vẫn có thể bằng phân tích logic của sự vận động đã diễn ra, lý giải thảm trạng đó không chỉ bằng bộ óc của một người nghiên cứu mà còn từ trái tim của một công dân biết rõ nghĩa vụ của mình với tổ quốc, lương tâm không phải hổ thẹn với nhân dân để nói về cảm nhận năm 2017. Tôi cố làm điều đó.

Cảm nhận ấy được khái quát lại trong hình tương thơ
Giữa mùa phản phúc
Tối đen tù ngục
trong Hành khúc của nhà thơ Pháp thời Paris bị phát xít Đức chiếm đóng đang có sức lay động mãnh liệt, trở thành nỗi ám ảnh có sức rọi chiếu về trạng thái ngột ngạt, bức bối khi suy ngẫm về cuộc sống đang diễn ra trong năm 2017.
 Suối đã đục dòng
 Chỉ lệ còn trong

Quả vây. Nhưng “chỉ lệ còn trong” (nguyên văn tiếng Pháp là “Les larmes seules furent claires”) thì cho dù “nước mắt là ngôn ngữ câm lặng của đau buồn” như Voltaire từng nói thì xóa được dòng nước mắt khỏi trái tim mình là điều quá khó! Vì thế đành phải mượn hình tương thơ của Aragon để bằng sự ám ảnh khôn nguôi ấy mà nói lên cảm nhận chủ quan rất riêng tư về “suối đã đục dòng” giữa “mùa phản phúc, tối đen tù ngục” trong tầm nhìn khái quát về năm 2017.

Thực ra, cái tứ thơ về dòng “suối” trong tự nhiên và “nước mắt” của con người không chỉ có trong thơ của Louis Aragon. Hình ảnh từng xao động lòng người được gợi ra trong Thề non nước của Tản Đà (1889-1939), một thi sĩ làm gạch nối thế kỷ XIX sang thế kỷ XX trong thi ca Việt Nam với “khát vọng thoát ly ra ngoài cái tù túng, cái giả dối, cái khô khan của khuôn sáo… Cái buồn chán của Tiên sinh cũng là cái buồn chán của một người trượng phu. Thở than có nhưng không bao giờ rên rỉ” như Hoài Thanh – Hoài Chân viết trong Thi nhân Việt Nam.

 Non cao những ngắm cùng trông
 Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày

Hình tượng thơ vượt ra khỏi nỗi niềm cá nhân, không chỉ là thân phận một con người, mà là cảm khái về nỗi niềm dân tộc. Ở đây dòng suối và dòng nước mắt quyện làm một nhằm biểu đạt trạng thái của cảm xúc trong nỗi khắc khoải “Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày”. Ở đây không là suối và nước mắt với sức biểu đạt dữ dội khi phản ánh trạng thái ngột ngạt dồn nén của sự phẫn nộ “giữa mùa phản phúc, tối đen tù ngục” với sức truyền cảm có tính trực tiếp hơn nên nỗi ám ảnh cũng đậm đặc hơn, “thời sự” hơn trong thơ Aragon, nhưng sức lay động tâm hồn, nhất là với những tâm hồn nhạy cảm thì “suối khô dòng lệ chờ mong” của Tản Đà giục giã một cách thế tồn tại có trách nhiệm với đất nước vào buổi ấy. Nó kín đáo ươm mầm cho sự dấn thân cứu nước trong niềm khắc khoải của khát vọng “nước đi ra bể lại mưa về nguồn”.

Trong cảm nhận hình tượng nghệ thuật thì tùy theo cảm hứng và nhận thức của từng người, không ai giống ai. Cảm nhận về thời cuộc thì cũng na ná vậy thôi. Yếu tố cá nhân vẫn có vai trò quyết định. Tùy theo trình độ, tầm nhìn và bản lĩnh của người dấn thân và người chọn cách đứng ngoài cuộc, người đã vượt qua được sự sợ hãi và người lẩn tránh hiện thực theo dáng dấp của con đà điểu rúc đầu vào cát, mà có cách nhìn, cách biểu đạt. Phải chăng vì vậy mà “suối lệ chờ mong” chưa đủ sức làm bật dậy những người đang ngái ngủ hoặc tuy thức nhưng bị dìm sâu trong chính sách ngu dân và những tuyên truyền lừa mỵ bịp bợm của giới cầm quyền muốn có một bầy cừu tuân phục nên “suối lệ” phải chuyển thành “huyết lệ” như Phan Bội Châu:

 Bâng khuâng đỉnh núi chân ngàn
 Khói tuôn khí uất, sóng cồn trận đau
 của “Lời huyết lệ gởi về trong nước” (Hải ngoại huyết thư).

Ở đây cũng là non cao, cũng là dòng lệ nhưng đã biến thái thành “đỉnh núi, chân ngàn”, thành “sóng cồn trận đau” mới đủ sức lay động. Dòng huyết lệ của chí sĩ Phan Bội Châu cuộn đau về đất nước đang quằn quại dưới ách ngoại bang. Dòng nước mắt ấy hòa với máu trong huyết quản của người yêu nước, thương nòi, quyết không chịu làm nô lệ.

Phải chăng vì thế mà Albert Camus lại đòi hỏi “Con người phải sống và sáng tạo. Sống cho đến mức rơi lệ”! Có lẽ nhà văn Pháp, giải Nobel văn chương năm 1957 muốn diễn đạt một khát vọng sống, một cách thế sống xứng đáng với con người.

Những ai đã “sống cho đến mức rơi lệ” qua năm 2017 của một nước Việt Nam đang từng bước tiến gần đến sự thật nhục nhã được mở đầu với mật ước Thành Đô sẽ càng hiểu rõ lời cảnh báo của Nguyễn Cơ Thạch đã đưa ra: “một thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai bắt đầu”. Cho nên không lạ gì khi Nguyễn Cơ Thạch buộc phải rời ghế Bộ trưởng Ngoại giao trước đòi hỏi của Trung Quốc thời Giang Trạch Dân và được Nguyễn Văn Linh cung cúc tận tụy chấp hành. Từ đó, xuôi theo năm tháng của các kỳ đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam, nổi rõ lên là từ Đại hội 8, và trắng trợn phơi bày là từ Đại hội 10, qua Đại hội 11 đến Đại hội 12 với Nguyễn Phú Trọng, sự lệ thuộc vào Trung Quốc là nét nổi bật “giữa mùa phản phúc, tối đen tù ngục”, hằn rõ trên diện mạo của xã hội Việt Nam, đè nặng lên đời sống tinh thần của những người Việt Nam có lương tri, nhất là giới trí thức và thế hệ trẻ.

Phải chăng phản phúc và tù ngục là hình ảnh có sức khái quát rất cô đọng về những gì diễn trong năm 2017. Sự phản phúc của những kẻ, với nhiều lý do khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp, hữu ý hay vô tình đã tiếp tay cho kẻ thù của dân tộc đang nhe nanh, múa vuốt tiếp tục thực hiện mưu toan bành trướng mà cha ông chúng đã làm. Hãy chỉ nói đến một hiện tượng được lặp đi lặp lại: ngoài chuyến thăm của hoàng đế họ Tập, cứ mỗi lần có một sứ thần thiên triều đến Hà Nội là mỗi lần in đậm dấu ấn thái thú Tàu muốn phục dậy đế chế lên bán đảo hình chữ S nhìn ra Biển Đông, nơi phô bày bộ mặt bẩn thỉu của “siêu cường hung đồ”, con quỷ Frankenstein thế kỷ XXI.

Thì đó, chuyến vi hành của tướng Phạm Trường Long, nhân vật quyền lực số 2 trong quân đội Trung Quốc đến Việt Nam dạo tháng 7 vừa rồi đã nói thẳng vào mặt những lãnh đạo chóp bu của Việt Nam rằng “toàn bộ các đảo ở Biển Nam Hải (là tên gọi Trung Quốc dùng để chỉ Biển Đông) đã thuộc lãnh thổ Trung Quốc kể từ thời thượng cổ”. Trước đó vài ngày, Trung Quốc lại tiếp tục kéo giàn khoan HD-981 ra Biển Đông, tới vị trí rất gần bờ biển Việt Nam nhằm gây áp lên các dự án thăm dò dầu khí của Việt Nam trong khu vực, những dự án mà theo chúng đã đặt ra một tiền lệ rất nguy hại cho chiến lược của Trung Quốc ở Biển Đông.

Vì thế, ngày 21/7 trước khi đến Việt Nam, tên tướng họ Phạm đã ra lệnh chiến khu phía Nam Trung Quốc “đẩy mạnh công tác chuẩn bị đấu tranh quân sự, tập trung tăng cường huấn luyện quân sự thực chiến hóa”, nhằm “phát huy sức mạnh tinh nhuệ để phục vụ trong thời khắc quan trọng”. Có thể nói, đây là lần đầu tiên kể từ ngày thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1949 mới có một chỉ thị “sẵn sàng chiến đấu” ở mức độ cụ thể như vậy đối với hướng Biển Đông, là do từ trước đến giờ ở Biển Đông Trung Quốc chưa từng phải đối mặt với cục diện như hiện tại. Và cũng do đó, Nguyễn Phú Trọng và bộ sậu của ông ta đã nhục nhã và hèn hạ chấp nhận việc tạm ngừng khoan dầu theo hợp đồng đã ký kết với tập đoàn Epson của Tây Ban Nha, bồi thường thiệt hại cho họ với một số tiền không nhỏ mà có người đã tính ra là gấp 10 lần số tiền Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí đem đầu tư vào Ngân hàng Đại dương!

Trung Quốc bằng mọi thủ doạn quyết ngăn cản Việt Nam thăm dò dầu khí tại bãi Tư Chính trên thềm lục địa phía Nam của Việt Nam. Đơn giản là vì dự án Cá Voi Xanh gần với quần đảo Hoàng Sa và nằm trong đường 9 đoạn mà Trung Quốc đơn phương áp đặt lên bản đồ Biển Đông trong yêu sách chủ quyền của mình.

Cũng phải nói thêm rằng ngoài chuyện dầu khí, Trung Quốc còn muốn độc chiếm các nguồn lợi khác ở Biển Đông. Khai thác cá là một ví dụ. Cần biết rằng hơn một nửa số tàu đánh cá trên thế giới hoạt động ở Biển Đông. Theo các chuyên gia, “Ở Biển Đông, cá có thể đẻ trứng trong vùng đặc quyền kinh tế của một nước, sống thời non trẻ trong vùng đặc quyền kinh tế của một nước khác, và sống phần lớn thời trưởng thành trong vùng đặc quyền kinh tế của một nước khác nữa. Đánh bắt quá mức hoặc hủy hoại môi trường tại bất kỳ điểm nào trong chuỗi này sẽ ảnh hưởng nặng nề đến tất cả những người sống xung quanh biển. Toàn bộ Biển Đông đang chao đảo bên bờ vực của một cuộc suy sụp nghề cá, và cách duy nhất để tránh nó là thông qua hợp tác đa phương trong các vùng biển đang bị tranh chấp” (xem https://www.facebook.com/tiengdanbao/posts/1522171137860923). Trung Quốc đã khước từ nhiều cuộc hội nghị quốc tế thuong thảo về vấn đề gay cấn này.

Khi Trung Quốc ngang ngược tuyên bố về “chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở Biển Đông và vùng biển liền kề” chính cũng là để trắng trợn độc quyền hoặc giành giật phạm vi khai thác nguồn lợi béo bở này. Bill Hayton, tác giả cuốn sách The South China Sea: The Struggle for Power in Asia (Biển Đông: cuộc tranh giành quyền lực ở châu Á), đã nói thẳng ra điều đó: “Trên thực tế, Trung Quốc đang cầm súng chĩa vào đầu ngành công nghiệp đánh bắt cá ở Đông Nam Á mà nói rằng này hãy tham gia vào cách bố trí quản lý cá của chúng tôi hoặc chúng tôi sẽ ăn hết mọi thứ”.

Bộ mặt ghê tởm của “siêu cường hung đồ” như danh xưng mà báo chí thế giới đặt cho đế chế Tập Cận Bình đang phơi bày trước thế giới. Một sự phản kháng toàn cầu (global backlash) chống lại siêu cường hung đồ đó đang hình thành và ngày càng dâng cao. John Pomfret, từng là trưởng văn phòng báo Washington Post tại Bắc Kinh, vừa cho đăng trên tờ báo này ngày 19.12.2017 bài viết The global backlash against China is growing phân tích sâu sắc vấn đề nói trên. Phản ứng chống lại Trung Quốc không chỉ bó hẹp trong các nước ở phương Tây. Những quốc gia có quan hệ gần gũi với Trung Quốc cũng đã bắt đầu nổi giận với cách đối đãi trịch thượng của Bắc Kinh như là một phần của chương trình hạ tầng “Một vành đai, một con đường” mà trong Tuyên bố Việt-Trung vừa rồi đã hết lời ca ngợi.

Vì vậy, không có gì khó hiểu khi Trung Quốc rất e ngại việc Việt Nam lập quan hệ đối tác với một công ty dầu khí của Mỹ, đặc biệt là với công ty mà Ngoại trưởng Mỹ Rex Tillerson từng lãnh đạo. Chính Tillerson đã nhấn mạnh giải pháp cứng rắn của Mỹ ở Biển Đông là chặn đường tiếp cận tới các đảo nhân tạo của Trung Quốc và không cho phép Trung Quốc tiếp tục cải tạo Biển Đông.

Điều này đã phần nào giải thích tại sao tiếp theo việc tập đoàn Tây Ban Nha phải ra thông báo ngưng tham gia khoan thăm dò tại lô 136-3 thì “Cá Voi Xanh cũng đang mắc cạn” như báo chí đã đưa tin. Tại sao? Xin hãy hỏi ông Nguyễn Phú Trọng, người vừa hân hoan ký tuyên bố chung Việt-Nam-Trung Quốc ngày 13.11.2017: “Sự phát triển của nước này là cơ hội của nước kia”. Mà như Trung Quốc đã nói rõ: mọi quyền lợi ở Biển Đông lại là “lợi ích cốt lõi” và ảnh hưởng đến “nền tảng quản lý đất nước” của Đảng Cộng sản Trung Quốc thì, đã là “cùng chung vận mệnh” lẽ nào ông Trọng không vứt bỏ lợi ích của dân tộc, tạm gạt sang một bên chủ quyền đất nước, để chiều lòng người đồng chí láng giềng cùng chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa của ông!

Khi đặt Cương lĩnh đảng của ông lên trên Hiến pháp, đảng viên mà nói tới tam quyền phân lập và xã hội dân sự thì bị khai trừ bất chấp đó là những thành tựu của văn minh thì tất nhiên bộ máy bạo lực bỏ tù trước hết những ai dám lên án Trung Quốc xâm lược nhưng lại sẵn sàng phục hồi chức vụ vụ cho những ai cung cúc tận tụy với Tàu.

Hãy dẫn ra một ví dụ nhỏ nhưng sự lộ liễu và tai ngược lại lớn đã được trưng ra trước mắt mọi người như việc phục chức cho Nguyễn Viết Hiệp là một hành động trêu ngươi! Nó cho thấy rất rõ những thanh củi nào được đút vào lò của ông Trọng và thanh củi nào thì được rút ra. Nguyên là Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Vận tải đường sắt Hà Nội, sau vụ lùm xùm mua 160 toa xe cũ của Tàu đã bị ông Đinh La Thăng cách chức thì đây không chỉ là chuyện “giậu đổ bìm leo” mà là nó đúng “quy trình” trong cái chuỗi chống tham nhũng.

Bởi vậy mà báo Pháp luật Thành phố HCM ngày 30.12.2017 giật cái tít rất đậm “Tổng giám đốc bị ông Đinh La Thăng cách chức về lại ghế cũ” dẫn lời của một quan chức “Ông Nguyễn Viết Hiệp là người có năng lực, tâm huyết, việc Hội đồng quản trị công ty bổ nhiệm chức vụ trên đối với ông Hiệp là hoàn toàn hợp lý”. Thì nhất định là phải có năng lực và tâm huyết rồi. Lặn lội sang tận Cục Đường sắt Côn Minh (Trung Quốc) để móc ngoặt mua toa cũ thì không tâm huyết với bạn sao có thể làm được. Không tâm huyết với người “cùng chung vận mạng” để chia ngọt sẻ bùi với “người đồng chí láng giềng cùng chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa” thì làm sao có đủ khả năng gánh vác trọng trách được!

Đồng thời với việc phục chức cho những người tâm huyết với mối quan hệ ăn chia mờ ám với Tàu ấy, thì lại phải bỏ tù những người tâm huyết với sự nghiệp của nước của dân vì ngược với “đường lối sáng suốt” của Đảng gắn bó, cùng chung vận mệnh với kẻ thù. Vì thế, càng ngày những bản án bỏ túi xử rất nặng những người yêu nước chống xâm lược, đòi quyền làm người, đòi quyền dân chủ tự do càng tăng lên cho thấy sự bối rối, hoảng loạn của thế lực cầm quyền dự cảm được làn sóng phẫn nộ đang dâng trào.

Bật đèn xanh cho một lũ đâm thuê chém mướn đánh đập, đàn áp dã man những người trong tay không có một tấc sắt chỉ đấu tranh hòa bình như Mẹ Nấm, như Trần Thị Nga, những người mẹ đang nuôi con nhỏ, khiến công luận không chỉ trong nước mà cả nước ngoài phẫn nộ lên án là báo hiệu một sự sụp đổ không thể tránh khỏi.

Khi đặt mục tiêu thanh toán đối thủ chính trị qua chiêu bài chống tham nhũng, vốn là một vấn đề gây nhức nhối trong tâm trạng xã hội, đánh trúng đòi hỏi bức xúc của quần chúng nhân dân cần phải loại bỏ bọn “ăn của dân không trừ một thứ gì” để tranh thủ họ đứng về mình như Tập Cân Bình đã làm, ông Nguyễn Phú Trọng đã không thấy được giữa thực tế Việt Nam hiện nay và bối cảnh Tập Cận Bình thực hiện chủ nghĩa “tân chuyên chế” (neo-authoritarianism) rồi “tân toàn trị” (neo-totalitarianism) có một khoảng cách quá xa, và sự khác biệt về tương quan lực lượng cũng là quá lớn.

Việc bất chấp lợi ích dân tộc, thể diện quốc gia và luật pháp quốc tế, cho người sang tận Berlin để bắt cóc Trịnh Xuân Thanh “hy sinh đối ngoại vì mục tiêu đối nội” là một ví dụ tiẻu biểu cho điều vừa nói từng được thể hiện trong khẩu hiệu “còn đảng còn mình”. Đây là một sự đánh tráo khái niệm để lừa bịp những người nhẹ dạ cả tin nhằm che bớt di việc bám giữ cái ghế quyền lực đang vừa giành được trong cuộc tranh bá đồ vương, sẵn sàng giày xéo lên lợi ích của đất nước, vận mệnh của dân tộc. Chính điều đó đang làm ruỗng nát đảng cầm quyền, giẫm đạp lên công lao, uy tín của những người đi trước trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, làm rạng rỡ hình ảnh Việt Nam trong con mắt của khu vực và thế giới. Đau đớn hơn, những gì đã và đang diễn ra đã làm ruỗng nát lý tưởng cao đẹp mà thế hệ những người ưu tú, bộ phận tinh hoa của đất nước đã dấn thân, máu của họ đã thấm đẫm trên mảnh đất này. Sự phản bội này thật khó mà đo đếm. Chính sự phản bội đó đã làm ruỗng nát lòng tin của thế hệ trẻ về sứ mệnh thiêng liêng đối với sự nghiệp bảo vệ tổ quốc, sự nghiệp mà xương máu của cha anh họ đã xây đắp nên.

Đành rằng nói đến giặc ngoại xâm, nhất là giặc ngoại xâm truyền kiếp là chạm vào điểm nhạy cảm bậc nhất trong tâm thế Việt Nam. Nhưng những gì mà tuổi trẻ đã tận mắt chứng kiến sự tồi tệ của một bộ phận không nhỏ trong thế lực cầm quyền cúi đầu khuất phục kẻ xâm lược, thậm chí biến thành tay trong của chúng, thì nói đến nghĩa vụ đối với tổ quôc khi giặc xâm lược từ phương Bắc tràn vào chắc không còn đủ sức thuyết phục. Chủ động tạo ra kịch bản ấy không thể không có trong toan tính của thế lực hiếu chiến Bắc Kinh.

Cùng với việc mua chuộc và thu phục bộ phận chóp bu là cách đỡ tốn kém nhất trong chiêu võ Tàu cổ truyền để biến một quốc gia thành chư hầu của chúng, thì làm rệu rã ý chí quật cường của thế hệ trẻ, tạo ra mối nghi kỵ, hủy hoại lòng tin của họ để không chịu biến mình làm vật hy sinh cho một nhóm lợi ích mạo danh đất nước. Họ sẽ khước từ cầm súng chống giặc ngoại xâm khi mà giặc nội xâm đang hàng ngày hằng giờ đục khoét đất nước. Mưu toan thâm hiểm này không thể không lồng vào “quan hệ hữu nghị truyền thống và đối tác hợp tác chiến lược toàn diện” vừa được ký kết. Cứ soi vào những gì đã và đang diễn ra trên đất nước ta năm qua sẽ hiểu rõ điều đó. Vấn đề này đã phân tích trong bài trước chắc không phải nhắc lại.

Đương nhiên mức độ nhận thức của mỗi người, mỗi tầng lớp xã hội không hoàn toàn như nhau. Tùy vào chỗ đứng, tùy vào hoàn cảnh, trong đó có điều kiện kinh tế, tài chính, điều kiện gia đình, vị thế xã hội, những mối quan hệ chằng chéo phức tạp mà có cách nhìn và sự cảm nhận khác nhau. Đặc biệt là khi bộ máy tuyên truyền của chế độ toàn trị phản dân chủ với mạng lưới rộng khắp mà Goebbels của bộ máy phát xít Đức còn thua xa như bài viết mới đây đã phân tích, thì một bộ phận khá lớn công chúng chịu sự tác động còn khá nặng nề. Tuy rằng, với những thành tựu của công nghệ thông tin, mạng lưới Internet nối mạng toàn cầu thì việc bưng bít thông tin khó bề thực hiện đã hạn chế bớt sự tiếp nhận một chiều, hạn chế bớt thông tin lừa mị bịp bợm. Chỉ có điều, không thể không thấy một sự thật là trình độ dân trí tuy có được nâng lên, nhưng nếu so với đòi hỏi của phát triển, đối chiếu với trình độ chung của thế giới thì chúng ta vẫn còn quá lạc hậu.

Bỗng nhớ lại tác giả của câu thơ vừa trích dẫn “suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày”. Cách đây đúng 90 năm, năm 1927, cũng vào thời điểm ra đời của kiệt tác Thề non nước Tản Đà đã viết dưới dạng câu đối:

Dân hai nhăm triệu ai người lớn
 Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con

Ngót một thế kỷ đã trôi qua, bao nhiêu nước chảy qua cầu, bao nhiêu “dòng lệ chờ mong” đã chảy thành suối, thành sông, qua bao nhiêu thác, bao nhiêu ghềnh, qua bao “đỉnh núi chân ngàn” nỗi đau của nhà thi sĩ nằm vắt ngang thế kỷ XIX và thế kỷ XX còn day dứt chúng ta hôm nay không? Riêng người đang viết bài này thì vẫn cảm thấy xốn xang nỗi khắc khoải của nỗi niềm mong ngóng “nước đi ra biển lại mưa về nguồn” của một tấm lòng ưu tư về vận nước ở đầu thế kỷ XX.

Nay thì dân số nước ta đã xấp xỉ một trăm triệu, xếp thứ 13 của thế giới, đâu còn là một nước nhỏ? Tài nguyên của ta cũng từng là “rừng vàng, biển bạc” đúng nghĩa của nó đấy chứ. Cái bán đảo hình chữ S với hơn 3000 km bờ biển sát mép Thái Bình Dương qua Biển Đông, nơi mà 45% trong số hơn 90% lượng vận tải thương mại của thế giới thực hiện bằng đường biển phải đi qua đây. Lượng dầu lửa và khí hóa lỏng được vận chuyển qua vùng biển này lớn gấp 15 lần lượng chuyên chở qua kênh đào Panama. Hàng năm, có khoảng 70% khối lượng dầu mỏ nhập khẩu và khoảng 45% khối lượng hàng hóa xuất khẩu của Nhật Bản được vận chuyển qua Biển Đông. Đặc biệt cần lưu ý là khoảng 60% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu và 70% lượng dầu mỏ nhập khẩu của Trung Quốc được vận chuyển bằng đường biển qua Biển Đông.

Nhắc lại những con số trên để càng hiểu thêm mối nguy cơ mà dân ta đang phải đối mặt là lớn đến thế nào. Không có một sức mạnh nội sinh của ý chí tự lực tự cường thì không thể nào tránh khỏi họa xâm lăng của kẻ đang muốn độc chiếm Biển Đông. Ngặt một nỗi, ý chí tự lực tự cường ấy lại đang bị chế độ toàn trị phản dân chủ đang chịu sự thao túng nặng nề của Bắc Kinh làm cho thui chột, không sớm nhận ra thì có thể dẫn đến sự tan rã. Trước hết, chính sự thao túng ấy cũng đang làm ruỗng nát đảng cầm quyền. Biểu hiện rõ nhất của sự ruỗng nát đó là dùng bạo lực để duy trì cái ghế quyền lực vốn đã rệu rã đang lung lay khi mà lòng dân phẫn nộ, phản đối ngày càng dâng cao.

Hãy chỉ dẫn ra hai trường hợp. mà những sự kiện nổi bật như cuộc đấu tranh giữ đất và đòi công lý của nhân dân xã Đồng Tâm. Rồi cuộc đấu tranh bất bạo động chống lại BOT không hợp lý được tự phát bùng lên, khởi đầu từ BOT ở trạm Cai Lậy lan ra nhanh chóng với tính cộng đồng rất cao, năng động, linh hoạt và rộng khắp của anh em lái xe “Bạn hữu đường xa”. Một sự thay đổi về chất của lòng phẫn nộ và tinh thần phản kháng khiến cho cái nhà nước toàn trị phản dân chủ lo ngại tìm cách đối phó. Sự lúng túng như gà mắc tóc trong các giải pháp đưa ra khiến xu hướng bạo lực ngày càng được đẩy tới nhằm cứu vãn tình hình nguy ngập. Thế nhưng, càng gia tăng bạo lực để răn đe và trấn áp người yêu nước thì lại càng đẩy tới cuộc đấu tranh chống Trung Quốc xâm lược.

Cuộc đấu tranh này lai gắn làm một với cuộc đấu tranh đòi quyền làm người, đòi dân chủ, đòi tự do. Đơn giản chỉ là vì nhân quyền thể hiện trước hết trong quyền tự do, nhưng tự do không thể là thứ được ban phát mà phải đấu tranh để giành lấy. Cho nên, không thể có tự do nếu không có dân chủ. Đây là hai mặt của một vấn đề. Không thể có nhân quyền, dân chủ và tự do nếu để cho đất nước rơi vào tay lũ xâm lược, trở thành một chư hầu rơi vào thảm trạng Bắc thuộc lần thứ hai. Điều đó giải thích lý do của sự gắn bó không thể tách rời giữa cuộc đấu tranh chống Trung Quốc xâm lược với cuộc đấu tranh đòi nhân quyền, đòi dân chủ và tự do. Chính cái logic đó giải thích tại sao bạo lực trước hết chĩa vào những người yêu nước chống Trung Quốc xâm lược cũng như cuộc thanh toán tàn khốc đối thủ chính trị được tập trung nhằm vào những người không chịu thần phục Bắc Kinh. Nhưng cũng chính cái logic đó lại dẫn đến cái hệ quả tất yếu của nó là càng điên cuồng sử dụng bạo lực sẽ càng khơi dậy ngọn lửa quật cường không chịu khuất phục. Đó là giải pháp đổ thêm dầu vào lửa. Càng hung hãn trong tuyệt vọng ra sức đàn áp, đánh đập, bắt bớ, bỏ tù càng làm cho ngọn lửa căm thù bốc lên.

“Giữa mùa phản phúc, tối đen tù ngục” dưới một triều đại toàn trị phản dân chủ sao chép được từ mô hình triều đại hoàng đế họ Tập dìm đất nước trong tăm tối đang “khói tuôn khí uất, sóng cồn trận đau” ngọn lửa ấy sẽ rọi chiếu ánh sáng, xua tan bóng tối. Ngọn lửa ấy cũng sẽ thiêu cháy chế độ toàn trị phản dân chủ vào thời đoạn lịch sử đen tối khi “suối đã đục dòng, chỉ lệ còn trong”. Và rồi những giọt “lệ còn trong” ấy khi chảy ngược vào trong, ta mới biết mùi vị của nó, là đắng cay, là chua chát như thế nào.

Nhưng cũng chính những giọt nước mắt chảy ngược vào trong ấy đang cật vấn chúng ta: phải suy nghĩ, phải làm gì “giữa mùa phản phúc, tối đen tù ngục” này. Liệu chúng ta có chia sẻ với ý tưởng “Con người phải sống… Sống cho đến mức rơi lệ” của Albert Camus, người đã “đưa ra ánh sáng những vấn đề đặt ra cho lương tâm loài người ở thời đại chúng ta”.

31.12.2017
T. L.
Tác giả gửi BVN.

Ông Trọng bước chân nào vào năm 2018

Bùi Quang Vơm

Nhìn riêng Việt Nam, có thể dự báo sự sa lầy của cuộc chiến chống tham nhũng mà ông Trọng phát động. Nói sa lầy vì chính ông Trọng và Bộ Chính trị không lường trước được hết quy mô của chiến dịch sẽ vượt ra ngoài khả năng kiểm soát và đối phó của hệ thống chính trị.

12 vụ đại án đề ra đầu năm đã không thể được kết thúc trong năm 2017 như kế hoạch. Các vụ án được khới lên đầu năm đều chưa vụ nào kết thúc, trên thực tế, chỉ có một vụ Trịnh Xuân Thanh được tập trung cao độ nhưng cũng chỉ được xét xử lần đầu vào đầu tháng 1 của năm 2018. Các vụ án đã và đang xử đều có ít hoặc nhiều dính líu hoặc nguồn gốc từ PVN nghĩa là từ Trịnh Xuân Thanh. Và xử vụ Trịnh Xuân Thanh và Đinh La Thăng cũng chỉ để có thể bắt đầu xử các vụ dính tới PVN khác. Tóm lại, dù rất ồn ào và ầm ĩ, mới chỉ là một bộ phận của vụ án “Bộ Công Thương và Nguyễn Tấn Dũng” xung quanh việc biển thủ lượng ngoại tệ thu được từ chênh lệch trượt giá và từ việc bán dầu chui suốt mười năm cho Trung Quốc. Vụ án này, nếu đi đến cùng thì năm 2018 đã quá nhiều việc. Còn nếu bỏ không làm, hoặc không dám làm, thì mục đích chống tham nhũng để làm sạch Đảng và bảo vệ tài sản quốc gia của ông Trọng đã bộc lộ sự giả dối.

Vụ đại án liên quan tới Trầm Bê, Nguyễn Văn Bình và tới chính Nguyễn Tấn Dũng là vụ thâu tóm Sacombank và vụ Mobifone đã bị buộc phải lui lại chưa rõ lý do. Liệu có đối phó của ông Bình và ông Dũng không? Có thể giải thích sự im lặng này như thế nào?

Vụ “biệt phủ Yên Bái” sau thất bại của Thanh tra Chính phủ, đến hiện tại, không một nhân vật nào cả bên Đảng lẫn bên Chính phủ dám mở miệng, trong khi không một đại biểu Quốc hội nào dám đưa ra một câu hỏi. Chuyện gì, mà ngay Tổng Bí thư cũng né tránh? Thanh tra Chính phủ sẽ công bố kết luận ngày 4/8, nhưng sau đó ba lần liên tục xin hoãn và sau ba tháng điều tra, không một kết luận, rồi cuối cùng ông Phan Văn Sáu, Trưởng ban Thanh tra xin thôi chức, vì lý do “sức khoẻ”, nhận lại chân Bí thư tỉnh, rút khỏi Chính phủ không một lời về số phận “biệt phủ”. Nó nhắc người ta nhớ đến viên đạn thứ tư “tự sát”, nhưng bắn từ sau gáy của ông Trưởng ban Kiểm lâm Đỗ Minh Cường, sau khi nã ba phát đạn vào đầu Bí thư Đảng uỷ và Trưởng ban Tổ chức tỉnh. Người ta cũng còn dựng tóc gáy sau cái chết bất ngờ và bí ẩn của vị Tư lệnh Quân khu 2, thiếu tướng Lê Xuân Duy chỉ mới vừa được bổ nhiệm. Đỗ Bá Tỵ được phong đại tướng, tháp tùng ông Trọng sang Mỹ, rồi rút về làm Phó Chủ tịch Quốc hội, để chức bộ trưởng lại cho Ngô Xuân Lịch. Phùng Quang Thanh bị tung tin đồn bị ám sát hụt tại Pháp, nằm chữa trị tại Paris suốt chuyến đi Mỹ của ông Trọng, rồi được cho về dưỡng bệnh tiếp một tháng trong khuôn viên Bộ Tư lệnh, không được phép về nhà. Tổng Công ty 319 rớt khỏi tay ông con trai đại tá Phùng Quang Hải sang tay người khác. Có hàng trăm chuyện bí ẩn trong nội bộ quân đội mà vị Tổng Bí thư “lú nhưng túc trí đa mưu” của “Đảng ta” không bao giờ dám đụng tới.

Suốt 10 năm ông Hoàng Trung Hải làm Phó Thủ tướng phụ trách khối sản xuất và kinh tế của Chính phủ, trên thực tế là chủ tài khoản của hai nguồn vốn ngoại tệ quan trọng vào bậc nhất là vốn ODA và vốn đầu tự trực tiếp FDI. Ông Hải là người cực kỳ khôn ngoan và kín tiếng. Cái kín tiếng này làm người ta liên hệ tới tin đồn xuất thân gốc Hoa của ông. Mọi hội kín gốc Hoa đều lẩn tránh thị phi.

Tuy vậy, người ta vẫn biết một thực tế: 20% tiền giải ngân từ ODA và 30% từ FDI là tiền lại quả của chủ đầu tư. Không một quyết định nào liên quan tới hai khoản vốn này mà không có chữ ký của ông Hải, mặc dù chỉ là ký thay ông Dũng. 100% vốn đầu tư cho các BOT lấy từ nguồn ODA. Hơn 20% nguồn vốn này là viện trợ không hoàn lại, gọi là “tiền trời cho”. Xét tới BOT mà bỏ qua ông Hải và ông Dũng thì là một trò cười. Hơn thế, FDI trong suốt 10 năm, lượng giải ngân lên tới hàng trăm tỷ đôla, 30% số tiền này vào túi cá nhân. Những cá nhân ấy gồm những ai, ai còn sống tại chức, ai đã hạ cánh? Trong cái khoản 300 tỷ đồng ông Dũng cấp cho Formosa, gọi là “hỗ trợ làm nhà ở công nhân”, có bao nhiêu tiền quay lại, đến nhà nào, bằng cách nào? Ông Dũng “tự nhiên tốt” hay vẫn thường xuyên “tốt” như vậy với các nhà đầu tư nước ngoài?

Năm 2017 tưởng khép lại với vụ án Đinh La Thăng. Một uỷ viên Bộ Chính trị bị bắt giam, dã thừa để năm 2017 đi vào lịch sử, nhưng ngày 20/12, Viện Kiểm sát Tối cao phê chuẩn lệnh khởi tố, ngày 21/12, trước ngày thành lập quân đội một ngày, Bộ Công an phát lệnh bắt và khám nhà Phan Văn Anh Vũ, tên của trùm bất động sản Đà Nẵng Vũ Nhôm.

Cùng với Vũ Nhôm, quân đội bắt Út Trọc. Đều là thượng tá và đều là tổ chức bình phong, giả kinh doanh, phục vụ điều tra phản gián. Hai cánh tay trái và phải của Đảng cùng một mô hình bảo vê sự trong sáng của chế độ, nhưng “tự diễn biến” để trở thành kẻ phá hoại chế độ. Vụ án Vũ Nhôm và vụ án Út Trọc mới chính là đầu mối của những vụ án có giá trị lung lay chế độ. Từ rất nhiều năm, từ rất nhiều vụ án tham nhũng kéo dài gần hai chục năm, nhưng Bộ Quốc phòng với Tổng Công ty 319, Ngân hàng Quân đội và Tập đoàn “gi gỉ gì gi cái gì cũng vơ”  là Tập đoàn Viettel, những tập đoàn quân đội khét tiếng với những đoàn xe quân sự bịt kín, vượt qua mọi trạm gác, mọi trạm, kiểm lâm, kiểm thuế, với bất kể loại hàng hoá chuyên chở hay quá cảnh nào, với hàng trăm nghìn hecta đất cả những khu rừng gỗ quý, mỏ quặng đặc biệt, lẫn những khu đất vàng tại những vị trí đắc địa thuộc các thành phố lớn, “an ninh quốc phòng” trở thành vũ khí bất khả kháng, quân đội giành giật, gây nhức nhối cho địa phương từ ba chục năm nay. Tất cả những hành vi, những hoạt động phi pháp của các tập đoàn này đều được quần chúng ghi nhận và ngành công an theo dõi điều tra, nhưng tất cả đều được ỉm đi một cách bí ẩn.

Cùng với những phát hiện, mâu thuẫn giữa hai bộ Công an và Quân đội ngày càng trở nên căng thẳng. Bộ Công an cũng tìm cách thiết lập các tổ chức gọi là làm kinh tài cho Bộ, giành giật ưu thế với quân đội, kiếm thêm cho quan chức ngành công an. Dưới danh nghĩa phục vụ điều tra tội phạm, những công ty giả kinh doanh của Tổng cục An ninh điều tra Bộ Công an ra đời trên địa bàn tất cả các tỉnh, trong tất cả các ngành nghề, “nhằm bám sát thực tế”. Bề ngoài, các công ty này cũng lập dự án, xin giấy phép đầu tư, giấy phép kinh doanh như mọi doanh nghiệp bình thường khác, để trà trộn. Công ty CP Xây dựng Bắc Nam 79 của Vũ Nhôm, một sĩ quan thuộc Tổng cục An ninh điều tra ra đời như vậy. Với ưu thế thông tìn mật từ nội bộ an ninh điều tra, cùng với thủ đoạn lấp lửng chức vụ thượng tá công an, Vũ Nhôm đã chiếm đoạt các lợi thế và móc ngoặc các quan hệ đặc biệt, hơn hẳn các doanh nghiệp đồng nghiệp, phất lên nhanh chóng. Điều tra thì không biết, nhưnglợi nhuận khổng lồ đã vừa giúp Vũ Nhôm ban phát và sai khiến lãnh đạo Bộ Công an, vừa biến con người Vũ Nhôm thành một nhân vật tham lam và sa đoạ.

Cùng với hệ thống các công ty bình phong, An ninh Bộ Công an hiểu rất rõ bản chất của hệ thống các đơn vị làm kinh tế trực thuộc mỗi quân khu và có mặt trên mọi lĩnh vực của quân đội. An ninh điều tra thuộc khu vực an ninh kinh tế, nhờ nghiệp vụ, nắm và có hồ sơ nhiều áp phe phi pháp của phía quân đội. Tương tự như vậy, Tổng cục II, cơ quan điều tra An ninh quốc phòng và Tình báo an ninh của quân đội cũng nắm rất rõ những thủ đoạn và hoạt động của các công ty bình phong của bên công an. Cả hai đều có những đặc quyền điều tra và có đủ đặc tình cài cắm.

Đây chính là mâu thuẫn không đội chung trời giữa hai loại công cụ bạo lực duy nhất của chế độ. Từ hơn hai chục năm nay, mâu thuẫn càng ngày càng không thể dập tắt, nhưng cả hai đều biết, bất cứ sự bùng nổ nào từ trong các mâu thuẫn này đều có thể dẫn đến sự sụp đổ của chế độ.

Ông Trọng biết, Bộ Chính trị biết, Ban Kiểm tra Trung ương biết. Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao có đơn tố cáo. Toà án có đơn kiện cả công an lẫn quân đội. Nhưng không một ai, không một nơi nào dám khơi mào.
Út Trọc và Vũ Nhôm liệu có làm được vai trò của Trịnh Xuân Thanh, ngòi nổ nhằm tiêu diệt bộ ba Thăng-Hoàng-Dũng hay không? Có kẻ nào dám đụng tới hai nhân vật này không? Chiến dịch chống tham nhũng, lò lửa của ông Trọng có thực có mục đích làm trong sạch Đảng, bảo vệ tài sản quốc gia và lợi ích của nhân dân hay chỉ để bảo vệ chế độ trong đó có quyền cai trị của thiểu số Đảng Cộng sản? Nếu Vũ Nhôm và Út Trọc bị bắt, có nhiều nguy cơ hai nhân vật này sẽ bị thủ tiêu bịt miệng trong trại giam và nguy cơ những vụ thanh toán nhau ở bên ngoài.

Việc làm như vô tình của Bí thư Trương Quang Nghĩa đụng tới hai ông thượng tá, một quân đội, một công an đều thuộc hạng tội phạm được “tổ chức đúng quy trình”, là sản phẩm của hệ thống, phản ánh tâm lý khao khát được phanh phui những mụn nhọt ung thư cơ bản của chế độ. Dân biết hết. Và không phải người ta phấn khởi như ông Trọng nói: “không khí phấn khởi đang lan ra cả nước”. Cái hả hê mà ông Trọng gọi nhầm là phấn khởi chỉ phản ánh sự oán ghét chế độ, tâm lý căm ghét của dân chúng với hàng ngũ quan lại của chính quyền. Người ta muốn “cái lũ ấy chết hết”.

Nhưng cái hả hê đó không dừng như ông Trọng tưởng. Người ta hỏi nhau, “đánh thằng này hay thằng kia, gạt thằng này ra, thay thằng khác vào, thì đổi được gì và dân được gì?”

Ông Ngô Xuân Lịch hứa trước Quốc hội “Quân đội sẽ không làm kinh tế thuần tuý”, nhưng Viettel đang là nguyên nhân trực tiếp của vụ cưỡng chiếm 59 ha đất nông nghiệp của nông dân xã Đồng Tâm, khiến dân bắt giam 37 cảnh sát cơ động, và thề sẵn sàng hy sinh tính mạng nếu công an xuống bắt người. Trước ý kiến của Thủ tướng Chính phủ: Quân đội sẽ thôi làm kinh tế, trong hội nghị cán bộ lãnh đạo thành phố Hồ Chí Minh, ông Ngô Xuân Lịch tuyên bố, “cần phát triển nhân lên hai hoặc ba tập đoàn như Viettel nữa”, “quân đội do Đảng trực tiếp lãnh đạo , không để bất kỳ kẻ nào giật dây, chỉ đạo quân đội”. Ông Lịch công khai thách đố ông Phúc chỉ vì núp dưới cánh của ông Trọng?! Người ta ít thấy ông Lịch ngồi ghế giao ban Chính phủ, không chăm chỉ như ông Phùng Quang Thanh dưới thời ông Dũng. Người ta bảo đó là nạn kiêu binh lúc chế độ sắp hết thời.

Năm 2018 là năm mà BOT và Đồng Tâm bắt buộc phải minh bạch trắng đen. Quyết định khởi tố bắt giam với 70 người dân Đồng Tâm của công an Hà Nội do Viettel giật dây, và hai tháng tạm dừng thu phí Cai Lậy để báo cáo giải pháp theo quyết định hoãn binh của ông Thủ tướng, cuối cùng sẽ phải được kết thúc. Dân Đồng Tâm hoặc sẽ đổ máu hoặc Viettel phải nhả lại đất cho dân, và những Nông Đức Mạnh, Ngô Văn Dụ… hoặc sẽ phải được đưa ra ánh sáng cho bàn dân biết bản chất của một chế độ đạo đức giả.

Ông Trọng sáng ngày 1/1/2018 sẽ không biết bước ra cửa bằng chân nào, vì chân nào cũng không dẫn ông vào một năm xuôi lọt, an nhàn. Sẽ là một năm vượt quá sức ông chịu đựng của ông. Nếu lại có tin đồn ông truỵ tim, thì có khi không phải là tin giả nữa.

01/01/2018
B.Q.V.
Tác giả gửi BVN.

Nguy hiểm chết người khi ‘biến đối tượng thành đối tác’

Lê Anh Hùng


Biến “đối tượng” Trung Quốc thành “đối tác” là sai lầm chiến lược của Việt Nam?

Cách đây hơn một tháng, một loạt tờ báo “lề Đảng” đã đưa tin về một sự kiện đáng chú ý: Tàu container liên vận Việt Nam - Trung Quốc bắt đầu hoạt động.

Theo thông tin trên các tờ báo, đoàn tàu gồm 33 container 40 feet chứa các loại hàng hoá như nội thất văn phòng, thực phẩm, phụ tùng linh kiện ô tô… xuất phát từ Nam Xương, Giang Tây ngày 22/11 và đến ga Yên Viên, Hà Nội ngày 25/11. Sau khi đến Việt Nam, đoàn tàu quay về cùng các hàng hóa như nông sản, khoáng sản, sản phẩm điện tử… Việc tổ chức chạy tàu giúp rút ngắn thời gian vận chuyển từ 15 ngày bằng đường biển xuống còn 4 ngày; cước phí vận chuyển chỉ bằng một nửa so với đường bộ. Dự kiến, hai bên sẽ tiến hành chạy đều đặn với tần suất 1 chuyến/tuần, rồi nâng dần lên 3 chuyến/tuần.

“Ý Đảng” trái “lòng dân”

Nếu sự kiện nói trên là bằng chứng cho thấy sự tăng cường kết nối giữa hai nền kinh tế láng giềng nào đấy thì chắc chắn đó là tin vui cho cả lãnh đạo lẫn nhân dân hai nước.

Tuy nhiên, điều này lại không đúng với hai quốc gia “núi liền núi, sông liền sông” Việt Nam - Trung Quốc. Và trong khi một số cơ quan truyền thông nhà nước đưa tin về sự kiện này với thái độ hồ hởi (một số khác tỏ ra bình thản) thì công chúng Việt Nam lại đón nhận thông tin trên vừa bất ngờ, vừa không khỏi âu lo.

Vì sao vậy?

Câu trả lời tưởng không có gì khó hiểu. Đối với ban lãnh đạo Việt Nam, Trung Quốc là một đối tác như tất cả các quốc gia khác trên thế giới, theo đường lối ngoại giao “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy” của các nước trong cộng đồng quốc tế.

Trong khi đó, đối với phần lớn người Việt, hai chữ Trung Quốc lại đồng nghĩa với hiểm hoạ, mà bằng chứng là từ lịch sử 4 nghìn năm dựng nước và giữ nước, cũng như từ những vấn nạn “made in China” trên khắp Việt Nam hiện nay. Nghĩa là với họ, Trung Quốc là một “đối tượng” cần thường xuyên đề cao cảnh giác.

Từ “bá quyền”, “xâm lược” đến “4 tốt”, “16 chữ vàng”

Mối quan hệ Việt - Trung dưới thời cộng sản cũng lúc thăng lúc trầm giống như lịch sử hàng ngàn năm trước. Dù vậy, bất kể mối quan hệ đó đang thăng hay trầm, nồng ấm hay lạnh nhạt thì thực tế không bao giờ thay đổi là: Trung Quốc không bao giờ từ bỏ dã tâm thôn tính quốc gia láng giềng phương Nam - một “chân lý” đã được “kiểm nghiệm” qua hàng ngàn năm lịch sử.

“Đỉnh cao” của “chân lý” ấy là việc Bắc Kinh phát động cuộc chiến tranh biên giới với Việt Nam suốt 10 năm liền, từ năm 1979 đến 1989. Xen giữa quãng thời gian đó là sự kiện Trung Quốc thảm sát 64 chiến sỹ QĐND Việt Nam và chiếm đảo Gạc Ma của Việt Nam ngày 14/3/1988. Hệ quả là trong Lời nói đầu Hiến pháp Việt Nam 1980, Trung Quốc bị vạch mặt, chỉ tên là một quốc gia “bá quyền”, “xâm lược”.

Cuối thập niên 1980, cuộc khủng hoảng chính trị - kinh tế - xã hội trầm trọng đã dẫn đến sự sụp đổ của một loạt nước XHCN ở Đông Âu. Lo sợ cho số phận của mình, một số nhân vật chủ chốt trong ban lãnh đạo CSVN đã quay sang cầu cứu lãnh đạo Trung Nam Hải. Và từ Hội nghị Thành Đô ngày 3/9/1990, hai nước từng bước bình thường hoá quan hệ.

Trong chuyến thăm Trung Quốc từ ngày 25/2 đến 2/3/1999 của TBT Lê Khả Phiêu, phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” lần đầu tiên được đưa vào Tuyên bố chung của hai nước. Từ đấy về sau, “16 chữ vàng” ấy luôn xuất hiện trong các bản tuyên bố chung giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Chưa hết, trong chuyến công du Việt Nam từ ngày 31/10 đến 2/11/2005 của Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào, tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” đã được đưa vào Tuyên bố chung Việt - Trung. Và kể từ đó, “16 chữ vàng” và “4 tốt”, những mỹ từ mô tả mối quan hệ giữa hai quốc gia, đã trở thành “một phần tất yếu” của các bản tuyên bố chung Việt - Trung.

Từ “đối tượng” đến “đối tác”

Ngược dòng lịch sử, trong bang giao với quốc gia láng giềng phương Bắc, các triều đại phong kiến Việt Nam thường áp dụng kế sách “trong đế ngoài vương”, một sách lược ngoại giao mềm dẻo và sáng suốt.

Ở trong nước, các vị vua Việt Nam vẫn lên ngôi hoàng đế nhằm thể hiện tinh thần độc lập và bình đẳng với hoàng đế Trung Hoa, song bên ngoài họ lại để cho hoàng đế Trung Hoa phong vương và chấp nhận chế độ triều cống như một nước chư hầu. Những lời lẽ nhún nhường trong các tờ biểu mà hoàng đế Việt Nam dâng lên hoàng đế Trung Hoa hoàn toàn không ảnh hưởng đến vị thế độc lập của Việt Nam trước Trung Quốc, mà chỉ giúp cho các hoàng đế của “vương quốc trung tâm” tự mãn với danh hiệu “thiên triều”, để không có cớ gây sự với Việt Nam.

Trong khi đó, các triều đại phong kiến Việt Nam luôn coi quốc gia láng giềng phương bắc là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc, tức là “đối tượng” mà người Việt không được phép lơ là, mất cảnh giác.

Dưới thời cộng sản, cho dù các nhà lãnh đạo Việt Nam mô tả mối quan hệ Việt - Trung bằng những mỹ từ cao đẹp đến đâu đi nữa, họ cũng không thể che lấp được một sự thật là Trung Quốc vẫn luôn rình rập nhằm phá hoại và thôn tính Việt Nam.

Thậm chí, ngay trong những ngày tháng mặn nồng nhất của “mối tình cộng sản” Việt - Trung, Bắc Kinh đã đưa quân sang “giúp” Việt Nam làm đường theo kiểu “rất Tàu” như thế này: đặt mìn tiêu huỷ “hòn đá Liễu Thăng” tại Lạng Sơn; ở Côn Sơn, nơi ẩn cư của Trần Nguyên Đán và Nguyễn Trãi, họ đã đào xuyên ngang dọc quả núi thành đường hầm và bít cửa vào, không ai biết họ làm gì trong đó; nhiều di tích như An Sinh, nơi gần đây mới xây đền thờ các vị vua Trần, hết thảy tượng đá thời Trần đều bị phạt cụt đầu hoặc bắn vào bụng; ở Ngọa Vân am, tháp Phật Hoàng đựng xá lị Trần Nhân Tông và tháp Đoan Nghiêm cổ kính bị đào rỗng ruột, toàn bộ bài vị trong tháp bị đập nát, tấm bia do Trịnh Căn lập bị đập thành ba bảy mảnh, 13 ngọn tháp đứng thành một hàng chạy xuống phía Tây Nam đều bị phạt ngang, phía dưới có một đường hầm lộ thiên đào thông tháp nọ với tháp kia (nhằm phá long mạch nhà Trần lừng lẫy chiến công chống giặc phương Bắc, tức là phá long mạch Việt Nam chăng?); khai thác trộm của cải, thăm dò ngầm tài nguyên, địa thế…

Hội nghị Thành Đô đã diễn ra trong bí mật.

Mặc dù “16 chữ vàng” và “4 tốt” đã được lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc xác định là “kim chỉ nam” cho mối quan hệ giữa hai bên, song suy cho cùng thì đó cũng chỉ là ngôn ngữ ngoại giao. Chúng chẳng khác gì mấy so với tinh thần của những tờ biểu mà các hoàng đế Việt Nam ngày xưa vẫn dâng lên hoàng đế Trung Hoa, hay những bức “điện mừng” mà nguyên thủ hai quốc gia láng giềng thù nghịch Toracanxi và Hopantomola vẫn cấp tập gửi cho nhau ngay trước khi lao vào nhau để quyết một phen sống mái. Và kể từ năm 1979 đến nay, Việt Nam vẫn bố trí một lực lượng quân sự hùng hậu và tinh nhuệ thường trực tại các tỉnh biên giới phía bắc, mà lý do chủ yếu là để đề phòng đội quân xâm lược từ bên kia biên giới.

Vậy điều gì đã góp phần quyết định khiến các bản tuyên bố chung Việt - Trung thời gian sau này luôn kèm theo những thoả thuận hợp tác cụ thể và nguy hại, dẫn đến thực trạng báo động đỏ hiện nay là đâu đâu trên khắp Việt Nam người ta cũng thấy bàn tay lông lá của Tàu cùng những hiểm hoạ “made in China” lơ lửng trên đầu dân tộc?

Thật trớ trêu, thủ phạm hoá ra lại là “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong hình hình mới” do Hội nghị Trung ương 8 khóa IX thượng tuần tháng 7 năm 2003 đề ra và Nghị quyết 28-NQ/TW ngày 25/10/2013 về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” do Hội nghị Trung ương 8 khoá XI ban hành. Chính xác hơn, đó là sự mơ hồ, ngây thơ và chủ quan khi định nghĩa khái niệm “đối tượng” và “đối tác”, cũng như chủ trương biến đối tượng thành đối tác, trong hai văn kiện đóng vai trò “kim chỉ nam” cho hệ thống chính trị liên quan đến nhiệm vụ tối quan trọng là bảo vệ Tổ quốc.

Khi dẫn ra câu “không có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia, dân tộc là vĩnh viễn” trong hai nghị quyết nêu trên, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã (cố tình) bỏ qua điểm quan trọng nhất: người đầu tiên phát ngôn câu đó - Lord Palmerston - là một ngoại trưởng và về sau trở thành thủ tướng Anh, chứ không phải là một hoàng đế Việt Nam, và địa chính trị nước Anh hoàn toàn khác với địa chính trị Việt Nam. Tiền đề sai lầm đó đã dẫn đến hàng loạt sai lầm trong việc định nghĩa “đối tượng” và “đối tác”, cũng như sự ngây ngô, duy ý chí trong chủ trương biến đối tượng thành đối tác.

Và kết cục tất yếu

Việc “đối tượng” Trung Quốc được ban lãnh đạo Việt Nam phù phép thành “đối tác” đã mở đường cho việc hai nước ký kết hàng loạt thoả thuận hợp tác nguy hại cho Việt Nam, đặc biệt là mỗi dịp lãnh đạo nước này thăm viếng nước kia, vốn diễn ra với tần suất xoành xoạch. Kết quả là vô số người Tàu lũ lượt theo chân hàng trăm “dự án kinh tế” - đến 90% dự án hạ tầng trọng điểm quốc gia dưới thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng - trên khắp Việt Nam, từ một Hà Nội ồn ào náo nhiệt đến những cánh rừng đầu nguồn biên giới xa xôi hẻo lánh, đặc biệt là những vị trí xung yếu về an ninh quốc phòng.

“Đối tượng” Trung Quốc đã trở thành “đối tác” nên TBT Nguyễn Phú Trọng cứ việc vô tư hợp tác với Bắc Kinh để họ đào tạo cán bộ cấp cao cho Việt Nam hay phó thác cho họ nhiệm vụ đào tạo cán bộ cho một loạt tỉnh biên giới.

Chưa dừng lại ở đó, Việt Nam còn đang đứng trước làn sóng xâm lăng kinh tế mới của “đối tác tốt” Trung Quốc thông qua những phương thức như “tàu container liên vận”, thương mại điện tử, mua bất động sản hay thâu tóm doanh nghiệp… bất chấp thực tế những gì mà các doanh nghiệp Trung Quốc đem đến cho người dân Việt Nam luôn “lợi bất cập hại”.

Không còn nghi ngờ gì, chủ trương biến đối tượng thành đối tác trên thực tế đã trở thành sai lầm chiến lược vô cùng nguy hiểm của ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam.

L.A.H.
Nguồn: https://www.voatiengviet.com/a/bien-doi-tuong-thanh-doi-tac/4188989.html

Thủ tướng Việt Nam không giữ lời liên quan sai phạm của Formosa?

Hòa Ái, phóng viên RFA

Thảm họa môi trường biển miền Trung xảy ra hồi đầu tháng 4 năm 2016 do nhà máy thép Formosa thải độc tố ra biển, và đến giữa năm 2017 cơ quan chức năng Việt Nam tuyên bố nước biển khu vực nhiễm độc đã an toàn tuyệt đối cũng như đời sống của người dân bị ảnh hưởng ở 4 tỉnh Bắc miền Trung được ổn định. Tuy nhiên, các nạn nhân cùng dư luận khẳng định hậu quả của thảm họa môi trường Formosa vẫn còn đó.

Vẫn chưa nhận được bồi thường

“Từ ngày biển chết đến giờ tiền không có. Bây giờ nhiều người bỏ quê đi hết, không ai muốn ở lại vì quê hương không có việc gì làm hết”.
“Nói chung tính theo tuổi mà kê khai để được đền bù. Nhưng khi tiền đền bù về thì không một ai tuổi từ 15 đến 18, 19 nằm trong danh sách được nhận bồi thường”.

Trên đây là một vài chia sẻ của các nạn nhận bởi thảm họa môi trường biển do nhà máy thép Formosa gây ra.

Mặc dù vào cuối tháng 8 năm 2017, Nhà nước Việt Nam cho biết đã chi trả được 95% tổng số tiền đền bù thiệt hại đến các nạn nhân ở 4 tỉnh, bao gồm Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế và đời sống của người dân tại khu vực biển Bắc Trung Bộ bị ảnh hưởng bởi thảm họa Formosa về cơ bản đã được ổn định; thế nhưng, hầu hết những người dân địa phương ở khu vực này mà Đài Á Châu Tự Do tiếp xúc trong những ngày cuối năm 2017 đều nói rằng cuộc sống của họ rất vất vả và vẫn còn rất nhiều người chưa nhận được tiền bồi thường.

Những ngư dân tiếp tục bám trụ vào nghề biển than thở việc đánh bắt rất thất thường, nhiều khi đánh bắt về đem bán mà không được hòa vốn. Nhiều doanh nghiệp kinh doanh hải sản bị phá sản vì không được Chính phủ hỗ trợ theo như lời kêu gọi thu mua hải sản ngay sau khi sự cố môi trường biển xảy ra và đã không tiêu thụ được trong thời gian dài. Các dịch vụ du lịch vẫn ế ẩm và hằng chục ngàn lao động vẫn không có việc làm. Nhiều gia đình phải dắt díu, bồng bế con thơ tha phương tìm kế sinh nhai.

Tha phương cầu thực

Tỉnh Hà Tĩnh, nơi tâm điểm xảy ra sự cố môi trường biển Formosa hồi tháng 4 năm 2016, được Tổng cục Thống kê Việt Nam ghi nhận có số lượng xuất khẩu lao động gia tăng đáng kể, theo chính sách do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đề ra nhằm cố gắng tạo cơ hội cho mỗi hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi sự cố Formosa có một người đi xuất khẩu lao động, để giúp cho gia đình ổn định cuộc sống tốt hơn.

Song song đó là chương trình hỗ trợ chuyển đổi sang nghề chăn nuôi và trồng trọt tại quê nhà. Một số ngư dân chia sẻ với RFA rằng những làng ven biển thì không có đất để trồng trọt hay chăn nuôi, vả lại để bắt đầu học hỏi kiến thức chuyển đổi ngành nghề ở tuổi đời không còn trẻ không phải là điều dễ dàng. Một ngư dân ở Quảng Bình cho biết chương trình chuyển đổi nghề không khả thi tại địa phương:
“Chuyển qua chăn nuôi, trồng trọt mà địa bàn Quảng Bình toàn là cát sa mạc, cho nên cái này là vô vọng lắm”.

Thưa kiện Formosa bị đàn áp

Còn số phận của các nạn nhân quyết định khởi kiện nhà máy Formosa đòi được bồi thường thiệt hại bị rơi vào hoàn cảnh khốn cùng hơn. Hàng trăm giáo dân thuộc giáo xứ Song Ngọc và Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An bị chính quyền ngăn cản, đàn áp, đánh đập khi họ đang trên đường đến Tòa án thị xã Kỳ Anh để nộp đơn kiện vào ngày 14 tháng 2 năm 2017. Chính quyền tỉnh Hà Tĩnh ra quyết định khởi tố vụ án đối với vụ việc hàng ngàn người dân, ở huyện Lộc Hà, hồi đầu tháng 4 năm ngoái tập trung biểu tình tại Ủy ban Nhân dân huyện để yêu cầu được giải quyết việc đền bù sau một năm sự cố Formosa xảy ra. Trong cùng thời điểm đầu tháng 4 năm 2017, hàng trăm người dân mang theo ngư cụ ra chặn Quốc lộ 1A tại khu vực xã Kỳ Nam, đòi bồi thường thiệt hại do thảm họa môi trường Formosa cũng bị khởi tố vụ án hình sự gây rối trật tự công cộng.
Linh mục An-tôn Đặng Hữu Nam, thuộc Giáo phận Vinh vào tối ngày 2 tháng Giêng năm 2018 nói với RFA về hậu quả mà giáo dân đi khởi kiện Formosa bị nhận lãnh trong năm qua:
“Người dân, ngư dân ở Nghệ An đã từng làm đơn đi khởi kiện, đã từng yêu cầu bồi thường, đã từng kêu cứu lên Quốc hội và Chính phủ thì chỉ nhận lại được sự căm thù và sự trả thù hèn hạ của nhà cầm quyền mà thôi; bằng các hình thức đàn áp, xuyên tạc, vu khống đủ mọi điều và nhất là dùng các côn đồ lập ra ‘Hội Cờ Đỏ’ để trấn áp người dân và giáo dân là những người đi đệ đơn khởi kiện Formosa và đòi Formosa bồi thường”.
Bên cạnh đó, trong năm 2017, các nhà hoạt động vì môi trường còn bị chính quyền truy nã, bắt giữ và cầm tù do họ tích cực đưa tin liên quan đến hậu quả của thảm họa Formosa. Họ là Bạch Hồng Quyền, Hoàng Đức Bình, Trần Thị Xuân và Nguyễn Văn Hóa.

Thủ tướng không giữ lời

Vào hạ tuần tháng 6 năm 2017, Tổng cục Môi trường, thuộc Bộ Tài nguyên-Môi trường Việt Nam công bố rằng nước biển tại bốn tỉnh miền Trung gánh chịu thảm họa Formosa đã an toàn tuyệt đối, có thể tắm biển và nuôi trồng hải sản. Tuy nhiên, thông tin này không mang lại niềm phấn khởi nào cho dân chúng địa phương 4 tỉnh Bắc Trung Bộ cũng như các nhà khoa học ở trong nước. Ngay sau khi Tổng cục Môi trường công bố như vừa nêu, Giáo sư Lê Huy Bá, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học, Công nghệ và Quản lý môi trường, Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh nhận xét công bố của Tổng cục Môi trường chưa thật là cẩn trọng vì chưa đủ mẫu hay đủ số liệu để chứng tỏ rằng đã thật sự an toàn từ 20 km trở vào ven biển. Giáo sư Lê Huy Bá lý giải rằng trầm tích kim loại nặng ở tầng đáy rất khó khắc phục và khả năng tự làm sạch của biển đối với kim loại nặng là rất khó.

Tiến sĩ Nguyễn Tác An, nguyên Viện trưởng Viện Hải dương học Nha Trang cũng từng lên tiếng khẳng định: “Vùng biển Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi cho quá trình phục hồi nhưng cũng không thể chỉ vài năm là được. Ít nhất cũng phải chục năm, không thì 20-30 năm và thậm chí có thể lâu hơn nữa”.

Về phía người dân địa phương 4 tỉnh Bắc miền Trung thì đa số chia sẻ với chúng tôi rằng họ mong muốn biển được trở lại như xưa vì bao đời nay họ đã gắn bó với biển và mưu sinh cũng dính liền với nghề biển. Nhưng dường như, mỗi ngư dân trao đổi với RFA đều kết thúc với nỗi niềm lo lắng trong cuộc sống hiện tại rằng “Nói chung thì mọi thứ đều là con số 0”.

Thông tin mới nhất liên quan nhà máy Formosa là Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, vào trung tuần tháng 12 năm 2017, ra quyết định phạt hành chính 560 triệu đồng đối với sai phạm của Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Hưng Nghiệp Formosa đã chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt, chất thải rắn công nghiệp có số lượng 100 ngàn kg trái với quy định về bảo vệ môi trường.

Đài Á Châu Tự Do ghi nhận không chỉ các nạn nhân bởi thảm họa môi trường biển Fomosa mà cả dư luận trong ngoài nước cho rằng Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã không giữ lời khi ông tuyên bố ngay sau khi thảm họa Formosa xảy ra rằng “Chính phủ theo dõi sát sao hoạt động của Formosa Hà Tĩnh và sẽ đóng cửa nếu họ tái phạm”, và được chính Thủ tướng nhắc lại tại buổi làm việc với Formosa và chính quyền Hà Tĩnh hồi cuối tháng 7 năm 2017.

H.A.
Nguồn: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/vietnam-pm-not-keeps-his-words-related-to-formosas-environmental-violation-01022018150137.html

Sau Vũ ‘Nhôm’ thì đến ai?

Phạm Chí Dũng

VOA 3/1/2017


Năm 2017 đầy biến động và mở màn cho chuỗi biến động ghê gớm ở những năm sau.
Nếu vụ Đinh La Thăng bị bắt đã phá vỡ tiền lệ chính trị “ủy viên bộ chính trị không thể bị tống giam”, thì sự sa cơ của trùm bất động sản Vũ “Nhôm”, chứ không phải thượng tá công an Phan Văn Anh Vũ, như đánh dấu quan niệm bỏ qua ranh giới thỏa hiệp giữa các nhóm quyền lực - lợi ích mới với các nhóm quyền lực - lợi ích cũ để chính thức chuyển qua thời kỳ “tàn sát” nhau.

“Nhả” những gì đã “nuốt”

Mức độ tàn khốc và dã man của cuộc chiến phe phái luôn tỷ lệ thuận với trò chơi băng đảng thôn tính tài sản và tranh giành lãnh địa làm ăn của nhau. 5 năm trước khi Trầm Bê của Ngân hàng Phương Nam và được xem là một trong những “tay hòm chìa khóa” của gia đình thủ tướng thời đó là Nguyễn Tấn Dũng, thôn tính Sacombank (Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín) của Đặng Văn Thành, ông Thành đã suýt dính phải vòng lao lý. Nhưng cuối cùng vẫn thoát. Với điều kiện phải “nhả” Sacombank. 5 năm sau - 2017, khi Đặng Văn Thành trở lại thương trường và cùng nở nụ cười đắc thắng bên cạnh tân thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, đến lượt Trầm Bê sa cơn hoạn nạn. Nhưng lúc này, hoạn nạn đã không còn giản dị là mối đe dọa của cơ quan tư pháp, mà Trầm Bê đã đi thẳng vào tù.

Vũ “Nhôm” - thượng tá công an Phan Văn Anh Vũ cũng không tránh khỏi số kiếp quả báo của Trầm Bê.

Vũ - đã từng là một người quyền thế ở Đà Nẵng và có thể lọt vào hàng trăm người giàu của xứ sở điêu tàn vì nạn quan chức tận vét và tham nhũng, giờ này đang phải “nhả” một phần lớn những gì đã “nuốt”. Ngay trước mắt và cái có thể thấy được sờ được là hơn ba chục ngôi nhà có gốc gác công sản mà Vũ đã từng ly từng tí, vừa dọa nạt vùa “đấm tiền vào mõm”, tích góp cho mình. Chưa kể nhiều dự án bất động sản kéo theo những thị trường đất nền và căn hộ màu mỡ ở Đà Nẵng, Sài Gòn…

Nhưng “nhả” cho ai?

Cứ nhìn vào bộ mặt “nền báo chí cách mạng” là có thể cảm nhận và đoán biết.

“Nền báo chí cách mạng”

Khác với quang cảnh đấu đá những năm trước với chỉ truyền thông mạng xã hội - được những bàn tay ẩn giấu trong nội bộ đảng chi phối, từ năm 2016 đến nay đã xuất hiện những dấu hiệu cho thấy báo chí nhà nước đang tăng tốc “mặt trận thứ hai”, sau “mặt trận thứ nhất” là mạng xã hội.

Ngày càng nhan nhản báo nhà nước đã lao vào “đánh đấm” và quá bị nghi ngờ phục vụ cho các tập đoàn quyền lực lẫn lợi ích nhóm, trong khi những tờ báo này chẳng mấy quan tâm đến nhan nhản vấn nạn dân sinh và dân quyền bị bóc lột và bị chà đạp ở Việt Nam.

Cũng ngày càng rõ về khuynh hướng một số quan chức đã lợi dụng chủ trương “chống tham nhũng” để sử dụng báo nhà nước như “mặt trận thứ hai”, để không chỉ tranh giành quyền lực mà còn tiến đến thâu tóm lãnh địa làm ăn của nhau. Một số tờ báo nhà nước cũng bởi thế lại có cơ hội “ăn bẫm”.

Bối cảnh “Trung ương đánh Đà Nẵng” trong năm 2017 và được báo nhà nước chạy theo đưa tin viết bài một cách nhiệt tình hiếm thấy là một minh chứng rất sống động về “người có cơm, kẻ có cháo”.

Trong khi đó, “Nhất thể hóa bộ máy và chức danh giữa Đảng và Nhà nước” - một chủ trương của đảng cầm quyền bắt đầu được thi hành trong năm 2017 - hiện đang ngày càng trở thành thời cơ bất ngờ sáng rỡ dành cho những quan chức nào đó, nhưng cũng biến thành nỗi nguy hiểm “kề dao vào cổ” đối với nhiều quan chức khác, nhất là số đầu tỉnh thành.

Sớm hay muộn đôi chút cũng sẽ diễn ra một phong trào “tái cơ cấu nhóm quyền lực” từ cấp trung ương đến cấp địa phương. Nếu đại hội 12 vào đầu năm 2016 của đảng cầm quyền chỉ nhằm giải quyết chủ đề “bất cứ ai trừ Dũng”, các hội nghị trung ương 5 và 6 trong năm 2017 chỉ nhằm “xử” vài “dây” thời cũ, thì những tháng tới sẽ là một trận tổng công kích của các tập đoàn quyền lực dành cho nhau, giữa nhóm quyền lực mới đối với nhóm quyền lực cũ, và cả giữa các nhóm quyền lực mới với nhau. Đà Nẵng của Sungroup, Sài Gòn của Vạn Thịnh Phát, Kiên Giang của Nguyễn Thanh Nghị… có thể là những cái tên đầu tiên được “thí điểm hồi tố”.

Sau Vũ “Nhôm” là đại gia nào?

Ai là “nạn nhân” tiếp theo?

Vạn Thịnh Phát được xếp vào hàng những công ty gia đình lớn và bí ẩn nhất Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng quản trị là bà Trương Mỹ Lan. Tập đoàn này hiện có vốn điều lệ tới 12.800 tỷ đồng, cao hơn cả Vingroup của tỷ phú Phạm Nhật Vượng (9.300 tỷ đồng) và Hoàng Anh Gia Lai của bầu Đức với mức lần lượt là 7.200 tỷ đồng.

Chỉ riêng tại 2 công ty Công ty TNHH Tập đoàn Vạn Thịnh Phát và Công ty cổ phần Tập đoàn Đầu tư Vạn Thịnh Phát, bà Trương Mỹ Lan đã sở hữu lượng cổ phần trị giá tới hơn 6.700 tỷ đồng. Với khối tài sản này, bà Lan có thể coi là một trong những người giàu nhất Việt Nam, tương đương với ông Dương Công Minh – chủ tịch tập đoàn Him Lam hay bà Lê Thị Thúy Ngà – chủ tịch tập đoàn Nam Cường.

Nhưng cái tên Vạn Thịnh Phát và bà chủ Trương Mỹ Lan lại khá bí ẩn khi thông tin cá nhân rất hiếm hoi được tiết lộ với giới truyền thông.

Cái tên Vạn Thịnh Phát thực sự được chú ý khi tại phiên xét xử bị cáo Dương Tự Trọng ngày 7/1/2014, ông Dương Chí Dũng (anh trai Dương Tự Trọng, nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam – Vinalines, nguyên Cục trưởng Cục Hàng Hải, Bộ Giao thông vận tải) khai nhận 20 tỷ đồng để được làm dự án chuyển đổi công năng Cảng Sài Gòn của Tập đoàn Vạn Thịnh Phát (TP.HCM) do bà Trương Mỹ Lan làm chủ tịch.

Từ đầu tháng 8/2016 đã bắt đầu tăng cường những dấu hiệu tấn công vào Tập đoàn Vạn Thịnh Phát thuộc sở hữu của gia tộc họ Trương. Một trong số những bài viết trên báo nhà nước mang tựa đề “Đại gia Trương Mỹ Lan và ‘đế chế’ Vạn Thịnh Phát đang toan tính gì?”, cho rằng “Thâu tóm hàng loạt siêu dự án rồi để “trùm mền”, động cơ của Tập đoàn Vạn Thịnh Phát trên thị trường địa ốc TP.HCM đang là một ẩn số vô cùng bí hiểm”.

Sau đó, bắt đầu xuất hiện trên mạng xã hội một số bài viết mang tính móc xích về mối quan hệ “đặc biệt” giữa bà Trương Mỹ Lan với ông Lê Thanh Hải – Bí thư thành ủy TP.HCM từ năm 2015 trở về trước. Nhiều dư luận cho rằng nhờ có sự “bảo kê” của Bí thư Hải mà Vạn Thịnh Phát đã giành được nhiều khu đất vàng để kinh doanh bất động sản, mang lại một khoản lợi nhuận khổng lồ cho tập đoàn này.
Ngày 27/10/2017, một số tờ báo nhà nước bất chợt đăng tin lạ: “Bà Trương Mỹ Lan và 9 người nhà rút hồ sơ xin thôi quốc tịch Việt Nam”.

Rất đáng chú ý, bản tin trên lại kèm theo một nội dung được trích từ văn bản pháp quy mà chỉ áp dụng đối với những trường hợp bị xem là phạm tội: “Khoản 2 Điều 27 Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 quy định: Người xin thôi quốc tịch Việt Nam chưa được thôi quốc tịch Việt Nam, nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây: a) Đang nợ thuế đối với Nhà nước hoặc đang có nghĩa vụ tài sản đối với cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân ở Việt Nam; b) Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; c) Đang chấp hành bản án, quyết định của Toà án Việt Nam; d) Đang bị tạm giam để chờ thi hành án…”

Khó mà nghi ngờ rằng bản tin “Bà Trương Mỹ Lan và 9 người nhà rút hồ sơ xin thôi quốc tịch Việt Nam” không có “mùi”. Đó là một thứ mùi rất đặc trưng của thời đại: sau đại hội 12, những nhóm quyền lực và lợi ích mới nổi lên để thay thế và tìm cách “nuốt” những nhóm quyền lực và lợi ích cũ, đặc biệt từ giữa năm 2016 khi chiến dịch “chống tham nhũng” được Tổng bí thư Trọng tung ra đã bị không ít kẻ lợi dụng như một bình phong để bắt những kẻ khác phải “ói” ra.

Từ cuối năm 2015 và trước đại hội 12, đã có tin Lê Thanh Hải và Tập đoàn Vạn Thịnh Phát của Trương Mỹ Lan nằm trong danh sách “bị thịt”.

Sau đại hội 12, ông Lê Thanh Hải bị loại khỏi Bộ chính trị, không còn giữ chức bí thư thành ủy TP.HCM và coi như “hạ cánh”. Ông Hải cũng bị một số dư luận đồn đoán là “một trong những người tham nhũng và giàu nhất Việt Nam”.

Ngày càng hiện rõ triển vọng trong thời gian không bao lâu nữa, một thế lực chính trị và tài phiệt nào đó sẽ hất cẳng Vạn Thịnh Phát, và do đó hất cẳng cả cựu bí thư Lê Thanh Hải theo cách “của thiên trả địa”.

Đó cũng là cách mà những con cá mập ở Việt Nam vẫn hàng ngày đớp nuốt lẫn nhau, sau khi dạ dày của chúng đã thỏa thuê phần xương thịt của dân chúng.

Dự báo diễn biến tình hình chính trị của Việt Nam trong thời gian tới


Phạm Hưng Quốc

Để có được cách nhìn tổng thể nhất, tác giả xin nhắc lại một luận điểm của người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản: Karl Marx viết trong cuốn Tư bản như sau: “Chủ nghĩa tư bản tìm mọi cách tạo giá trị lợi nhuận thặng dư, chúng không trừ thủ đoạn gì để đạt được giá trị thặng dư cao nhất. Khi giá trị thặng dư lên tới 70, 80, 100% thì chúng sẽ có những tâm lý điên loạn đến mức chúng có thể tự treo cổ!” Rất tiếc rằng những người tự nhận là đệ tử trung thành của chủ nghĩa Marx còn lại trong đội ngũ lãnh đạo của một số quốc gia xã hội chủ nghĩa ít ỏi còn sót lại đã tạo ra một thế hệ lãnh đạo mới, lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử nhân loại, đó là tầng lớp tư bản đỏ. Tầng lớp những người lãnh đạo này mặc dù luôn khoác áo cộng sản hay xã hội chủ nghĩa nhưng thực chất họ lại có ham muốn làm giàu cho bản thân một cách cuồng nhiệt nhất. Họ bất chấp những chuẩn mực về đạo đức, sẵn sàng thực hiện những thủ đoạn từ trắng trợn đến tinh vi để kiếm tiền. Phương tiện kiếm tiền của họ là “quyền lực”, sự ranh ma tinh quái và cả sự tàn bạo… Lợi nhuận họ thu về luôn tỉ lệ thuận với những “phẩm chất” này. Hiện tượng tham nhũng trở nên phổ biến và dần trở thành xu thế, có tính chất nguyên lý tất yếu của việc hình thành bộ máy cai trị do họ lập ra mặc dù họ luôn khẳng định “quyết tâm xây dựng một nhà nước của dân, do dân và vì dân”.

Thực tế đã chứng minh rằng đội ngũ lãnh đạo tại các nước xã hội chủ nghĩa này đã trở thành những kẻ giàu có nhất trong xã hội. Bọn họ giàu có hơn hẳn bất cứ một đội ngũ lãnh đạo nào của các nước tư bản phát triển.
Nhóm người này có tâm lý làm giàu như các nhà tư bản chó sói thời hoang dại. Họ núp dưới bóng của chủ nghĩa vô sản nhưng lại hành động như những kẻ điên rồ tham lam tàn bạo nhất. Họ đã tự đặt mình lên trên pháp luật, lũng đoạn pháp luật. Đội ngũ lãnh đạo tại các nước này theo thời gian đã được phân hóa thành nhiều nhóm lợi ích… Các nhóm lợi ích tranh giành xâu xé thậm chí triệt tiêu nhau để vơ vét tiền bạc của cải của đất nước mà chính họ là những người đang giữ cương vị lãnh đạo. Các nhóm lợi ích tại các quốc gia này trong đó có Việt Nam đang có xu hướng phát triển không có giới hạn. Các nhóm lợi ích dùng quyền lực chính trị, tư pháp, hành pháp và cả lập pháp để tranh giành biển thủ, tước đoạt những gì có thể, cho phe nhóm của mình, họ sẵn sàng dùng hàng tỷ đô la ngân sách nhà nước để phục vụ cho các dự án bình phong mà những nhóm lợi ích của họ dựng lên với chiêu bài phát triển kinh tế, phục vụ dân sinh, phục vụ an ninh quốc phòng để thực hiện các hành vi tham ô, tham nhũng. Trên thực tế sự tha hóa này phát triển rất nhanh từ thế hệ lãnh đạo này sang thế hệ lãnh đạo kế tiếp. Thế hệ sau tham lam tàn bạo, táo tợn và tinh vi hơn thế hệ trước. Đây là một thực tế mà tất cả mọi người đều nhận ra. Mọi người trong đó có cả những kẻ tham nhũng đều nhận thức được rằng sự suy thoái này chắc chắn sẽ dẫn tới sự đổ vỡ diệt vong nhanh chóng cho đất nước của họ nhưng lại không ai có đủ dũng khí và khả năng để tìm cách ngăn chặn dòng thác tham nhũng đang cuốn phăng đi tất cả thậm trí cả lương tâm, lương tri… Dòng thác này được hình thành một cách tự phát như một xu thế và là hệ quả tất yếu trong quá trình chuyển đổi từ việc quản lý kinh tế quan liêu bao cấp theo mô hình xã hội chủ nghĩa sang nền kinh tế thị trường.

Bài viết này không có ý định đi sâu vào việc phân tích các nguyên nhân cội rễ cũng như các biến cố lịch sử đã hình thành nên “dòng nước lũ tham nhũng” có tính đặc thù này mà chỉ định nêu ra một vài nhận định cơ bản để làm cơ sở nền tảng giúp bạn đọc hiểu thêm những phân tích về diễn biến trên chính trường tại Việt Nam hiện nay và trong thời gian tới.

Sự hình thành các nhóm lợi ích đã làm thay đổi đời sống chính trị tại Việt Nam ngay từ khi bắt đầu thực hiện quá trình “đổi mới”. Các nhóm lợi ích luôn tìm cách tranh giành “hơn thua” với nhau trên chính trường. Quá trinh “đổi mới” tại Việt Nam tất yếu đã đưa tới sự gắn kết chặt chẽ giữa quyền lực chính trị với quyền lực kinh tế. Tuy rằng mặt tích cực do sự nghiêp đổi mới mang lại đối với Việt Nam là rõ ràng thậm chí đôi khi là kỳ diệu không thể phủ nhận được, cụ thể: sức sản xuất được cởi trói một phần, sức sáng tạo trong xã hội được phát huy, nền kinh tế không ngừng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, cơ sở hạ tầng, mức sống của người dân trong xã hội không ngừng được nâng cao, bộ mặt đất nước được thay đổi toàn diện, vị thế của đất nước được nâng cao trên trường quốc tế v.v… Song những thành tựu do công cuộc đổi mới mang lại ngày càng bị hạn chế và dần bị triệt tiêu bởi mặt trái của nó là tệ nạn tham những.

Trước hết trong lĩnh vực chính trị sự tranh giành giữa những nhóm lợi ích đã tạo ra một đặc thù trong việc hình thành bộ máy lãnh đạo đất nước mà trước đây chưa từng xẩy ra là vị trí số 1, vị trí của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản thay vì phải là những cá nhân xuất sắc nhất, mạnh mẽ nhất nhưng trên thực tế lại ngược lại. Tại Việt Nam gần hai thập kỷ trở lại đây vị trí Tổng Bí thư lại giành cho những người có hình ảnh: nhu mỳ, ba phải, dĩ hòa vi quý, ít góc cạnh… Rõ ràng đây là những giải pháp tình thế để tạo sự hòa hoãn mà các nhóm lợi ích đã đi đến thỏa hiệp. Hai nhiệm kỳ làm Tổng Bí thư của Nông Đức Mạnh là cơ hội vàng cho các nhóm lợi ích tại Việt Nam kiếm chác và ăn chia. Sang đến thời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khi các mặt trái của sự lũng đoạn của các nhóm lợi ích tham nhũng đã bi phơi bầy không thể che giấu nổi, nhưng trong nhiệm kỳ đầu làm Tổng Bí thư với phương pháp tư duy và hành động mang nặng tính lý thuyết giáo điều, cộng với sự hạn chế về sức mạnh quyền lực cả trên lĩnh vực tài chính lẫn bạo lực cũng như không có phe cánh, nên Nguyễn Phú Trọng ngoài việc chỉ đưa ra hết nghị quyết này đến nghị quyết khác, trên thực tế hầu như không làm được gì cụ thể đáng kể nào. Trên chính trường Nguyễn Phú Trọng trở thành một anh “hề cung đình” bất đắc dĩ. Thực tế “tập thể” ban lãnh đạo Đảng của ông ta luôn làm vô hiệu hóa các nghị quyết của đảng và làm ngược với mong muốn của ông ta về các vấn đề mà đặc biệt là vấn đề nhân sự cốt lõi của đảng. Thực tế này sẽ dẫn tới sự cáo chung rất nhanh chóng theo cách thức xấu nhất đối với chế độ cộng sản: Sự việc lên tới đỉnh điểm là tại Hội nghị TƯ 6 khóa 11, ông trùm của những ông trùm tham nhũng và lợi ích nhóm Nguyễn Tấn Dũng đã bi phơi bầy quá nhiều sai phạm trên rất nhiều phương diện, việc trừng phạt con người này đã trở thành đòi hỏi của công lý và người dân Việt Nam. Nhưng đến giờ chót Nguyễn Phú Trọng cùng với “tập thể” Đảng Cộng sản không làm nổi cái điều tưởng như đương nhiên này, Nguyễn Tấn Dũng vẫn tại vị và ngạo nghễ thách thức quyền lực của Nguyễn Phú Trọng và đặc biệt thách thức những nỗ lực chống tham nhũng của Đảng. Thực tế này lần đầu tiên tại Việt Nam Tổng Bí thư đã trở thành một anh hề cung đình.

Có lẽ sự kiện này đã làm cho Nguyễn Phú Trọng phải tự lột xác, vì chỉ có như vậy thì mới có cơ may cứu Đảng Cộng sản và chế độ do Đảng Cộng sản lập ra khỏi sụp đổ một cách nhục nhã. Đến nay trên thực tế đã ghi nhận một số thành công bước đầu trong quá trình tự lột xác này của Nguyễn Phú Trọng. Bề ngoài ông ta không tỏ ra có bất kỳ một thay đổi đáng kể nào, vẫn phát ngôn giáo điều, lạc lõng, thái độ lời nói vẫn nhỏ nhẹ nhu mỳ đến buồn ngủ, nhưng bên trong ông ta cùng một số đội ngũ thân tín của mình chuẩn bị cho việc loại bỏ con “sâu chúa” bằng “mọi giá” trong Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 12. Cái chữ MỌI GIÁ ở đây được thể hiện là ông ta đã chấp nhận mọi sự nhân nhượng kể cả việc để cho các đệ tử thân tín nhất của sâu chúa Nguyễn Tấn Dũng, những trùm tham nhũng được ở lại và lên chức cao hơn, mặt khác lại để cho môt số người tâm phúc của ông ta phải về vườn. Tất cả chỉ nhằm tới mục đích loại được “con sâu chúa” Nguyễn Tấn Dũng. Người ta nhìn thấy ông ta đã trả một cái giá rất đắt để đạt được muc tiêu này. Một trong những cái giá phải trả là chấp nhận cho những đệ tử ruột nhất, trung thành nhất của sâu chúa và Bộ Chính trị và hơn thế nữa còn được đưa vào những vị trí sống còn của bộ máy cầm quyền. Một thành công nhất cho đến nay trong quá trình “lột xác” của Nguyễn Phú Trọng là ông ta hành động rất “quyền biến” và khôn ngoan, biết mình biết ta, trái ngược phong cách giáo điều cứng nhắc, quan liêu như ông ta vẫn thể hiện. Mặt khác ông ta luôn giữ được bí mật tuyệt đối phương án hành động của mình, biết đánh hỏa mù, biết dàn trận giả để làm lạc hướng đối thủ. Để làm được những việc này chắc chắn Nguyễn Phú Trọng cũng đã thành công bước đầu trong việc xây dựng cho mình một “team hành động đủ mạnh”. Nhưng cần nhận định rằng sẽ là quá sớm nói đến một sự thành công chắc chắn, bền vững để ít nhất là đẩy lùi được sự đổ vỡ, hỗn loạn của chế độ hiện hành trong tương lai gần. Nguyễn Phú Trọng và đồng chí của ông ta phải hóa giải được các nguy cơ to lớn sau:

1. Mọi sự thanh trừng, tiễu phạt chỉ thành công khi Nguyễn Phú Trọng đảm bảo được sự ổn định và phát triển kinh tế vĩ mô, an ninh chính trị và trật tự xã hội được giữ gìn. Đây là một thực tế rất mong manh tại Việt Nam hiện nay: đa số các nhân vật có kinh nghiệm trong Chính phủ hiện nay đều đã từng là những đệ tử thân thiết của Nguyễn Tấn Dũng. Chính họ là những kẻ gây ra các ung nhọt trong nền kinh tế nhưng đồng thời cũng là những nhà ảo thuật bậc thầy về sự che đậy, biến báo cho những ung nhọt này. Đinh La Thăng là một trong những nhân vật sáng giá hàng đầu như vậy. Chỉ cần chính những nhân vật này không tiếp tục che đậy nữa thì cũng đủ để đất nước rơi vào khủng hoảng về tâm lý, sau đó là vỡ bung những ung nhọt trong nền kinh tế ở những nơi yếu nhất và nhạy cảm nhất, rồi lan sang các lĩnh vực khác về kinh tế, tài chính và xã hội. Tất nhiên khi còn chức quyền hoặc ít ra được hạ cánh an toàn thì những kẻ tham nhũng còn “vun đắp” cho chế độ, nhưng khi bị lao lý và truy thu của cải, tài sản thì tình hình sẽ khác, rất khác. Liệu Nguyễn Phú Trọng đã chuẩn bị các biện pháp để đối phó hay chưa?

2. Mục tiêu lớn nhất của chống tham nhũng là lấy lại uy tín cho Đảng Cộng sản, khôi phục lại lòng tin cho nhân dân là Đảng thực sự tôn trọng sự công bằng và công lý. Nhưng tại Việt Nam tham nhũng đã quá trầm trọng, diễn ra ở mọi nơi mọi cấp mọi lĩnh vực, vậy nếu chống tham nhũng không đúng cách thì sẽ phơi bầy sự mọt rỗng của chế độ qua nhiều thời kỳ lãnh đạo. Mặt khác chính việc chống tham nhũng sẽ gây ra sự bất công giữa các phe nhóm, giữa các cá nhân. Liệu những kẻ bị đưa vào tù có chấp nhận, những kẻ giống mình nhưng chưa bị lộ vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật thậm trí còn đang giao giảng về đạo đức?

3. Các cơ quan sức mạnh của Nhà nước Việt Nam hiện nay lại chính là nhưng cơ quan có tham nhũng nhiều nhất, trầm trọng nhất trong đó đặc biệt là cơ quan công an, vây khi “đánh” vào các nhân vật chủ chốt của các cơ quan này thì liệu có đảm bảo được an ninh, quốc phòng cho đất nước hay không?

4. Liệu Nguyễn Phú Trọng và các đồng chí của ông ta có chứng minh được sự trong sạch của lực lượng chống tham nhũng hiện nay trước tin đồn cho rằng họ nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo của Trung Quốc, cả về kinh tế, tài chính, an ninh, quốc phòng, hay không? Cần hiểu rằng đây cũng là một tử huyệt về chính trị khi mà lòng dân Việt Nam đang có một sự mặc cảm rất lớn về chính sách bành trướng và bá quyền Trung Quốc. Rõ ràng rằng yếu tố Trung Quốc có ảnh hưởng rất quan trọng đến sự thắng hay thua của chiến dịch chống tham nhũng tại Việt Nam, nếu không nói là sự ảnh hưởng này có tính quyết định trong tình thế hiện nay tại Việt Nam. Nhưng lịch sử cận đại đã dạy cho Việt Nam những bài học quá đắt giá của việc lệ thuộc vào Trung Quốc. Chỉ cần Trung Quốc của Tập Cận Bình “VÔ TÌNH” đối với cuộc chiến chống tham nhũng tại Việt Nam hiện nay mà tổ chức một vài sự kiện giống như Dàn khoan 981 hay Formosa hay tấn công ngư dân Việt Nam trên Biển Đông… thì cũng đủ để đẩy Nguyễn Phú Trọng và đồng chí vào chân tường. Nhưng nếu Tập Cận Bình mà ủng hộ Nguyễn Phú Trọng không đủ độ KÍN ĐÁO, TẾ NHỊ thì Trung Quốc sẽ biến lực lượng chống tham nhũng do Nguyễn Phú Trọng cầm đầu trở thành tay sai của Trung Quốc. Người dân Việt Nam lại không bao giờ chấp nhận lãnh đạo của đất nước là tay sai của TRUNG QUỐC.

5. Thái độ của Mỹ và phương Tây cũng ảnh hưởng nhiều tới cuộc chiến này. Tuy không mạnh mẽ, trực tiếp bằng sự ảnh hưởng của Trung Quốc nhưng xã hội Việt Nam và tâm lý của người dân Việt Nam đang hướng tới một xã hội dân chủ công bằng và văn minh. Khi nói đến khái niệm này thì tuyệt đại đa số người Việt Nam đều nghĩ tới Mỹ và phương Tây.

Trở lại một chút về thái độ của Chính phủ Đức trong vụ Trịnh Xuân Thanh, tác giả bài viết này không cho rằng phản ứng mạnh mẽ của Chính phủ Đức đối với Chính phủ Việt Nam chỉ xuất phát từ những nguyên nhân bề nổi như báo chí đã nói. Ngược lại tác giả cũng không cho rằng lực lượng chống tham nhũng của nhà cầm quyền Việt Nam lại có hiểu biết và hành động thô thiển, vụng về nhưng những gì đã diễn ra công khai đã được công luận tường thuật. Ngay từ khi Trịnh Xuân Thanh được đưa về Việt Nam các cơ quan an ninh và chuyên gia trong và ngoài nước đã có những tư vấn kịp thời với lực lượng chống tham nhũng tại Việt Nam nhằm tránh đi những tổn hại đáng tiếc về ngoại giao và bang giao kinh tế nhưng dường như chẳng ai trong lực lượng chống tham nhũng tại Việt Nam quan tâm đến những lời tư vấn này và đã không làm những việc cực kỳ đơn giản để không làm trầm trọng hóa vấn đề này. Nhưng khi sự việc đã tiến triển theo chiều hướng xấu vượt mức bình thường thì phía Nguyễn Phú Trọng lại quy trách nhiêm cho Phạm Bình Minh? Một số dấu hiệu này đã nói lên rõ ràng rằng cuộc chiến chống tham nhũng đã vượt qua phạm vi biên giới của Việt Nam mà sẽ là cuộc chiến giành ảnh hưởng giữa phương Tây và Trung Quốc đối với Việt Nam. Liệu Nguyễn Phú Trọng còn giữ được đường lối “đa phương hóa, đa dạng hóa với các nước” được hay không, hay lại theo chân Malaysia, Thái Lan, Philippin thậm chí là Campuchia trong chính sách đối ngoại với Trung Quốc? Chắc chắn câu trả lời cho câu hỏi này không chỉ là ở phía Việt Nam mà còn ở Trung Quốc và các nước phương Tây và Mỹ.

Tóm lại Nguyễn Phú Trọng và các đồng chí của ông đã chọn một con đường khác hẳn với con đường mà người tiền nhiệm của ông là Nông Đức Mạnh đã lựa chọn. Cứ giả thiết, như nhiều lời đồn đoán dù thiện ý hay ác ý, cho rằng cuộc chiến chống tham nhũng này chỉ là một cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe phái thì một thực tế không thể phủ nhận là:

1. Việt Nam không thể không chống tham nhũng và càng không thể chống tham nhũng bằng cách đưa những kẻ tham nhũng lên làm lãnh đạo đất nước.
2. Cuộc chiến chống tham nhũng tại Việt Nam sẽ không phải chỉ là câu chuyện nội bộ của Việt Nam.

P.H.Q.
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 2-1-18
Nguồn: http://www.viet-studies.net/kinhte/PHungQuoc_DuBaoTinhHinh.html

Năm mới chuyện cũ: Dân trí và vận mệnh quốc gia


Nguyễn Quang Dy

“Dân hai nhăm triệu ai người lớn / Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con” (Trích bài “Bính thìn Xuân Cảm” của Tản Đà (1916) trong tập thơ “Khối tình con”).

Với trái tim nhạy cảm của một thi sỹ lớn nặng tình với đất nước, trong bài thơ thất ngôn bát cú cố tình viết dang dở (thiếu hai câu kết), cụ Tản Đà đã đau lòng nhận xét về dân trí quốc gia bằng mấy vần thơ cô đọng như lời sấm truyền. Và với bộ óc nhạy cảm của một nhân sĩ lớn có tầm nhìn xa, cụ Phan Châu Trinh đã tâm huyết đề xuất giải pháp chấn hưng quốc gia bằng “khai dân trí” (enlightened wisdom) và “chấn dân khí” (heightened morale). Ngày nay các nhà khoa học gọi sự nhạy cảm đó là “trí tuệ cảm xúc” (emotional intelligence).

Nhiệm vụ bất khả thi

Không phải ngẫu nhiên mà Tổng thống Obama đánh giá cao tư tưởng của cụ Phan Châu Trinh như một “triết lý” (philosophy) khi ông đến thăm Việt Nam (23/5/2016). Phải chăng ông Obama muốn nói rằng tư tưởng đó của cụ Phan Châu Trinh vẫn còn nguyên giá trị, và người Việt lúc này vẫn cần “khai dân trí”? Cũng không phải ngẫu nhiên mà Tổng thống Trump ca ngợi Hai Bà Trưng khi ông đến thăm Việt Nam (10/11/2017). Phải chăng ông Trump cũng muốn nói rằng người Việt đang cần “chấn dân khí”? Không biết điều đó có phải là dấu hiệu của “Đông Tây hội ngộ” hay không, nhưng chắc chắn nó càng khẳng định những gì các cụ Tản Đà và Phan Châu Trinh nói cách đây gần một thế kỷ đáng để hậu thế suy ngẫm.

Một điều nữa cũng đáng suy ngẫm là vào thời Minh Trị (Meiji era), các nhân sĩ Nhật như ông Fukuzawa Yukichi đã giúp nước Nhật khởi nghiệp quốc gia, trở thành một đế quốc hùng mạnh khi phương Đông còn chìm đắm trong đêm dài lạc hậu. Sau chiến tranh, giới trí thức Nhật một lần nữa lại giúp nước Nhật bại trận chấn hưng, trở thành một cường quốc dân chủ. Người Nhật đã làm được điều đó vì họ trọng dụng trí thức và mở cửa để học hỏi phương Tây. Người Việt không làm được điều đó vì coi thường trí thức và đóng cửa để “bế quan tỏa cảng” với phương Tây, mà họ chỉ coi trọng khổng giáo (nay đã thành hủ nho). Gần đây, Việt Nam phát động “định nghĩa trí thức” thì e rằng đã quá muộn (too little too late).

Việt Nam hiện nay có hàng chục vạn giáo sư tiến sĩ, nhưng chắc chỉ có vài trăm người là trí thức thực sự có tư duy độc lập và sáng tạo. Thói háo danh, thích xu nịnh và trọng bằng cấp (dù bằng giả và đạo văn), làm nhiều người ngộ nhận mình là trí thức. Hệ quả không định trước của chính sách cai trị độc đoán và ngu dân làm cho quan trí ngày càng thấp. Có người gọi đó là “định luật trên dưới cùng ngu”. Dân trí thấp kéo theo mọi cái đều thấp, dẫn đến vô cảm và vô minh, làm cho ý tưởng khai dân trí trở thành “nhiệm vụ bất khả thi”.

Cách đây một thế kỷ, cụ Phan Châu Trinh hô hào “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” như một triết lý để chấn hưng quốc gia. Nhưng đến nay, người Việt vẫn dậm chân tại chỗ ở ngã ba đường, chưa thoát khỏi bãi lầy ý thức hệ đã lỗi thời. Trong khi người Nhật đã khởi nghiệp quốc gia (từ thời Minh Trị) và chấn hưng đất nước (từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai) thì người Việt vẫn loay hoay “định nghĩa trí thức”. Trong khi người ta hô hào “công nghệ 4.0”, thì các quan cũng như dân vẫn còn đồng bóng, tin vào bói toán và cúng bái, cầu xin người chết thuộc thế giới âm làm thay việc của người sống ở thế giới dương (như “xin cho”).
Khai dân trí thế nào?

Khai dân trí được hiểu là mở cửa trí tuệ để đưa dân trí từ chỗ tối ra chỗ sáng, như một cuộc cách mạng về tư tưởng và văn hóa, nhằm giải phóng trí tuệ con người khỏi vô minh và ngộ nhận do theo đuổi một ý thức hệ đã lỗi thời. Ý nghĩa của Khai dân trí tương tự như Enlightenment trong tiếng Anh. Còn Dân khí thường dùng để chỉ sức mạnh tinh thần, không chỉ dựa trên lý trí mà còn bao gồm cả cảm xúc (EQ). Chấn dân khí chính là nhằm khôi phục và tăng cường sức mạnh tinh thần và nhuệ khí của dân tộc. Một khi dân trí thấp kém và dân khí yếu hèn thì giới trí thức phải giúp nhau và giúp người dân khai mở trí tuệ để đổi mới tư duy, góp phần chấn hưng quốc gia và hội nhập cùng với trào lưu chung của nhân loại tiến bộ.

Có nhiều khái niệm liên quan đến người dân như “của dân, do dân, vì dân” (of the people, by the people, for the people) của Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln (1863), hoặc “tam dân chủ nghĩa” (three principles of people) của ông Tôn Trung Sơn (1924) bao gồm “dân tộc” (nationalism), “dân quyền” (civil rights), “dân sinh” (people’s livelihood)… Sinh thời, cụ Phan Châu Trinh và các nhân sĩ khác đều quan tâm vận dụng những tư tưởng này. Nhưng các cụ không biết rằng một thế kỷ sau, những tư tưởng cấp tiến đó vẫn còn là khẩu hiệu.

Không phải chỉ có giới cầm quyền, mà cả người dân với tư duy truyền thống, cũng tin rằng “nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ”. Có lẽ vì vậy mà sau khi quốc gia khởi nghiệp bằng bạo lực do “cướp chính quyền” (năm 1945), Việt Nam đã “khai dân trí” bằng hệ thống “bình dân học vụ”, và sau chiến tranh (năm 1954) bằng hệ thống “bổ túc công nông”. Điều đó không sai về công bằng xã hội, nhưng là thảm họa nếu phủ nhận vai trò của trí thức khi người Việt muốn khởi nghiệp hay chấn hưng quốc gia. Nó lý giải tại sao Việt Nam vẫn tụt hậu và chính phủ “kiến tạo” còn gặp khó khăn khi xây dựng một nền kinh tế tri thức. Đó là sự khác biệt cơ bản giữa Việt Nam với Nhật Bản (và các nước khác).

Nhưng làm sao có dân trí cao khi người Việt Nam bắt chước người Trung Quốc đấu tranh giai cấp cực đoan bằng bạo lực (với khẩu hiệu “trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ”). Thời “cách mạng văn hóa”, Mao Trạch Đông đã nói thẳng “trí thức không bằng cục phân” và đuổi họ về nông thôn để “cải tạo lao động” (trong đó có cả Tập Cận Bình). Nhiều người vẫn chưa quên những bài học kinh hoàng về “cải cách ruộng đất” và những màn đấu tố đầy bạo lực. Những gì diễn ra ở Trung Quốc thường lặp lại tại Việt Nam, tuy quy mô, mức độ và thời gian có khác nhau, nhưng mô hình và phương thức gần giống nhau (đến tận bây giờ). Việt Nam chống tham nhũng là rất đúng và cần thiết, nhưng vẫn bắt chước Trung Quốc.

Không phải ngẫu nhiên mà chính quyền hành xử cực đoan và thiếu dân chủ. Theo khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu PEW (Mỹ), 79% người Việt trả lời là họ ủng hộ dân chủ “vừa phải”, 29% coi chính quyền là thể chế “rất tốt”, 41% coi là “hơi tốt” và chỉ có 3% coi là “rất xấu”. Nhiều người dân vẫn thích chuyên chính (đối với kẻ khác). Cực đoan và thù hận, vô cảm và vô minh là những căn bệnh nan y mãn tính của người Việt (cả trong nước lẫn ngoài nước). Ai đã khủng bố và giết hại năm nhà báo người Việt tại Mỹ (giai đoạn 1981-1990)? Cái gì đã làm người Việt (cả hai phía) khó hòa giải dân tộc để chấn hưng quốc gia?
Một số người phê phán cách dùng chữ “người Việt” là không đúng (mà theo họ phải gọi là chính quyền cộng sản). Phải chăng họ chỉ muốn áp đặt ý của mình cho người khác, và quen đổ lỗi cho người khác, còn mình thì vô can. Chẳng có ai thực sự vô can hay “ngoại phạm” vì người ta hay nói “dân nào thì chính phủ ấy” và “quan tham vì dân gian”. Chính quyền tham nhũng vì người dân hay hối lộ. Có vấn nạn thực phẩm độc hại vì dân gian và tham. Có vấn nạn chạy bằng cấp vì người dân hám danh và thích bằng cấp (do dân trí thấp).

Đánh tráo khái niệm và tụt hậu

Trong bối cảnh Việt Nam, hai chữ “nhân dân” được sử dụng quá nhiều như lạm phát. Từ “ủy ban nhân dân, hội đồng nhân dân, chính quyền nhân dân, đến công an nhân dân, tòa án nhân dân, quân đội nhân dân, và chiến tranh nhân dân… Hầu như cái gì cũng gắn với “nhân dân” như khẩu hiệu dân vận. Người Việt thích vay mượn khái niệm “của dân, do dân, vì dân” của người Mỹ và mặc nhiên coi đó là của mình. Thực ra của ai không quan trọng, nhưng họ có thực sự tin vào điều đó không và lời nói có đi đôi với việc làm không. Gần đây, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng có nói một câu làm bộc lộ bản chất, “Nếu ta sai, ta sẽ xin lỗi dân. Nếu dân sai, dân phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”. Trong khi đó, chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh chia sẻ một kinh nghiệm thu thuế thật ấn tượng, “Thu thuế phải như vặt lông vịt, vặt sao cho sạch nhưng đừng quá vội để vịt nó kêu toáng lên”.

Tại Việt Nam có rất nhiều khẩu hiệu dân túy như “thực hiện quyền làm chủ của nhân dân” với “dân chủ cơ sở”, theo nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trên tinh thần “dân chủ tập trung” trong nền “kinh tế thị trường định hướng XHCN”, nhằm thực hiện các mục tiêu cơ bản “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nhưng các ý tưởng dân chủ đã bị đánh tráo không còn như ban đầu, giống một đoàn tàu bị bắt cóc (hijacked) và người cầm lái bẻ ghi đoàn tàu chạy theo hướng khác. Người ta chỉ giữ lại cái vỏ và những khẩu hiệu mỵ dân để che đậy bản chất mới. Đó chính là “diễn biến” và “suy thoái”.
Trong Hiến pháp 1946, lời nói đầu đã khẳng định ba nguyên tắc cơ bản là: (1) Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái, trai, giai cấp, tôn giáo; (2) Đảm bảo các quyền tự do dân chủ; (3) Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Đó là một hiến pháp tiến bộ, được lòng dân. Trong thời kỳ hậu chiến (1975-1988), tại Việt Nam vẫn tồn tại ba đảng là Đảng Cộng sản, Đảng Xã hội, và Đảng Dân chủ. Nhưng từ năm 1988, Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam đã buộc phải “tự giải thể”, chỉ còn một đảng duy nhất lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo Hiến pháp mới, đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng duy nhất lãnh đạo toàn diện đất nước. Đó là một bước tụt hậu về dân chủ.

Cụ Hồ đã từng định nghĩa dân chủ một cách dễ hiểu: “Dân chủ là để làm sao cho dân được mở miệng ra. Đừng để dân sợ không dám mở miệng, nhưng còn nguy hại hơn là khi người dân không thiết mở miệng nữa…” Nhưng thời thế thay đổi, khi dân chủ và tự do báo chí ngày càng bị thu hẹp. Theo xếp hạng của tạp chí Economist (2012) về chỉ số dân chủ, Việt Nam đứng thứ 144 trên tổng số 167 quốc gia được xếp hạng và nằm trong nhóm các nước độc tài thiếu dân chủ, được bộ ngoại giao Mỹ xếp vào nhóm nước “chưa có dân chủ, hạn chế tự do báo chí, tôn giáo”. Nhưng để lý giải sự suy thoái và tụt hậu hiện nay, không nên chỉ đổ lỗi cho những người cầm lái đoàn tàu, mà còn phải xem lại dân trí của hành khách đi trên tàu.

Năm ngoái, nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã mượn câu đó của cụ Hồ để nói về tự do ngôn luận, tự do báo chí của người dân trong luật báo chí sửa đổi (GDVN, 18/2/2016). Trong bối cảnh đó, ông Hùng nhấn mạnh: “Ta mà hiểu rằng quản lý là siết lò so lại không cho làm là không được đâu, là vi phạm Hiến pháp”. Theo “quy trình”, Luật Báo chí điều chỉnh các loại hình báo chí và không cho tư nhân hóa báo chí, còn quản lý thông tin trên mạng được điều chỉnh theo Nghị định 72. Ông Hùng lý giải, “Hiến pháp nói về quyền tự do và chỉ hạn chế bằng luật, thế thì bây giờ các đồng chí định hạn chế cái gì, cấm cái gì thì phải đưa vào luật chứ để trong nghị định là không được đâu… Quản lý bằng nghị định cũng được, nhưng nghị định mà đụng đến quyền tự do dân chủ thì không được”. Nhưng sang năm 2017, việc kiểm soát báo chí và mạng xã hội còn bị “siết lò so” mạnh hơn, như một bước thụt lùi.

Thực trạng về dân trí

Dân trí về quản trị đất nước chưa trưởng thành (immature). Tuy kinh tế Việt Nam tiếp tục tụt hậu (một số lĩnh vực thua cả Campuchia), nhưng đất nước vẫn đi theo một mô hình “không giống ai” (mà chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan gọi là “không chịu phát triển”). Tuy chiến tranh lạnh đã chấm dứt gần ba thập kỷ, nhưng Việt Nam vẫn hồn nhiên cử đặc vụ sang Berlin bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, vi phạm luật quốc tế và chủ quyền quốc gia Đức, gây khủng hoảng ngoại giao Đức-Việt, làm Chính phủ Đức nổi giận, đình chỉ quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam (và có thể phủ quyết EVFTA). Trong khi nhà nước hô hào về “chủ quyền quốc gia” và “an ninh quốc phòng”, thì người Trung Quốc được thuê dài hạn rừng đầu nguồn và chiếm các vị trí hiểm yếu làm dự án. Gần đây, Chính phủ do túng tiền đã quyết định bán các doanh nghiệp hàng đầu (Vinamilk và Sabeco) cho nước ngoài kiểm soát. Phải chăng đó là biểu hiện của dân trí thấp như “khôn nhà dại chợ” và “tham bát bỏ mâm” (nên lợi bất cập hại?).

Dân trí về hợp tác và hội nhập còn kém. Người ta nói rằng người Việt làm việc gấp 3 lần người Nhật, nhưng khi hợp lực lại thì 3 người Việt mới bằng một người Nhật. Theo tiến sĩ Lê Thẩm Dương, người Nhật biết cách quản lý thời gian và làm việc nhóm hiệu quả, còn người Việt thì không. Giám đốc VJCC tại Hà Nội nhận xét, “Người Việt Nam làm việc rất thông minh, cần cù, khi được các chuyên gia hướng dẫn thì họ biết phải làm gì và học hỏi rất nhanh. Thực tế là các bạn làm việc tốt hơn 3 lần so với người Nhật nhưng chỉ khi các bạn làm một mình. Tuy nhiên, khi các bạn làm việc tập thể thì các bạn làm không tốt bằng người Nhật chúng tôi vì khả năng làm việc nhóm (teamwork) của các bạn không tốt bằng người Nhật, và tôi có thể khẳng định rằng khi làm việc tập thể thì 3 người Việt mới bằng một người Nhật”.

Dân trí về văn hóa ứng xử xuống cấp nghiêm trọng, dẫn đến bạo hành gia đình, bạo lực học đường và bạo lực xã hội (ngay trong các lễ hội văn hóa truyền thống). Trong khi nhiều cô “bảo mẫu” bạo hành với trẻ em mẫu giáo (hết vụ này tới vụ khác), thì Bộ giáo dục và các địa phương vẫn chưa có giải pháp hữu hiệu để chấm dứt tình trạng đó, mà chỉ rút kinh nghiệm và đổ trách nhiệm cho nhau. Dân trí về lịch sử và ngôn ngữ cũng có vấn đề, khi một số “trí thức” lúc thì đề xuất “bỏ môn lịch sử”, lúc khác lại đề xuất “cải cách chữ viết tiếng Việt”, như một trò đùa vô minh về “cải cách giáo dục”, làm cho dư luận cả nước bức xúc.

Dân trí về bảo vệ sức khỏe của người dân còn lạc hậu, đa số thiếu ý thức “phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Họ thường không kiểm tra định kỳ để phát hiện bệnh sớm, vừa do hoàn cảnh vừa do dân trí thấp. Nhiều người mắc bệnh vì thực phẩm độc hại hay ô nhiễm môi trường (do nhân họa) trong khi đó một số “không nhỏ” các quan chức y tế và bác sỹ (thoái hóa) lại tiếp tay cho các công ty dược như VN Pharma nhập thuốc ung thư dỏm về bán cho bệnh nhân. Việt Nam đang trở thành tâm điểm của ung thư, mỗi năm có hơn 126.000 ca mắc bệnh ung thư mới, và khoảng 94.000 người tử vong vì ung thư. Xu hướng này ngày càng gia tăng, không những gây tổn thất lớn cho nền kinh tế mà còn làm cho biết bao gia đình điêu đứng.

Dân trí và tham nhũng

Chống tham nhũng “giai đoạn 2.0” quyết liệt hơn với hình tượng “lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào cũng phải cháy” mà TBT Nguyễn Phú Trọng đã cao hứng mô tả. Sau khi Trịnh Xuân Thanh bị bắt tại Berlin (23/7/2017), Đinh La Thăng cũng bị bắt tại Hà Nội (8/12/2017). Nhưng chống tham nhũng chắc không dừng lại ở “đại án PVN” mà còn tiếp diễn nhằm chiếu tướng (tuy chưa rõ là chiếu tướng ai). Trong khi nhiều người tin rằng đánh ông Đinh La Thăng là để chiếu tướng ông X (cầm đầu “bên thua cuộc”), những một số khác cho rằng đánh “Vũ Nhôm” là để chiếu tướng ông Y (đối thủ số một đang cầm quyền). Đây là trò chơi vương quyền (game of thrones) có nhiều ẩn số. Nhưng việc khám nhà và truy nã “Vũ Nhôm” sau khi thả rông để đương sự thoái vốn và bỏ trốn, là một vở kịch vụng về. Dân trí cao hay thấp khi công tác an ninh, tình báo của quốc gia cũng bị “thương mại hóa” và biến thành bi hài kịch.

Gần đây, nhiều người bức xúc hỏi tại sao người ta lại để những người “vi phạm đặc biệt nghiêm trọng” tiếp tục vào Trung ương và Bộ Chính trị… Ông Trần Quốc Hương (nguyên Phó Chủ nhiệm Ban Tổ chức TW) hỏi lúc đó “các cơ quan kiểm tra, tổ chức của Đảng có ý kiến gì không trước những vi phạm của Đinh La Thăng?” Luật sư Trần Quốc Thuận nói: “Đó là một ẩn số cần làm rõ”. (Tiền Phong, 18/12/2017). Phải chăng vì vậy mà TBT Nguyễn Phú Trọng phải dự họp Chính phủ (28/12/2017) để triển khai chủ trương “nhất thể hóa”. Không biết ông Nguyễn Phú Trọng có ý gì khi nói “Từ bé đến giờ mới được dự họp Chính phủ”.

Chiến dịch chống tham nhũng nhắm vào hai nhóm đối tượng chính là một số “thái tử đảng” và quan chức địa phương (để đánh “từ vòng ngoài vào vòng trong”). Sau khi xử lý Vũ Huy Hoàng và Trầm Bê, ngày 8/1/2017 sẽ xét xử Đinh La Thăng và Trịnh Xuân Thanh. Dường như vòng vây đang gấp rút khép lại để chiếu tướng ông X, nhưng vụ khám xét và truy nã “Vũ Nhôm” ở Đà nẵng (21/12/2017) lại mở ra một hướng khác như để chiếu tướng ông Y. Nhưng dù chiếu tướng ông nào thì đất nước cũng là “bên thua cuộc” và nhân dân vẫn là nạn nhân của “trò chơi vương quyền” đang làm đất nước phân hóa và kiệt quệ, đứng trước những rủi ro tiềm ẩn về kinh tế và những hiểm họa khôn lường về an ninh và chủ quyền quốc gia.

Thay lời kết

Đã gần một thế kỷ trôi qua kể từ khi cụ Phan Châu Trinh kêu gọi “khai dân trí và chấn dân khí”, nhưng Việt Nam vẫn còn loanh quanh tại ngã ba đường, chưa thoát khỏi hệ tư tưởng đã làm đất nước tụt hậu so với Nhật Bản hàng trăm năm. Muốn “khai dân trí”, Việt Nam phải thay đổi hệ quy chiếu đã lỗi thời, và phải đổi mới thể chế toàn diện. Nếu không thực sự đổi mới thể chế thì việc chống tham nhũng cũng giống như trò “hàn soong hàn nồi”. Để thay cho câu kết, xin mượn lời Albert Einstein (nói cách đây gần một thế kỷ), “Chúng ta không thể giải quyết được vấn đề với cùng một cách tư duy mà chúng ta đã dùng để tạo ra chúng” (We can't solve problems by using the same kind of thinking we used when we created them).

01/01/2018
N.Q.D.
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 1--1-18
Nguồn: http://www.viet-studies.net/kinhte/NQuangDy_NamMoiChuyenCu.html

10 nhân vật chính trị Việt Nam năm 2017 do Luật khoa Tạp chí bình chọn

10 nhân vật chính trị Việt Nam năm 2017

LUẬT KHOA TẠP CHÍ

Mười nhân vật, mười lát cắt khác nhau của một năm đầy biến động của chính trị Việt Nam.

Tham nhũng giống như hòn tuyết, một khi đã lăn thì nó cứ lớn mãi ra. (Corruption is like a ball of snow, once it’s set a rolling it must increase)

— Nhà văn Anh Charles Caleb Colton (1780 – 1832)

1. Đoàn Ngọc Hải

clip_image002

Ảnh: Infonet

Đầu năm cuối năm lại nói đến Trump

Đoàn Hưng Quốc

Nếu có một nhân vật làm câu chuyện đầu và cuối (Alpha and Omega) của 2017, 2018, 2019, 2020, 2021… thì phải là Trump. Cho dù ông có sẽ bị truất phế hay làm Tổng thống một hay hai nhiệm kỳ thì chắc chắn Trump sẽ không bị quên lãng, cộng theo câu hỏi nhức nhối rằng tại sao dân Mỹ bầu cho Trump?

Câu trả lời rất đơn giản và quen thuộc với mọi người Mỹ gốc Việt: giàu thì sướng, nghèo thì được nhà nước lo từ ăn ở, sức khỏe cho đến con cái đi học, chỉ có giới trung lưu là bị chặt thuế đẹp từ trong paycheck! Nên người trung lưu Hoa Kỳ đã phẫn nộ bỏ phiếu cho một ông tỷ phú thô lỗ và bịp bợm nhưng ít nhất trong thời gian tranh cử dám thọt ngón giữa (stick the finger, tức là chửi Đ.M.) vào mặt giai cấp quyền thế (the power elites) lẫn đám trí thức cấp tiến (the liberals) cùng truyền thông dòng chính (mainstream media)… cho đỡ tức.

Có người phản đối, cho rằng giới trung lưu ở Cali, New York không bỏ phiếu cho Trump. Nhưng nhiều người cho rằng Cali ngày nay không còn là Mỹ nữa khi hầu như chỉ có Việt Nam, Mễ, Đại Hàn, Tàu, Ấn Độ sống tại đó.

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn