Cách mạng tháng Tám tại Sài Gòn

Lê Nguyễn Duy Hậu

7-8-2025

Lời giới thiệu của tác giả

Kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám, mình mạo muội đăng một loạt bài tổng hợp của mình về sự kiện này tại Sài Gòn cách đây 80 năm. Ngày nay, ngày kỷ niệm Cách mạng tháng Tám đã được chọn là 19/08 hàng năm, trùng với ngày giành được chính quyền tại Hà Nội. 

Tuy vậy, mình thấy rằng quy một sự kiện kéo dài hơn một tuần lễ trên khắp cả nước vào đúng một ngày như vậy là một sự đơn giản hóa lịch sử. Ba trung tâm chính trị chính của Việt Nam thời bấy giờ là Hà Nội, Sài Gòn, Huế đều có những cách làm cách mạng rất khác nhau và diễn ra tại những thời điểm khác nhau, với những đặc thù khác nhau. Loạt bài này, vì vậy, chỉ mong muốn kể lại câu chuyện ở Sài Gòn cách đây 80 năm. Những sử liệu này không có gì mới, chắc hẳn bạn đã nghe đâu đó. Mình chỉ xin phép tổng hợp lại một chỗ cho mọi người dễ đọc.

Kỳ 1: Sài Gòn – từ Nam kỳ Khởi nghĩa đến hai xứ ủy

Ngày 02/09/1945, trong khi tại Hà Nội, chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, thì ở Sài Gòn, một sự việc kỳ lạ đã xảy ra. Lịch sử chính thống viết lại rằng Lâm ủy Hành chánh Nam bộ được thành lập sau khởi nghĩa tháng Tám tại Sài Gòn đã dựng nên một lễ đài cho người dân Sài Gòn tụ tập lắng nghe bản tuyên ngôn độc lập phát sóng từ Hà Nội. Tuy nhiên, lịch sử chính thống cũng kể rằng, do đường truyền radio gặp trục trặc, nên tiếng nói từ Hà Nội đã không được người dân Sài Gòn nghe thấy. Ứng biến với tình huống đó, chủ tịch Lâm ủy Hành chánh Nam bộ là ông Trần Văn Giàu, một người Marxist trẻ tuổi đã lãnh đạo thành công khởi nghĩa tháng Tám ở Sài Gòn, quyết định nhảy lên lễ đài có sẵn và đọc một bản văn thay thế cho bà con nghe. Bài diễn văn mà ông Giàu cho là mình ứng tác đó về cơ bản vẫn tôn vinh chánh phủ lâm thời đang hiện diện ở miền Bắc của chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng lồng vào đó là một lời kêu gọi người dân Nam bộ nói chung và Sài Gòn nói riêng sẵn sàng chiến đấu với thế lực thực dân Pháp đang sắp sửa quay lại Đông Dương. Nguyên văn bài diễn văn đó về sau được đăng lại trên một tờ báo ở Nam Bộ và vẫn còn được lưu giữ trong Bảo tàng Cách mạng TP.HCM.

A group of people standing on a float

AI-generated content may be incorrect.

Ông Trần Văn Giàu (X) đọc diễn văn vào ngày 2/9/1945 tại Sài Gòn. Nguồn: Internet

Đúng với dự đoán của ông Giàu, người Pháp quay lại sau đó không lâu, theo chân đoàn quân của người Anh vào giải giáp quân Nhật. Ba tuần sau lễ độc lập, Nam Bộ quyết định nổ súng kháng chiến sau một cuộc họp gay gắt mà ở đó, theo lời ông Giàu, đại diện tổng bộ Việt Minh từ miền Bắc vào là Hoàng Quốc Việt phản đối kịch liệt việc nổ súng kháng chiến. Ngày nay, sự kiện nổ súng vào 23/09/1945 được gọi là Nam Bộ Kháng Chiến. Ông Việt, và sau đó là chủ tịch Hồ Chí Minh, về sau cũng gửi những tuyên cáo và thư từ cổ vũ tinh thần chiến đấu của người dân Nam Bộ. Một tháng sau Nam Bộ Kháng Chiến, ông Giàu và hai đồng chí khác của ông là Dương Bạch Mai và Phạm Ngọc Thạch được lệnh điều ra Trung ương nhận công tác mới, để lại chiến cuộc Nam Bộ cho một bộ phận lãnh đạo khác vừa từ Côn Đảo về. Ông Giàu sau đó gần như không còn có dịp quay lại Sài Gòn cho đến khi thống nhất đất nước, và vai trò của ông trong lịch sử kháng chiến Việt Nam dần mờ nhạt đi. Cuối đời, ông được biết nhiều hơn với danh xưng Giáo sư Trần Văn Giàu, chứ không còn là nhà cách mạng Trần Văn Giàu, nhạc trưởng của khởi nghĩa tháng Tám tại Sài Gòn.

Câu chuyện của ông Giàu là một lát cắt nhỏ trong sự thú vị của cách mạng Nam kỳ trong năm 1945. Ngày nay, khi được dạy về Cách mạng tháng Tám, học sinh cả nước thường tập trung vào ngày 19/08/1945, được cho là khi các lực lượng Việt Minh giành được chính quyền ở Hà Nội (chính sử gọi là Tổng khởi nghĩa). Các cuộc khởi nghĩa khác ở Huế (23/08) và Sài Gòn (25/08) được hiểu như hưởng ứng thành công ở Hà Nội, và được Đảng Cộng Sản Đông Dương ở Pác Bó chỉ đạo thông qua Quốc dân Đại hội ở Tân Trào và Quân lệnh số 1. Trong bối cảnh đó, khởi nghĩa ở Sài Gòn diễn ra vào ngày 25/08 thường bị “chê” là tương đối chậm. Tuy nhiên, nếu đọc lại những hồi ức của các lão thành đã tham gia khởi nghĩa tại các địa phương, và những nghiên cứu về Cách mạng tháng Tám thì có thể thấy đây là một chuỗi những sự kiện diễn ra trên khắp cả nước, nhưng không nhất thiết có sự liên hệ chặt chẽ với nhau, và thậm chí không nhất thiết có tính hệ thống, thông suốt như thể được lãnh đạo bởi một cơ quan đầu não. Đặc biệt, cách mà ba địa phương Hà Nội – Huế – Sài Gòn khởi nghĩa cũng phản ánh ba phương pháp giành chính quyền khác nhau. Ở Hà Nội, đó là một cuộc cách mạng đường phố đúng nghĩa khi một buổi mít tinh do chính quyền Trần Trọng Kim tổ chức bị biến thành một cuộc biểu dương lực lượng của Việt Minh, dẫn đến giành chính quyền. Tại Huế, sự vận động Bảo Đại thoái vị của những cựu thần và những nhân vật uy tín trong triều đình Huế như Phan Khắc Hòe, Huỳnh Thúc Kháng, Tôn Quang Phiệt đã chuẩn bị sẵn sàng cho đại diện Việt Minh do Tố Hữu lãnh đạo vào tiếp nhận chính quyền. Cuộc khởi nghĩa ở Huế, vì vậy, mang màu sắc của một chính biến cung đình. Trong khi ở Sài Gòn, và chúng ta sẽ nghe câu chuyện này k hơn, đó là vận động của Thanh niên Tiền phong – lực lượng vũ trang trên thực tế của chính quyền Trần Trọng Kim – kết hợp với nổi dậy của quần chúng đã giúp Việt Minh giành chính quyền. Cuộc khởi nghĩa của Sài Gòn, vì vậy, gần với một cuộc đảo chính quân sự không đổ máu. Tất nhiên, đây là nhận định của bản thân mình dựa trên các quan sát, đánh giá đối với sử liệu, và vì vậy nó không thể tránh khỏi sự thiên kiến. Mong nhận được trao đổi của mọi người.

Nhân dịp k niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và ngày độc lập của Việt Nam, mình viết lại những nghiên cứu cá nhân của mình về mùa thu 1945 tại Sài Gòn, một mặt như để góp phần vào sự hiểu biết thêm về sự kiện quan trọng này, mặt khác cũng là để lưu giữ lại sự độc đáo của cách mạng Nam kỳ trong bối cảnh nhiều người đang cố gắng làm lu mờ tính đặc thù đó. Sử liệu mình sử dụng trong loạt bài này ngoài các văn bản sơ cấp, thì còn bao gồm lời kể của các nhân vật tham gia vào khởi nghĩa tháng Tám tại miền Nam được in lại trong bộ sách “Mùa thu rồi, Ngày hăm ba” (in năm 1995), nghiên cứu của GS David Marr trong cuốn Vietnam 1945: The Quest for Power, hồi ký của bà Nguyễn Thị Thập, của ông Nguyễn Văn Trấn, ông Hoàng Quốc Việt, nghiên cứu về chính quyền Trần Trọng Kim của Vũ Ngự Chiêu, Phạm Cao Dương và một vài xuất bản phẩm khác tại Việt Nam và quốc tế… Tất nhiên, các sử liệu này cũng đã “có tuổi” và mình thật sự hy vọng các sử liệu mới từ Lưu trữ Quốc gia Việt Nam và những quan sát từ phía người Nhật, người Mỹ, người Pháp, người Anh có mặt tại Sài Gòn vào thời điểm đó sẽ giúp câu chuyện trở nên sáng tỏ, phong phú hơn.

Tình hình cách mạng Nam Bộ năm 1945 – hậu quả của Nam kỳ Khởi nghĩa

Để hiểu về khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 ở Sài Gòn, nhất thiết phải quay lại với tình hình Nam Bộ từ sau Khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940). Việc đánh giá một sự kiện lịch sử một cách độc lập, riêng lẻ thật ra không khác gì làm capcut lịch sử và đưa lên tiktok. Với mình, đây là sự phỉ báng lịch sử và tinh thần khoa học khách quan. Một sự kiện không tồn tại riêng lẻ, mà là kết quả của một quá trình lịch sử, không thể là từ trên trời rơi xuống. Chính vì vậy, ngay cả việc cho rằng hiểu về khởi nghĩa tháng Tám cần bắt đầu bằng việc đánh giá tình hình từ sau Khởi nghĩa Nam kỳ 1940 cũng là một sự khinh suất mà mình đành phải chấp nhận để có thể bắt đầu câu chuyện ở đâu đó.

Khởi nghĩa tự thân nó hình thành là do những cá nhân lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nhìn nhận “thời cơ đã chín muồi”. Đối với các cuộc khởi nghĩa chống lại ngoại bang mạnh hơn mình, lòng dân thôi là chưa đủ, mà còn phải là sự suy yếu trên bình diện quốc tế. Tháng 11/1940 manh nha cho một sự suy yếu của Pháp, kẻ về danh nghĩa vẫn đang thống trị Đông Dương, khi nước này đã hoàn toàn thất bại trong cuộc Đệ Nhị thế chiến. Tuy nhiên, sự thất bại của người Pháp ở Tây Âu không có nghĩa là lính Pháp ở Đông Dương sẽ buông vũ khí khi có khởi nghĩa. Khởi nghĩa Nam kỳ tháng 11/1940 cho đến nay vẫn được nhìn nhận là một hành động anh hùng của Xứ ủy Nam kỳ, nhưng hoàn toàn nóng vội và gây ra hậu quả to lớn. Hậu quả này không chỉ là về người (khi toàn bộ ban lãnh đạo của Xứ ủy Nam kỳ, cùng với Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ đều bị bắt và hành quyết – cùng với Tổng bí thư tương lai Lê Duẩn cũng bị bắt trong giai đoạn này), mà còn tạo ra tâm lý nặng nề cho những nhà cách mạng Marxist miền Nam. Nó khiến cho những nhà cách mạng chuyên nghiệp như Dương Bạch Mai – người còn ngồi tù khi khởi nghĩa bùng nổ nhưng được dự kiến đưa lên làm Thủ tướng nếu thành công – phải tìm quên trong bài tứ sắc suốt 5 năm, Nguyễn Oanh phải đi đóng giày để che giấu thân phận… Bà Nguyễn Thị Thập kể về tình cảnh bi đát của Xứ ủy Nam kỳ sau khởi nghĩa thất bại bằng việc mô tả quá trình bà đi tìm, móc nối, và khó nhất là vận động lại các đồng chí cũ của bà tham gia hoạt động lại. Cố thủ tướng Võ Văn Kiệt mô tả 5 năm sau Khởi nghĩa Nam kỳ là 5 năm khó khăn muôn trùng cam go, khi ngay chính đơn vị ông sinh hoạt là Liên tỉnh ủy U Minh liên tục mất bí thư do có phản bội.

Trong bối cảnh đó, có thể nói là hiện diện của Đảng Cộng Sản Đông Dương tại Nam Bộ, mà đại diện là Xứ ủy Nam kỳ, gần như biến mất. Trong suốt 4 năm, không dưới 3 lần Pác Bó tìm cách bắt lại liên lạc với những người cách mạng trong miền Nam nhưng không được. Ông Dương Quang Đông kể việc nhiều liên lạc từ miền Bắc vào, vừa chỉ kịp trao cho một nhà cách mạng Nam kỳ nào đó bản sao của Nghị quyết Hội nghị Trung ương VIII về việc thành lập Việt Minh thì đã bị mật thám Pháp bắt. Hai anh em Nguyễn Hữu Ngoạn – Nguyễn Hữu Xuyến (người sau này là trung tướng quân đội, tư lệnh đầu tiên của Quân Giải phóng miền Nam), người hy sinh, người bị bắt khi cố gắng làm cầu nối cho miền Nam với miền Bắc.

Miền Nam vào thời điểm đó cũng xuất hiện các phong trào yêu nước, chống thực dân phi cộng sản phát triển cực k mạnh mẽ. Phong trào của các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo thu hút hàng triệu người, được vũ trang và tổ chức tốt. Nhóm các đảng phái quốc gia nhỏ, hay nhóm Trotskyists vốn được xem là bạn chiến đấu cũ của Nguyễn An Ninh – một chí sĩ rất có uy tín tại miền Nam – lựa chọn hướng đấu tranh theo kiểu nghị trường, màu sắc Gandhi, thay vì đối đầu vũ trang. Nạn đói năm 1945 cũng không quá ảnh hưởng đến Nam kỳ trù phú đất đai và ít bị máy bay Mỹ ném bom như ở miền Bắc. Hiện tình này khiến lòng người dân Nam kỳ có chi phối, chứ không nhất thiết xem khởi nghĩa vũ trang, phá kho thóc như một lựa chọn duy nhất. Khẩu hiểu “phá kho thóc cứu đói” của Việt Minh phía Bắc vì vậy không có nhiều tác động với người dân miền Nam.

Trong bối cảnh như vậy, những nhà cách mạng Cộng sản miền Nam thực sự đã phải có những sáng tạo nhất định trong quá trình khôi phục lực lượng, làm cách mạng của mình. Kết quả của quá trình này chính là sự đa dạng ngay trong chính nội bộ của nhóm Cộng sản miền Nam.

Hình thành hai xứ ủy

Nỗ lực phi thường của bà Nguyễn Thị Thập như có đề cập ở trên phần nào khôi phục được kết nối của những người Cộng sản tại các tỉnh miền Tây. Nhóm này bao gồm các lãnh đạo cấp địa phương của Khởi nghĩa Nam kỳ chạy trốn được sự truy quét, nay tập hợp lại để mưu sự với nhau. Tuy nhiên, như bà cũng thừa nhận là hoạt động của nhóm này khá yếu, và chịu đàn áp thường xuyên. Nhóm này về sau xuất bản một tờ báo gọi là “Giải phóng”, cho nên thường được gọi là “Xứ ủy Giải phóng”. Vào thời điểm tháng Tám năm 1945, nhóm này được cho là hoạt động chính ở Cần Thơ.

Bên cạnh Xứ ủy Giải phóng là một nhóm của những người Cộng sản đi du học ở Pháp hoặc Nga về, hoạt động trong cao trào của Phòng trào Dân chủ những năm cuối 1930. Nhóm này được thành lập vào năm 1943, sau khi ông Trần Văn Giàu, một cựu sinh viên của đại học Phương Đông Moskva và thường được ví là “giáo sư đỏ” của những nhà cách mạng thời ở Côn Lôn, cùng các đồng chí của mình vượt ngục Tà Lai về. Nhóm cộng sản này có xuất thân chủ yếu là những người trí thức giống ông Giàu, và hoạt động ở khu vực thành thị hơn của miền Nam (như Mỹ Tho, Sài Gòn). Lấy lý do là Xứ ủy Nam kỳ đã bị tan rã do đàn áp của Pháp, nhóm này thành lập một Xứ ủy mới, gọi là “Xứ ủy Tiền phong”, theo tên gọi của tờ báo do nhóm chủ biên.

Sự tồn tại song song của hai Xứ ủy trong cùng Đảng bộ miền là điều rất khó chấp nhận với một đảng cộng sản. Hai xứ ủy này không chỉ tồn tại bên cạnh nhau, mà còn có sự chia rẽ trong phương thức hành động, khẩu hiệu hành động. Ví dụ, sau khi Nhật đảo chính Pháp vào ngày 09/03/1945, Xứ ủy Tiền phong đã thay đổi khẩu hiệu cách mạng thành “Kháng Nhật, kiến quốc”. Điều này khiến Xứ ủy Giải phóng không đồng tình, thậm chí phê phán phe Tiền phong là “thân Pháp” vì dám bỏ khẩu hiệu chống Pháp. Sự xung đột này một phần có lẽ cũng xuất phát từ tính cách của hai bí thư Xứ ủy là Trần Văn Giàu (Tiền phong) và Dân Tôn Tử (Giải phóng). Bà Nguyễn Thị Thập có kể là hai nhân vật này vốn có hiềm khích do hay tranh luận thời còn ở Côn Đảo nên gần như tránh đụng mặt nhau. Một hiềm khích khác nằm ở vấn đề cách thức hành động. Trong một lần hiếm hoi mà lãnh đạo hai Xứ ủy gặp nhau, diễn ra vào mùa hè năm 1945 giữa bà Nguyễn Thị Thập và ông Trần Văn Giàu, hai bên thảo luận về việc thống nhất hành động trong tình hình sắp tới. Tuy nhiên, bà Thập phê phán ông Giàu khi chấp nhận sử dụng cờ vàng sao đỏ (cờ của Thanh niên Tiền phong – đây là một lực lượng thú vị, sẽ nói sau) làm cờ hiệu hoạt động chính, trong khi Trung ương đã thống nhất dùng cờ đỏ sao vàng. Theo bà Thập, ông Giàu thì cho rằng dùng cờ đỏ sao vàng thì dễ lộ bản chất Cộng sản, khi phe Đồng minh vào thì bất lợi. Bà Thập thì lý luận rằng miền Bắc dùng cờ đỏ sao vàng, miền Nam dùng cờ vàng sao đỏ thì còn gây bối rối hơn (một chi tiết thú vị ở đoạn này là sau này, khi miền Nam dùng cờ đỏ sao vàng thì họ lại dùng sao vàng “gầy”, trong khi miền Bắc dùng sao vàng “béo”). Cuối cùng, hai bên không thống nhất được và tiếp tục có hiềm khích với nhau. Đây là điều mà Trung ương Đảng về sau có nhìn nhận như một khách quan lịch sử, không bên nào đúng, bên nào sai cả. Các nhà nghiên cứu thì thường gọi hai phe này là “Việt Minh cũ” (Giải phóng) và “Việt Minh mới” (Tiền phong).

Vậy sự tồn tại của hai Xứ ủy có khuynh hướng đối địch nhau này được Pác Bó biết đến khi nào? 

Như đã đề cập ở trên, Pác Bó đã tìm rất nhiều cách để bắt nối lại liên lạc với những người cộng sản miền Nam, nhưng thất bại. Thành công nhất có lẽ là nỗ lực của Nguyễn Hữu Ngoạn, anh trai của ông Nguyễn Hữu Xuyến đã kể ở trên, khi ông Ngoạn vào và lãnh đạo Xứ ủy Giải phóng trong gần 2 năm. Thời gian này, liên lạc giữa Pác Bó và Xứ ủy Giải phóng là có, nhưng có lẽ cũng không nhiều điều để chỉ đạo do tình hình thế giới chưa rõ ràng. Ông Ngoạn cùng với một vài đồng chí, trong đó có Trần Văn Trà – tư lệnh tương lai của Quân Giải phóng miền Nam – lúc này với bí danh là Lê Văn Thắng, tổ chức in ấn báo Giải phóng. Tuy nhiên, ông Ngoạn bị bắt và hy sinh và từ năm 1944, liên lạc với Pác Bó lại mất hẳn.

Về sau, trong năm 1945, Pác Bó tiếp tục cử thêm vài sứ giả vào Nam để tìm cách móc nối liên lạc với miền Nam. Khi hai ông Hà Huy Giáp và Ung Văn Khiêm vượt ngục thành công về lại với Xứ ủy Tiền phong thì liên lạc với miền Bắc mới bắt đầu xuất hiện lại. Ở đây, vai trò của ông Hà Huy Giáp là rất lớn khi ông tham gia Xứ ủy Tiền phong từ sau 09/03/1945 (khi Nhật đảo chính Pháp) thì ông rất coi trọng việc phải bắt liên lạc lại với Pác Bó. Để làm được việc này, ông cử một thanh niên từng tốt nghiệp tú tài ở Hà Nội, biết nói tiếng Anh, là Lý Chính Thắng ra Bắc để bắt liên lạc. Về phần mình, Trung ương Đảng do Trường Chinh lãnh đạo cũng dự đoán là sau 09/03/1945, nếu còn Xứ ủy trong miền Nam, thì họ sẽ bắt liên lạc với miền Bắc. Vì vậy, Trường Chinh đã cử một nữ đồng chí với bí danh Cái Thị Tám (tức bà Nguyễn Thị Kỳ – phu nhân của đại tướng Văn Tiến Dũng) làm liên lạc viên. Nhưng sự mơ hồ về tình hình miền Nam của Pác Bó thể hiện rõ qua lời kể của bà Tám, đó là việc Trường Chinh dặn bà vào Nam thì liên hệ với cơ sở của Xứ ủy theo một địa chỉ có từ trước là một xưởng đóng giày tại đường Catinat (nay là Đồng Khởi). Bà Tám sau đó được Lý Chính Thắng dẫn vào Nam trong một hành trình kéo dài hơn tuần lễ với nhiều tình tiết ly kỳ như phim (có lúc hai người phải đi nhờ xe một sĩ quan Nhật có ý muốn lấy bà Tám làm lẻ – nhưng đây là một câu chuyện khác). Khi vào tới Sài Gòn, địa chỉ mà bà Tám được Trường Chinh giao cho hóa ra là không có thật, khiến bà không thể móc nối được với tổ chức mà ông Chinh muốn. Về sau, bà Tám nghe ông Ung Văn Khiêm kể lại thì thật ra không có xưởng giày cơ sở nào cả, mà người ông Chinh nhắc đến là Nguyễn Oanh, bí thư Gia Định, vốn làm nghề thợ giày cho một tiệm giày ở đường Georges Guynemer (nay là đường Hồ Tùng Mậu), là một nhánh của đường Catinat.

Tuy vậy, trong chuyến đi này, bà Tám cũng đã kịp giao “Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” cho hai ông Ung Văn Khiêm và Hà Huy Giáp. Từ đó về sau, một sợi dây liên lạc lỏng lẻo được hình thành giữa Pác Bó và Xứ ủy Tiền phong, thông qua vai trò của hai ông Khiêm và Giáp. Tuy nhiên, người lãnh đạo thực sự của Xứ ủy Tiền phong là ông Trần Văn Giàu thì có lẽ chưa bao giờ được gặp bà Tám. Về sau, bà Tám vào Sài Gòn hai lần nữa. Một lần để triệu tập đại diện của Xứ ủy Tiền phong ra Bắc họp Đại hội Tân Trào (hai ông Khiêm và Giáp đi). Một lần nữa là để cầm lệnh Tổng khởi nghĩa vào Sài Gòn (tuy nhiên, khi bà đến nơi thì Sài Gòn đã giành được chính quyền).

Đối với “Việt Minh cũ”, không biết bằng cách nào, vào đầu tháng 08/1945 Pác Bó cũng đã cử được người vào bắt liên lạc để Xứ ủy Giải phóng gửi người ra Bắc dự Đại hội Tân Trào. Đoàn của Giải phóng đi bằng xe hơi, có tổng cộng 6 người, bao gồm bà Nguyễn Thị Thập, hai phái viên Pác Bó gửi vào, và ba đại diện khác của Xứ ủy, trong đó có cả ông Lý Phú Xuân là đại diện của Hòa Hảo (đây là chi tiết rất thú vị vì một đại biểu tôn giáo lại đi trong đoàn của một xứ ủy cộng sản). Hành trình đi xe hơi từ Nam ra Bắc của đoàn bà Thập gặp không ít trắc trở vì Việt Nam thời điểm đó là một lãnh thổ bị chiếm đóng bởi quân đội Nhật đang bại trận và rối ren. Đoàn bà Thập chỉ đến được Hà Nội vào ngày 19/08, tức là sau khi Đại hội đã quyết định xong vấn đề Tổng khởi nghĩa và Hà Nội đã giành chính quyền. Như vậy, chuyến đi của đoàn bà Thập là gần như công cốc. Đoàn của Xứ ủy Tiền phong thật ra cũng không khá hơn là mấy khi ông Ung Văn Khiêm bị lạc đoàn ở Hà Nội, và tuy có dự được phiên cuối của Đại hội Tân Trào, những gì được thảo luận tại Tân Trào đã không đến được tai của các lãnh đạo khởi nghĩa trong Sài Gòn cho đến tận ngày 02/09/1945.

Đối với Pác Bó, thì chuyến công tác này của đại diện hai Xứ ủy lại có ý nghĩa trong việc siết lại kỷ luật đảng tại Nam Bộ. Trường Chinh đặt thẳng vấn đề sáp nhập hai Xứ ủy trong thời gian hai đoàn lưu lại Hà Nội, và cử một đại diện cao cấp của Tổng bộ Việt Minh là ông Hoàng Quốc Việt đi theo đoàn bà Thập vào lại Sài Gòn để làm đại diện miền Nam cho Hà Nội. Không biết rằng trong chuyến đi hết gần một tuần vào Nam đó, ông Việt và bà Thập có thảo luận gì không, nhưng chắc chắn sự chia rẽ giữa hai Xứ ủy là rõ nét trong mắt ông Việt sau sự vụ đoàn xe của ông bị Thanh niên Tiền phong chặn lại ở Biên Hòa (và chỉ được thả ra khi có người nhận ra bà Thập và nói rằng đây là phe mình). Ông Việt về sau sẽ đại diện Tổng bộ Việt Minh đề nghị giải tán Thanh niên Tiền phong và thống nhất hai Xứ ủy dưới sự lãnh đạo của ông Ung Văn Khiêm.

Như vậy, sự tồn tại của hai Xứ ủy trong suốt thời gian tiền khởi nghĩa đã cho thấy tính đa dạng của cách mạng miền Nam vào thời điểm này. Việc khó khăn trong bắt liên lạc giữa Pác Bó (và sau là Hà Nội) với Sài Gòn là khách quan, và cũng càng khẳng định tính độc lập và chủ động trong các quyết sách về sau của những nhà lãnh đạo khởi nghĩa ở Sài Gòn. Họ đã phải ra lệnh tổng khởi nghĩa trong bối cảnh chưa nhận được lệnh này từ Trung ương, và với nhiều lo sợ khác mà chúng ta sẽ nói trong các phần sau.

*

Kỳ 2: Thanh niên Tiền phong và Tiến tới tổng khởi nghĩa

Lực lượng Thanh niên Tiền phong

Lực lượng chủ đạo đi giành chính quyền tại Sài Gòn và nhiều địa phương ở Nam Bộ trong Cách mạng Tháng Tám chính là Thanh niên Tiền phong. Đây là một lực lượng đặc biệt, được xây dựng và tổ chức bởi bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, một cảm tình viên Cộng sản, và được huấn luyện, vũ trang bởi chính người Nhật.

Để hiểu về Thanh niên Tiền phong, cần hiểu bối cảnh của cuộc đảo chính ngày 09/03/1945 của Nhật đối với Pháp. Đông Dương từ sau năm 1940 đã trở thành một thuộc địa trên danh nghĩa của Pháp, nhưng trên thực tế của Nhật. Sự đầu hàng của Pháp trước Đức Quốc Xã khiến cho Nhật có thể dễ dàng đóng quân ở Đông Dương, và yêu cầu chính quyền Pháp ở đây tham gia vào việc phòng thủ chung chống lại phe Đồng Minh. Vì lẽ đó mà Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, Đà Nẵng trở thành mục tiêu ném bom của máy bay Mỹ trong suốt Thế chiến. Khi người Nhật thất bại liên tục trên biển vào năm 1945, bộ tư lệnh Nhật đã tin rằng một cuộc đổ bộ của Đồng Minh vào các lãnh thổ của Nhật là không thể tránh khỏi (đặc biệt là sau khi Philippines đã bị quân Đồng Minh chiếm lại). Chính vì vậy, người Nhật quyết định tăng cường sự thống trị của mình lên các lãnh thổ dễ bị đổ bộ, chẳng hạn như Đông Dương. Viện cớ người Pháp “không thành thật” trong việc thi hành hiệp ước phòng thủ chung Đông Dương, Nhật nổ súng trong một đêm, lật đổ Pháp tại Đông Dương. Diễn biến của cuộc đảo chính này được bác sĩ Ngô Văn Quỹ viết khá k trong cuốn sách “Đêm dài Nhật Pháp bắn nhau” do NXB Trẻ xuất bản năm 2001. Lúc này, nhận thấy một thời cơ cách mạng dần chín muồi (đó là Nhật đã lật được Pháp, mà Nhật vốn là một quốc gia phe Trục đang trên đà thất bại), Trung ương Đảng do Trường Chinh đứng đầu đã ra “Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” vào ngày 12/03/1945. Nội dung chủ yếu của chỉ thị này đó là thay đổi khẩu hiệu từ chống Nhật, Pháp sang tập trung chống Nhật, nhằm thể hiện bản chất chống phát xít của phong trào cách mạng Việt Nam, tranh thủ phe Đồng Minh. Chỉ thị cũng yêu cầu cả nước chuẩn bị Tổng khởi nghĩa trong tinh thần chủ động chớp thời cơ bằng một lực lượng được xây dựng dần dần thông qua phát động chiến tranh du kích, chiếm cứ điểm, phá kho thóc, v.v.

A group of men in uniform

AI-generated content may be incorrect.

Ghi chú của tác giả: Lực lượng Thanh niên Tiền phong – một trong những tổ chức nay được coi là tiền thân của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam. Nguồn: Internet

Đây là một chỉ thị quan trọng, tuy nhiên không hẳn là phù hợp cho bối cảnh cách mạng cả nước. Thực tế thì chỉ thị được hưởng ứng mạnh mẽ ở vùng nông thôn, đặc biệt là nông thôn phía Bắc sẽ chịu nạn đói hoành hành trong năm 1945 (một ngoại lệ là Quảng Ngãi, nơi du kích Ba Tơ chiếm được chính quyền khá sớm). Đường lối khởi nghĩa có phần Maoist (lấy nông thôn bao vây thành thị) này lại khó mà áp dụng ở các thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Huế. Về sau, diễn biến của Cách mạng sẽ cho thấy chỉ khi có sự kết hợp của khởi nghĩa thành thị và nông thôn thì Cách mạng tháng Tám mới thành công. Đối với Nam Bộ, có lẽ nhờ tiếp cận chỉ thị này từ sớm qua liên lạc của bà Tám và ông Giáp mà Xứ ủy Tiền phong đã có khẩu hiệu “kháng Nhật, kiến quốc” khá sát với chỉ đạo của Pác Bó (tuy họ sẽ bị phe Giải phóng phê phán là thân Pháp).

Điều thú vị là trong Hồi ký và những bài viết kể lại sự kiện tháng Tám 1945 ở Sài Gòn, ông Giàu không nhắc mấy đến chỉ thị này, mà chỉ nhắc nhiều đến tinh thần của Nghị quyết Trung ương VIII từ năm 1941 về thành lập Việt Minh. Đối với ông Giàu, Việt Minh như một tổ chức đủ lớn để cho ông nhiều lý lẽ hành động theo cách mà ông thấy phù hợp. Ông từ chối thành lập các đoàn quân du kích ở miền Nam để chiếm cứ điểm như chỉ thị tháng 03/1945 có yêu cầu. Ông cũng chưa một lần ra Bắc hay gặp liên lạc viên của Trung ương để nhận lệnh. Trái lại, lực lượng mà ông dựa vào để hành động lại là Thanh niên Tiền phong, và kim chỉ nam của ông ngoài Nghị quyết VIII thì còn là kinh nghiệm về giành chính quyền mà Lenin đúc kết trong Cách mạng tháng Mười Nga, và trong tác phẩm Bàn về Cách mạng viết về Cách mạng 1905.

Trở lại với nội tình Việt Nam sau đảo chính Pháp - Nhật, dưới danh nghĩa Đại Đông Á, Nhật mau chóng trao trả độc lập danh nghĩa cho vua Bảo Đại, hòng có điều kiện thành lập ở Việt Nam các lực lượng quân địa phương như cách họ làm ở Miến Điện hay Mãn Châu. Vua Bảo Đại sau đó chỉ định sử gia Trần Trọng Kim thành lập một chính quyền gọi là Đế Quốc Việt Nam. Đây là một chính quyền phôi thai vì cơ sở hoạt động của nó là một Đạo Dụ của Bảo Đại, còn bản hiến pháp thì được cho là sẽ do một hội nghị lập hiến thông qua nhưng cuối cùng đã không thành sự thật. Đặc biệt, chính quyền này có vẻ là một chính quyền liên Kỳ, nơi mỗi Kỳ đều có một đại diện của Bảo Đại đóng vai trò không khác gì các quan toàn quyền Pháp ngày xưa ở mỗi Kỳ (gọi là quan khâm sai). Tất nhiên, bên cạnh mỗi quan khâm sai ở mỗi Kỳ là một cố vấn Nhật Bản, người trên danh nghĩa sẽ “cố vấn” các quyết định quan trọng trong thời gian Việt Nam chưa có hiến pháp.

Ngoài ra, chính quyền này cũng là một chính quyền không có quân đội. Có lẽ người Nhật chưa mấy tin tưởng vào ông vua Tây học Bảo Đại nên không muốn tổ chức một đội quân có thể bắn lại họ khi Đồng Minh đổ bộ. Tuy nhiên, chính quyền Trần Trọng Kim lại thương lượng được với người Nhật thành lập một Bộ gọi là Bộ Thanh Niên, do luật sư Phan Anh lãnh đạo, cốt để rèn luyện thể thao, sức khỏe, kỹ năng cho thanh niên theo tinh thần của Hướng Đạo Sinh. Một lực lượng hàng triệu thanh niên vì vậy đã được huy động, và thực tế, họ không khác gì một đội quân sẵn sàng cầm súng chiến đấu (tất nhiên, đội thanh niên này chưa có súng trong tay). Ở miền Bắc và Trung, luật sư Phan Anh tổ chức được đội Thanh niên Tiền tuyến (hay còn gọi là Thanh niên Phan Anh, Thanh niên Hoàng Diệu). Còn ở miền Nam, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch được giao tổ chức Thanh niên Tiền phong, hoạt động như một tổ chức bán vũ trang, có nhiệm vụ bảo vệ xóm làng, địa phương. Thanh niên Tiền phong còn tham gia cứu hộ, cứu nạn trong các vụ oanh tạc của phe Đồng Minh ở miền Nam, và tham gia vận động của cải, lương thực ứng cứu cho miền Bắc trong nạn đói Ất Dậu. Theo thống kê, lực lượng này ở Sài Gòn là 20 vạn, và trên toàn cõi miền Nam là hơn 1 triệu. Quân số Nhật Bản ở toàn Đông Dương thời điểm này là vào khoảng 30 vạn quân. Nhạc hiệu của tổ chức là bài Lên Đàng của Lưu Hữu Phước. Cờ hiệu là cờ vàng sao đỏ. Đồng phục áo sơ mi trắng cc tay, quần đùi trắng, nón cối trắng. Sẽ không quá khi nói Thanh niên Tiền phong chính là lực lượng quân đội của chính quyền Trần Trọng Kim tại Sài Gòn.

Người Nhật ủng hộ và thực tế là có huấn luyện cho Thanh niên Tiền phong. Họ cũng cần một lực lượng dù là bán vũ trang sẵn sàng chiến đấu nếu quân Đồng Minh đổ bộ. Điều họ không ngờ rằng đa số các thành viên trong ban lãnh đạo Thanh niên Tiền phong thực tế là các cảm tình viên của Việt Minh. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch ngay sát ngày khởi nghĩa thậm chí còn treo cờ đỏ búa liềm tại tư gia như sự thách thức phía Nhật. Luật sư Thái Văn Lung về sau sẽ hy sinh khi tham gia kháng chiến chống Pháp. Kỹ sư Kha Vạng Cân, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, đặc biệt là ba sinh viên Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng, Lưu Hữu Phước thì đều đã móc nối với Việt Minh và cá nhân ông Trần Văn Giàu để sẵn sàng huy động lực lượng này đi chiếm chính quyền.

Nói một chút về bộ ba Huỳnh - Mai - Lưu này. Thời điểm khởi nghĩa tháng Tám, ba người đều có danh xưng là “sinh viên”, nhưng trên thực tế họ đã bỏ học từ năm 1943 theo vận động của một đại diện Việt Minh. Ông Huỳnh Văn Tiểng kể lại rằng vào năm 1943, khi còn theo học ở Viện đại học Đông Dương ở Hà Nội, ba ông và nhiều sinh viên khác có một cuộc họp với một đại diện của Tổng bộ Việt Minh (không rõ tên). Trong cuộc họp này, đại diện Việt Minh khuyên các sinh viên miền Nam nên… bỏ học để vào lại miền Nam chuẩn bị tranh đấu, và cần thiết phải lập một chính đảng cho giới trí thức gọi là Đảng Dân Chủ. Lời kêu gọi “bỏ học” đó được hưởng ứng và nhóm sinh viên miền Nam quyết định “xếp bút nghiên” về Nam tranh đấu. Họ sử dụng vỏ bọc hợp pháp như dạy học, nhạc sĩ để tuyên truyền lòng yêu nước. Các tác phẩm của bộ đôi Huỳnh Văn Tiểng và Lưu Hữu Phước trong thời gian này cũng đã trở thành quốc ca, quốc hiệu, nhạc lễ của cả hai chính thể Việt Nam sau này. Hoạt động của họ dưới danh nghĩa Đảng Dân Chủ đã lôi kéo được các trí thức khác như Huỳnh Tấn Phát, Phạm Ngọc Thạch tham gia (tương tự như miền Bắc, Đảng Dân Chủ huy động được Vũ Đình Hòe, Tôn Quang Phiệt, Đỗ Đức Dục, Vũ Trọng Khánh, Nghiêm Xuân Yêm…) và cũng không thoát khỏi con mắt của Trần Văn Giàu. Tất nhiên, sự nghi k ban đầu là có, vì theo ông Giàu, ông không rõ nhóm này hoạt động tôn chỉ gì, mục đích ra sao. Nhưng dần dần thì ông Giàu đã nhìn thấy được nhóm thanh niên này sẽ rất hữu ích cho cuộc cách mạng về sau.

Như vậy, bên cạnh quần chúng nhân dân, công nhân trong các công đoàn, thì lực lượng chủ lực để đi cướp chính quyền ở Sài Gòn lại chính là lực lượng Thanh niên Tiền phong, vốn được xây dựng để phục vụ chính quyền Trần Trọng Kim, nhưng đã trở thành một phần của Việt Minh.

Tiến tới tổng khởi nghĩa

Trong hồi ký của mình, ông Trần Văn Giàu thừa nhận bản thân đã nhận định sai tình hình khi tin rằng Nhật Bản sẽ thua trận, nhưng ít nhất cũng sẽ trụ được đến cuối năm 1945. Nhận định này không phải không có cơ sở vì tuy thua liên miên trên các đảo, bầu trời Nhật Bản bị khống chế, và hải quân Nhật Bản xem như không còn tồn tại, lục quân Nhật Bản còn rất đông và nội địa Nhật Bản vẫn chưa bị xâm phạm. Cần nhớ rằng Đồng Minh chỉ đánh gục được Đức Quốc Xã và Phát xít Ý khi tiến hành các cuộc đổ bộ đẫm máu ở phía Tây, và tiến quân khủng khiếp ở phía Đông. Ngay cả Tổng tham mưu trưởng Đại tướng George Marshall của Mỹ cũng nhận định, một cuộc đổ bộ để đánh gục quân Nhật ở Thái Bình Dương sẽ tiêu tốn của Mỹ ít nhất 500.000 quân nhân.

Điều mà ông Giàu và nhiều người không ngờ tới đó là hai quả bom nguyên tử ném vào Hiroshima và Nagasaki trong những ngày đầu tháng 08/1945. Liên Xô tức tốc tuyên chiến và tấn công Đạo quân Quan Đông của Nhật trên toàn cõi Mãn Châu, đẩy nhanh sự gục ngã của ý chí chiến đấu của Nhật Bản. Với sự trung thành cuối cùng dành cho Nhật Hoàng, phe quân phiệt Nhật phất cờ trắng đầu hàng vì lo ngại chính bản thân Tokyo sẽ bị ném bom. Nhật Bản thất bại chỉ sau hai quả bom tạo nên cú sốc to lớn cho toàn bộ quân đội Nhật ở khắp nơi tại Đông Á. Tin tức Nhật đầu hàng cũng là một đòi hỏi cho các nhà cách mạng ở Việt Nam phải hành động. Câu hỏi bây giờ đó là ai đủ dũng cảm để chớp thời cơ, giành chính quyền. Ở đây, mình trộm nghĩ rằng Việt Nam đã có phần may mắn khi tuy Cách mạng diễn ra không thống nhất trên cả nước, nhưng nhìn chung vẫn đã quy về một mối là Việt Minh giành chính quyền. Mình không hình dung được điều gì sẽ xảy ra nếu ở mỗi Kỳ, các lực lượng chính trị khác nhau giành được chính quyền.

Quay trở lại, chúng ta đều biết rằng Nam Bộ lúc này gần như không kịp có tin tức về những mệnh lệnh khởi nghĩa hay quân lệnh từ Pác Bó. Vì vậy, họ phải hành động độc lập. Đối với người Cộng sản, họ có hai lựa chọn. Lựa chọn 1 phù hợp với tinh thần, kỷ luật đảng, đó là chờ lệnh từ Trung ương và hành động. Làm như vậy có thể mất thời cơ, nhưng đảm bảo có sự thông suốt từ Bắc vào Nam. Lựa chọn 2 là căn cứ tình hình thực tế và triển khai khởi nghĩa. Tất nhiên, những người theo lựa chọn này phải đối mặt với rủi ro rằng họ hành động một mình, và một Khởi nghĩa Nam kỳ khác sẽ lại lặp lại.

Theo hồi ký của bà Nguyễn Thị Thập thì có thể thấy rằng Xứ ủy Giải phóng đã chọn làm theo Lựa chọn 1 bằng việc cử ra tới 4 đại biểu dự Đại hội Tân Trào. Xứ ủy Tiền phong một mặt vẫn cử người ra dự Đại hội Tân Trào, mặt khác với tính cách sôi nổi của Trần Văn Giàu, đã quyết định chuẩn bị Tổng khởi nghĩa. Một ủy ban khởi nghĩa năm người do Trần Văn Giàu lập ra để chỉ đạo cuộc khởi nghĩa. Ông Giàu lý luận rằng khởi nghĩa ở Nam kỳ chỉ thành công nếu nó nổ ra đầu tiên và thành công ở Sài Gòn. Quan điểm cách mạng từ thành phố lớn rồi lan rộng ra nông thôn phù hợp hoàn toàn với những gì ông được dạy ở đại học Phương Đông Moskva, vì đó chính là cách mà Lenin đã chỉ đạo cuộc Cách mạng tháng Mười 1917.

Tuy nhiên, các thành viên khác trong Ủy ban khởi nghĩa (bao gồm cả các đại diện của Thanh niên Tiền phong) không muốn khởi nghĩa mà không có sự đồng ý của Xứ ủy Tiền phong. Vì vậy, một cuộc họp mở rộng của Xứ ủy Tiền phong đã diễn ra tại Chợ Đệm, Hóc Môn vào đêm 16, rạng sáng ngày 17/08/1945. Lịch sử chính thống gọi là Hội nghị Chợ Đệm.

Sử liệu về Hội nghị Chợ Đệm, tiếc thay, lại quá hiếm hoi. Đa số những gì diễn ra tại Hội nghị đều do ông Trần Văn Giàu và một phần nào đó là ông Chín Trọng, bí thư Đảng bộ Tân An, kể lại. Vì vậy, ở phần này, mình lưu ý rằng diễn biến của Hội nghị Chợ Đệm là thông qua lời kể của ông Giàu được in trong Hồi ký của ông, và trong bộ sách “Mùa thu rồi, Ngày hăm ba” in năm 1995 (do ông Giàu chủ biên, có sự tham gia của ông Võ Văn Kiệt, Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Văn Hưởng, Mai Chí Thọ, Trần Bạch Đằng, Trần Văn Trà, và một nhân vật viết lại lời kể của nhân chứng có tên là Tô Lâm – nhưng không biết chính xác đây là ai).

*

Kỳ 3: Ba lần hội nghị Chợ Đệm và cuộc khởi nghĩa “thí điểm” tại Tân An

Hai lần Hội nghị Chợ Đệm – tranh cãi nảy lửa

Theo ông Giàu, hội nghị sở dĩ được coi là mở rộng vì ngoài các nhân vật trong thường vụ Xứ ủy, ông Giàu chủ động mời thêm ba nhà cách mạng k cựu là Nguyễn Văn Nguyễn, Bùi Công Trừng, và Nguyễn Văn Tạo. Ông Giàu chủ động mời ba người này có lẽ vì mối thân tình, ngưỡng mộ của ông cho hai đảng viên cộng sản Pháp (Tạo, Trừng) và một nhà lý luận đàn anh (Nguyễn). Ông Giàu cũng tin rằng ý kiến của ba đảng viên này chắc sẽ làm quyết định tổng khởi nghĩa thêm sức nặng về mặt lý luận. Nói về lý luận, bản thân những gì ông Giàu trình bày trong Hội nghị Chợ Đệm cũng cho thấy ông không có quá nhiều mối liên hệ với Pác Bó, khi cơ sở ông đưa ra cho tổng khởi nghĩa lại là… Luận cương chính trị năm 1930 của Trần Phú, và Nghị quyết Hội nghị Trung ương VI từ năm 1939. Tuyệt nhiên, ông không nhắc gì đến Chỉ thị Nhật -Pháp bắn nhau vào tháng 03/1945 chứ nói gì đến lệnh tổng khởi nghĩa mà Tân Trào đã ban bố và vẫn đang trên đường vào Nam.

Nhưng cũng như chính ông sẽ thừa nhận, Trần Văn Giàu đã sai trong đánh giá tình hình. Hóa ra ba đảng viên khách mời này lại là ba người phản đối kế hoạch tổng khởi nghĩa ở Sài Gòn nhất. Ông Nguyễn Văn Nguyễn và Bùi Công Trừng gay gắt cho rằng quyết định tổng khởi nghĩa lúc này sẽ là liều lĩnh và không cần thiết. Hai ông lý luận rằng trong tình hình hiện nay, chẳng cần đến khởi nghĩa mà hoàn toàn có thể đi một bước đi chính trị, ôn hòa (như ở Huế?) thì cũng có thể lấy được chính quyền. Khởi nghĩa lúc này là phiêu lưu vì: (1) chưa chắc thành công nếu so tương quan lực lượng; và (2) ngay cả nếu thành công, thì khi Pháp quay lại Đông Dương theo chân Đồng Minh, chính quyền cách mạng đó cũng sẽ bị đàn áp dẫn đến thất bại. Ông Trừng và ông Nguyễn lấy ví dụ của cách mạng Công Xã Paris, khi chính Marx cũng khuyên nhân dân Paris đừng làm cách mạng. Giành chính quyền thật ra rất dễ. Giữ được chính quyền là một chuyện khó khăn hơn rất nhiều. Trong tay của Xứ ủy Tiền phong tuy có 1 triệu thanh niên và hàng triệu đồng bào, nhưng súng đạn gần như không có gì cả. Một chính quyền cách mạng như vậy sẽ rất dễ bị đàn áp, đặc biệt là xét tới đặc thù miền Nam là một địa phương thuộc địa Pháp, nơi chính người dân cũng có thành phần có cảm tình với mẫu quốc.

Lập luận của hai ông Trừng và ông Nguyễn thật ra đánh vào nỗi sợ của những người Cộng sản, nhất là Cộng sản miền Nam từ sau Khởi nghĩa Nam kỳ. Ám ảnh của năm năm khủng bố trắng vẫn còn y nguyên, khiến nhiều người tham dự Hội nghị Chợ Đệm dao động. Chính bản thân ông Giàu cũng phải thừa nhận trong hồi ký của mình là ông cũng tán thành với một phần nỗi lo của hai vị cách mạng tiền bối, đặc biệt khi ông nhìn nhận lại chưa một cuộc cách mạng vô sản nào sau Cách mạng tháng Mười Nga mà thành công cả, kể cả ở những nơi có phong trào công nhân mạnh như Đức, hay công - nông đông đảo như Java. Tuy nhiên, ông Giàu vẫn phản biện rằng việc trông chờ vào sự nhân từ của người Pháp như ông Nguyễn đề xuất (mà ở đây là chính phủ thiên tả mới lên của Pháp) là hão huyền, nhất là sau bài học của cao trào dân chủ 1936 - 1939 đã khiến chính ba ông lão thành vào tù. Ông Giàu cũng dẫn lời của Stalin rằng cách mạng vô sản chỉ có thể tự mình thành công mà không cần võ trang khi quốc gia đó đã bị các nước cộng sản khác bao vây. Chính vì vậy, ông Giàu cho rằng nếu cứ sợ như hai ông Trừng, Nguyễn phân tích thì sẽ không bao giờ làm gì được. Ông tin rằng khí thế cách mạng hôm nay đã khác năm 1940, và nếu bị đàn áp, nhân dân Nam Bộ sẽ trường kỳ kháng chiến cho đến thắng lợi. Nói cách khác, nước Pháp hôm nay đã què quặt. Không vùng lên khi có khoảng trống quyền lực thì không bao giờ nữa. Hai bên tranh cãi mãi không có kết quả, nên Hội nghị Chợ Đệm lần một tạm kết thúc với kết luận rằng miền Nam sẽ nghe ngóng thông tin của cả nước xem họ có làm cách mạng không, và sau đó sẽ quyết định ngày giờ khởi nghĩa.

Những ngày sau đó, Sài Gòn sống trong một không khí rạo rực của những ngày chuẩn bị khởi nghĩa. Việt Minh dần ra mắt như một lực lượng sẵn sàng giành chính quyền. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch công khai treo cờ đỏ búa liềm tại tư gia. Quân đội Nhật thì gần như không có chí khí đấu tranh. Lớp thì hara-kiri, lớp thì say xỉn, lớp bán súng kiếm tiền về lại quê. Trong bối cảnh đó, có ba sự kiện diễn ra đầy thú vị. Thứ nhất, ông Giàu cùng với bác sĩ Phạm Ngọc Thạch bỗng nhận được thư của Bảo Đại mời ra Huế đã bàn chuyện lập chính phủ mới. Tất nhiên hai ông chọn bỏ qua lá thư đó. Thứ hai, ông Giàu trong một hành động không khác gì Lenin ngày tiền khởi nghĩa đã xuất hiện trước đám đông dân chúng Sài Gòn trong buổi tưởng niệm Nguyễn An Ninh để kêu gọi mọi người chuẩn bị cho ngày nổi dậy. Cuối cùng, và có lẽ quan trọng hơn hết, là cuộc gặp gỡ giữa chỉ huy quân Nhật ở Đông Dương là nguyên soái Teruchi và bác sĩ Phạm Ngọc Thạch với tư cách thủ lãnh Thanh niên Tiền phong. Nguyên soái Terauchi là anh hùng của quân đội Nhật, hãnh tiến trong cuộc chinh phạt Trung Quốc và chỉ đạo trực tiếp đội quân Quan Nam xâm chiếm Malaya và Singapore. Vậy mà trong cuộc gặp với Phạm Ngọc Thạch, Terauchi gần như khóc khi thừa nhận tình cảnh bi đát của 30 vạn quân Nhật ở Đông Dương. Terauchi cam kết, hay ít nhất đó là những gì Phạm Ngọc Thạch kể, rằng quân Nhật sẽ không can thiệp vào nội tình Việt Nam, ngụ ý họ sẽ không nổ súng nếu có cách mạng, miễn là quân đội Nhật được đảm bảo an toàn và được cung cấp lương thực đầy đủ. Những lời cam kết như vậy cũng xuất hiện khắp nơi, từ Bắc chí Nam, khi các nhà lãnh đạo cách mạng khác của Việt Nam cùng chia sẻ một lo ngại là quân Nhật sẽ can thiệp vào cuộc khởi nghĩa. Để làm tin, Terauchi rút khẩu súng bạc của mình và trao cho Phạm Ngọc Thạch.

A group of people holding signs

AI-generated content may be incorrect.

Thanh niên Tiền phong biểu dương lực lượng vào ngày 21/08/1945 tại Sài Gòn. Nguồn: Internet

Chính từ những diễn biến đó mà trong Hội nghị Chợ Đệm lần thứ hai diễn ra vào ngày 21/08/1945, Trần Văn Giàu đã có mời thêm Phạm Ngọc Thạch. Lúc này, tin Hà Nội khởi nghĩa thành công đã đến Sài Gòn và ông Giàu chắc bụng là khởi nghĩa sẽ được diễn ra. Tuy vậy, hai ông Trừng, ông Nguyễn vẫn giữ quan điểm về sự vội vã của cách mạng, và đặc biệt lần này, Nguyễn Văn Tạo tham gia phe phản đối. Vào cuối Hội nghị Chợ Đệm lần thứ nhất, ông Nguyễn Văn Tạo có ghé vào tai của một đại biểu phe ông Giàu là Nguyễn Văn Trấn và nói là “coi chừng Nhật chém ngang bụng thì đau lắm à nghe”. Khác với ông Trừng và ông Nguyễn, ông Tạo lo rằng cách mạng sẽ không diễn ra thành công vì bản chất quân phiệt của Nhật chắc chắn sẽ đàn áp cách mạng, đặc biệt là khi phe Đồng Minh đang ở cửa ngõ. Ông Tạo tranh luận rằng vai trò của Nam kỳ hoàn toàn khác miền Bắc và Trung, nên quân Nhật ở hai Kỳ đó có thể không nổ súng, nhưng quân Nhật ở Nam kỳ thì có thể. Ông tỏ ý không tin câu chuyện của Terauchi mà Phạm Ngọc Thạch kể, hoặc giả Terauchi có nói thế thật thì không lấy gì chắc chắn là quân Nhật ở địa phương sẽ tuân lệnh cấp trên.

Lúc này, hai phe đánh và hòa mâu thuẫn gay gắt rõ rệt. Để phá băng, ông Trần Văn Giàu đưa ra một sáng kiến, đó là thay vì khởi nghĩa trên toàn Kỳ, Xứ ủy sẽ “thí điểm” ở một địa phương trước và mọi người đồng ý giao cho Đảng bộ Tân An (Long An) làm khởi nghĩa thí điểm vào ngày 23/08. Ông Giàu chọn Tân An vì hai lý do. Thứ nhất, ở đây có cây cầu huyết mạch nối Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ nên nếu Nhật can thiệp, chắc chắn sẽ chọn can thiệp tại Tân An. Thứ hai, đây là quê hương của ông. Hội nghị sau đó giải tán để các lãnh đạo Đảng bộ Tân An về Long An chuẩn bị khởi nghĩa.

Khởi nghĩa Tân An và Hội nghị Chợ Đệm lần thứ ba

Ông Chín Trọng, một lãnh đạo của Đảng bộ Tân An, kể lại khá chi tiết cuộc khởi nghĩa này trong một bài báo năm 1991. Theo đó, ông và một đồng chí của mình rời khỏi Hội nghị Chợ Đệm vào đêm 21/08 để đi về Tân An bằng xe đạp, đem theo chỉ thị đỏ của Xứ ủy Tiền phong. Thực tế thì Đảng bộ Tân An cũng như các đảng bộ khác tại Nam kỳ đã chuẩn bị khởi nghĩa từ lâu và chỉ chờ mệnh lệnh của Xứ ủy. Vì vậy, khi ông Trọng về đến Tân An thì mọi thứ đã sẵn sàng cho một cuộc tổng khởi nghĩa dự kiến nổ ra vào chiều 22/08.

Tuy nhiên, đến trưa 22/08 thì một tình huống bất ngờ xảy ra, đó là có người phao tin rằng tại Vĩnh Long (tỉnh kế Long An), “người Thổ” (ý chỉ người Khmer) đã nổi dậy cướp chính quyền. Ông Trọng nhận định đây có thể là kế điệu binh lính bảo an ra khỏi Tân An để phe Hòa Hảo hay Cao Đài hay quốc gia gì đó có thể vào chiếm Tân An. Lúc này, ông Trọng không còn cách nào khác là bật đèn xanh cho khởi nghĩa sớm, bắt đầu từ việc thuyết phục nhóm binh lính bảo an Tân An đang xếp hàng để xuống Vĩnh Long “trở cờ”. Viên đội người Việt lãnh đạo nhóm binh lính bảo an sau một vài phút suy nghĩ quyết định buông vũ khí, không can thiệp vào cuộc cách mạng diễn ra ở Tân An. Đảng bộ Tân An nhanh chóng giành chính quyền trong chiều hôm đó, trước khi một đoàn xe chở thanh niên có lẽ là Hòa Hảo tràn vào thị xã. Đoàn xe này nhận thấy họ đã “trễ tàu” nên đành rút lui ra ngoài. Đến tối, một toán quân Nhật đến gặp đại diện cách mạng Tân An và yêu cầu quân cách mạng hạ vũ khí. Nhưng khi quân cách mạng không đồng ý thì tốp lính Nhật này cũng rút quân. Điều này càng khẳng định chắc chắn rằng không có lệnh can thiệp của người Nhật trong cuộc khởi nghĩa này.

Đến sáng hôm sau, ông Trọng và một đồng chí khác của mình quay lại chợ Đệm, lần này không phải bằng xe đạp mà là bằng xe hơi treo cờ đỏ sao vàng. Như vậy là đã rõ. Quân Nhật sẽ không can thiệp. Hội nghị Chợ Đệm lần ba nhóm họp và mau chóng quyết định sẽ khởi nghĩa vào ngày 25/08, tức là mọi người có một ngày 24/08 để chuẩn bị.

*

Kỳ 4Đêm trước khởi nghĩa, chính quyền thuộc về tay nhân dân, và vì sao mình viết

Tổng khởi nghĩa ở Sài Gòn – tất cả chính quyền về tay Việt Minh

Trần Văn Giàu mau chóng đạp xe về Sài Gòn để báo tin khởi nghĩa cho Ủy ban khởi nghĩa do Huỳnh Văn Tiểng túc trực. Tất cả mừng rỡ lao vào chuẩn bị cho khởi nghĩa ở Sài Gòn. Ông Giàu thì lại khác. Sau nhiều ngày tất bật, ông giành ngày 24/08, đêm trước khởi nghĩa, để ở lại căn nhà số 6 Colombert (nay là Thái Văn Lung), nơi ông Giàu gọi là “Smolny nhỏ”, nhại lại trụ sở cung điện mà Lenin đã ở để chuẩn bị cho Cách mạng tháng Mười Nga. Trong đêm 24/08, ông Giàu giành thời gian đọc lại tác phẩm Bàn về khởi nghĩa vũ trang của Lenin như một lời nhắc nhở cuộc khởi nghĩa sắp tới bắt buộc phải triệt để. Là một người Stalinist chân chính, ông Giàu có lẽ đã chọn nhớ những chi tiết khiến cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn mang dáng dấp và công thức của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga, từ trụ sở Smolny nhỏ, đến sự tranh cãi quyết liệt của phe chủ hòa như cách mà Zinoviev và Kamenev can thiệp để Lenin không nổ súng năm 1917. Một lần nữa, sử liệu về Hội nghị Chợ Đệm quá ít, khiến chúng ta không tài nào có thể khẳng định lời ông Giàu nói là sự thật 100%.

A group of people standing outside a building

AI-generated content may be incorrect.

Rạp Nguyễn Văn Hảo nơi Mặt trận Việt Minh ra mắt công khai ngày 20-8-1945. Nguồn: Internet

Trong lúc ông Giàu đọc Lenin tại Smolny nhỏ, thì cách đó không xa, một lực lượng Thanh niên Tiền phong do Ung Ngọc Ký dẫn đầu đã đeo gươm đi vào Phủ khâm sai Nam kỳ tại nơi mà nay là Bảo tàng Cách mạng TP.HCM trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Không có một chống cự nào diễn ra tại Phủ khâm sai. Ông Ky mau chóng khống chế được Khâm sai Nguyễn Văn Sâm và Phó Khâm sai Hồ Văn Ngà và cho hạ cờ quẻ ly của chính quyền Trần Trọng Kim để thay bằng cờ đỏ sao vàng của Việt Minh. Đến sáng hôm sau, khi các công chức Phủ khâm sai đến làm việc, họ nhận ra nơi này đã đổi chủ. Ở ngoài đường, hàng hàng lớp lớp Thanh niên Tiền phong đi rầm rập vận động đồng bào xuống đường biểu tình giành chính quyền. Các công sở lần lượt rơi vào tay Việt Minh. Duy nhất chỉ có Ngân hàng Đông Dương thì quân Nhật kiên quyết không bỏ và ông Trần Văn Giàu cũng không dám cho nổ súng vì sợ sự can thiệp của người Nhật. Về sau, ông Giàu sẽ bị phê bình vì thiếu kiên quyết trong việc không chiếm Ngân hàng Đông Dương (nhưng hình như khởi nghĩa ở Hà Nội cũng không chiếm được Ngân hàng Đông Dương?). Đến trưa ngày 25/08, về cơ bản, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền mà nòng cốt là Thanh niên Tiền phong đã thắng lợi hoàn toàn. Trần Văn Giàu đại diện cho Lâm ủy Hành chánh Nam Bộ ra mắt quốc dân đồng bào trên một lễ đài do kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát phụ trách thi công. Tại đây, ông tuyên bố Chế độ cộng hòa dân chủ thành lập tại Nam Bộ Việt Nam, và thay mặt Việt Minh lãnh trách nhiệm giữ chánh quyền ở Nam Bộ cho đến ngày triệu tập xong Quốc hội sẽ giao lại cho đại biểu toàn quốc. Ông kết thúc bài diễn văn bằng lời hô gọi “Việt Nam dân chủ cộng hòa muôn năm”. Cách mạng tháng Tám, vì vậy, đã thành công rực rỡ ở Sài Gòn. Khí thế cách mạng sôi nổi cùng lúc diễn ra trên khắp cõi miền Nam. Nhưng có lẽ cũng chính những lời tuyên bố nhận lãnh chánh quyền đó của ông Trần Văn Giàu đã khiến nhiều người không đồng tình, và dẫn đến sự mâu thuẫn gay gắt giữa ông Giàu, Phạm Ngọc Thạch và đại diện Việt Minh là Hoàng Quốc Việt khi ông này vào đến Sài Gòn vào cuối tháng 08/1945, đem theo mệnh lệnh tổng khởi nghĩa lúc này đã không còn giá trị nữa. Nhưng đó sẽ là một câu chuyện khác xin hẹn kể một dịp sau.

Vì sao mình viết loạt bài này?

Loạt bài này mình viết không mong chờ nhiều lắm những người đọc, vì mình hiểu là nó vừa dài, vừa thiếu những chi tiết lịch sử mang tính lay động. Nhưng viết sử lay động không nhất thiết phải là công việc của những người thích lịch sử.

Câu chuyện mình kể trên đây không phải là mới. Đã có nhiều người, nhiều nguồn kể lại trong suốt 80 năm qua. Nhưng mình chọn đăng lại vào dịp kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám này như một cách để tôn vinh sự đa dạng, đặc thù của cách mạng miền Nam và đặc biệt là ở Sài Gòn, nơi mình sinh ra, lớn lên, và yêu quý. Đối với mình, Sài Gòn không đặc biệt đến mức nổi trội. Sài Gòn với mình chỉ là có những nét đặc thù, độc đáo cần phải được thừa nhận. Mình không tin vào việc có một công thức phù hợp cho tất cả mọi nơi như cái cách mà người ta vẫn đang cố gắng chứng minh rằng Cách mạng tháng Tám là một sự ấn nút từ Pác Bó và cả nước nhất tề làm theo. Sự xuyên tạc này phủ nhận thực tế khách quan, khó khăn cả về tinh thần, tâm lý, lẫn cơ sở hạ tng của Việt Nam vào năm 1945. Nó còn xem nhẹ sự dũng cảm trong các quyết định tuy mất nhiều thời gian nhưng cực kỳ yêu nước của những người tham gia Hội nghị Chợ Đệm năm ấy. Hậu thế như chúng ta rất dễ phán xét một hành động nào đó của tiền nhân, đơn giản vì chúng ta biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Hơn nữa, chúng ta theo dõi lịch sử bằng cặp mắt của một khán giả xem phim hành động chứ không có da thịt gì trong cuộc chơi. Những người như Nguyễn Văn Nguyễn, Bùi Công Trừng, Nguyễn Văn Tạo không phải là kẻ hèn nhát khi họ phản đối khởi nghĩa. Tuyệt đối không! Nếu hèn nhát, họ đã có thể từ chối lời mời đến dự Hội nghị. Những người này đơn giản chỉ e ngại các bài học của Nam kỳ Khởi nghĩa, của Công xã Paris, của cách mạng Đức sẽ lặp lại trên đất Việt Nam và kéo lùi cao trào cách mạng của cả dân tộc. Đó không phải là sự hèn nhát, mà trái lại còn là sự dũng cảm lên tiếng. Khi Hội nghị quyết định ấn nút khởi nghĩa, cũng chính họ hăng hái lao vào cuộc tranh đấu mà không màng đến hiểm nguy có thể rình rập. Nguyễn Văn Tạo và Nguyễn Văn Nguyễn trở thành ủy viên Lâm ủy Hành chánh do Trần Văn Giàu làm chủ tịch. Bùi Công Trừng tham gia phái đoàn Việt Nam dự hội nghị Đà Lạt một năm sau đó, và sau này đóng vai trò quản lý kinh tế quan trọng trong chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó chính là khí chất của một người yêu nước mà mình ngưỡng mộ. Mình kể câu chuyện này cũng là để chúng ta biết thêm về tiền nhân, như một cách tri ân họ nhân kỷ niệm 80 năm độc lập.

Một người nhận là nhà báo ở Hà Nội từng có nhận xét đó là sau Khởi nghĩa Nam kỳ, miền Nam nói chung không có một phong trào kháng Pháp nào ra hồn cả cho đến Cách mạng tháng Tám. Mình nhìn nhận đây là một nhận xét khinh suất. Thứ nhất, nếu phong trào cách mạng chỉ là tính những gì mà Việt Minh làm, thì không chỉ Nam Bộ mà cả toàn quốc, từ 1940 đến 1945 nhìn chung không có một sự kiện nào gây tiếng vang cả. Năm năm đó là năm năm kiên nhẫn chờ đợi thời cơ của không chỉ Việt Minh mà là của cả nước. Đó cũng là năm năm của sự hoang mang trước những biến động của tình hình thế giới. Thứ hai, làm cách mạng không phải chỉ cầm súng và bắn nhau, mà còn là những cuộc cách mạng trong tư tưởng, tinh thần. Phải rất dũng cảm thì bộ ba Huỳnh – Mai – Lưu mới đồng ý bỏ học về Nam chờ thời cơ. Điều này cao đẹp hơn nhiều so với việc ngồi bàn phím phán xét như hiện nay. Phải rất khí tiết thì Nguyễn An Ninh mới khẳng khái từ chối lời mời cộng tác với người Nhật, và phải yêu nước yêu chồng lắm thì bà Trương Thị Sáu vợ ông Ninh mới ủng hộ vô điều kiện cho con đường của chồng. Hành động đó cách mạng hơn rất nhiều các lời kêu gọi yêu nước mỗi dịp. Mình thật sự không thích khi một người Hà Nội nói về lịch sử Nam kỳ (vì lý do hiển nhiên), nhưng càng không thích khi đó là một hậu bối lại đi nhận xét về tiền bối của mình. Mình tin anh phóng viên có lẽ không ác ý, mà đơn giản là thiếu hiểu biết và cho rằng mọi thứ chỉ có thể xuất phát từ một trung tâm (đây là hiện tượng trong sử chí mà tiến sĩ Nguyễn Quốc Vinh gọi là “bắc tâm luận” hoặc “nam tâm luận”. Mình hy vọng câu chuyện nhỏ về Sài Gòn trong Cách mạng tháng Tám giúp chúng ta có thể nhìn nhận vấn đề một cách thoáng đạt hơn, rõ ràng hơn, chứ không bị che mờ bởi các thành kiến trung tâm – địa phương như xưa nay.

Cuối cùng, loạt bài viết cũng như một lời tri ân đến các nhân vật đã làm nên Cách mạng tháng Tám cho Sài Gòn. Họ là những người mà bản thân mình có thể không đồng ý về quan điểm chính trị (chẳng hạn, mình đánh giá bản thân ông Trần Văn Giàu đã quá khắc nghiệt và giáo điều cộng sản để rồi bỏ lỡ, thậm chí vô tình gây thêm hận thù, giữa những người Cộng sản và những nhóm yêu nước khác), nhưng hành động của họ đã đưa một bộ phận lãnh thổ nước Việt Nam đến gần hơn với ngày tự do. Cho dù lịch sử sau đó có đối xử không công bằng với họ (khi không còn ai lãnh đạo khởi nghĩa ở Sài Gòn còn giữ những vị trí trực tiếp liên quan đến hai cuộc chiến tranh về sau của Việt Nam), nhưng loạt bài viết này xin như một lời nhắc nhở của hậu bối rằng tên tuổi và hành động của họ sẽ không bao giờ bị nhân dân lãng quên.

*

Chuyện khác về Cách mạng tháng Tám tại Sài Gòn

Mấy tuần trước, mình có viết một loạt bài về cuộc Cách mạng tháng Tám tại Sài Gòn dưới góc nhìn của những người Việt Minh. Tham vọng của bài viết là nhằm kể một câu chuyện khởi nghĩa rất khác ở Sài Gòn so với những gì diễn ra ở Hà Nội và ở Huế. Điều này cũng nhằm khẳng định một điều mà những người nghiên cứu lịch sử đều nắm rõ (nhưng không nhất thiết là thực hành), đó là lịch sử không thể chỉ có các đại tự sự, với một trung tâm chính trị tỏa đi cả nước.

Cuộc cách mạng ở Sài Gòn đã không được chỉ đạo sát sao từ Hà Nội, cũng như những người khởi nghĩa ở Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi đã tiến hành theo những gì họ hiểu về tinh thần của một hiệu triệu từ tháng Ba. Tương tự, những gì diễn ra ở Sài Gòn không thể được xem là khởi đầu cho toàn Nam Bộ. Mỹ Tho đã khởi nghĩa trước mà không đợi Sài Gòn.

Đó là điều khiến mình tin rằng Cách mạng tháng Tám thực chất có thể hiểu là tập hợp của rất nhiều cuộc khởi nghĩa con trên cả nước. 

Điều thú vị là tất cả các cuộc khởi nghĩa đó đều có bóng dáng của những Đảng bộ cộng sản địa phương, nên đã tránh cho đất nước lâm vào một sự chia rẽ.

Ở đây, cũng phải nói về vai trò của vua Bảo Đại khi trong một tuyên cáo gửi cho đại diện Việt Minh hầu mời lực lượng này đứng ra lãnh đạo chính phủ, vị hoàng đế cuối cùng của Việt Nam đã nói rằng ông thấy sự hứng khởi của người dân Bắc Bộ ủng hộ Việt Minh nên ông sẵn sàng mời Việt Minh ra chấp chính nhằm tránh cảnh binh đao, nội chiến.

Trước đó một ngày, Bảo Đại trong bài hiệu triệu các lực lượng ra lãnh đạo quốc gia liên minh lại với nhau để mưu việc, cũng như ngỏ ý cho một khả năng thoái vị khi ông nói rằng: “Trẫm ưng là dân một nước độc lập, còn hơn làm vua một nước nô lệ”. Câu nói đó xảy ra trước chiếu thoái vị ngày 30/8/1945.

Tuy nhiên, câu chuyện của Việt Minh cũng không phải là câu chuyện duy nhất của ngày Cách mạng đó. Như đã kể trong loạt bài, Hòa Hảo, Cao Đài và các lực lượng quốc gia khác cũng đã ráo riết chuẩn bị cách mạng. Tại Sài Gòn, như chính ông Trần Văn Giàu thừa nhận trong hồi ký, tương quan lực lượng giữa Việt Minh và các phe khác trước ngày 21/08 là rất bất lợi cho Việt Minh.

Ngay trong ngày Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh, tại Sài Gòn, bác sĩ Hồ Văn Ngà đã đứng ra thành lập một tổ chức gọi là Mặt trận Quốc gia Thống nhất. Mặt trận này về danh nghĩa quy tụ 7 nhóm bao gồm: Việt Nam Quốc gia Độc lập Đảng (của chính ông Ngà, lập ngày 10/03/1945), Thanh niên Tiền phong (của bác sĩ Phạm Ngọc Thạch – đã kể ở loạt trước), Cao Đài, Hòa Hảo, Tịnh độ cư sĩ, Nhóm Trí thức độc lập, và Liên đoàn công chức.

Đến 20/08 thì nhóm Thiên chúa giáo gia nhập Mặt trận. Nhóm Trotskyist do Phạm Văn Hùm lãnh đạo về danh nghĩa không tham gia Mặt trận này nhưng có liên hệ rất mật thiết với Mặt trận.

Mặt trận Quốc gia Thống nhất không phải lực lượng duy nhất chuẩn bị cho cách mạng. Nhóm Việt Nam Quốc Dân Đảng ở miền Nam cũng có hành động, và thực tế họ nắm trong tay một lực lượng có nhiều võ khí, gọi là Dân quốc Quân (sau này được biên chế thành Đệ Tam Sư Đoàn của Dân Quân Cách Mạng), do Nguyễn Hòa Hiệp lãnh đạo.

Nhóm khác là nhóm Trotskyist (gọi là Trăng Câu Đệ Tứ – ông Giàu gọi là Sao Xẹt) thì hoạt động dưới hình thức kêu gọi quần chúng xuống đường lật đổ không chỉ chính quyền Trần Trọng Kim, mà còn phải làm cả cách mạng vô sản, diệt trừ địa chủ, tư sản… Sài Gòn vào thời điểm tháng Tám đó, nếu đọc lại những gì được viết trên báo Sài Gòn và hồi ký giai đoạn 1925 - 1954 của Nguyễn Kỳ Nam thì có thể nói là sục sôi bên bờ vực của một cuộc nội chiến.

Trong bối cảnh đó, những nỗ lực dàn xếp giữa các phe phái, và nhất là hưởng ứng lời hiệu triệu liên minh của vua Bảo Đại đã đề cập ở trên, cũng phần nào làm giảm căng thẳng cho Sài Gòn, và tạo thời cơ cho sự chiếm chính quyền của Việt Minh. Ngày 21/08, Mặt trận Quốc gia Thống nhất tổ chức một cuộc biểu tình rầm rộ với 200 ngàn người tham gia, và phe Trăng Câu Đệ Tứ cũng tuần hành. Ông Giàu trong hồi ký của mình xem cuộc biểu tình này là sự biểu dương lực lượng, vì cũng trong cuộc này, phe Việt Minh bắt đầu ra mắt công khai bằng cách rải truyền đơn nói rằng Việt Minh chính là lực lượng của phe Đồng Minh, đã tham gia đánh Nhật từ lâu.

Cần lưu ý rằng cho đến ngày 21/08, Thanh niên Tiền phong vẫn chưa công khai về phe Việt Minh. Lực lượng duy nhất mà Việt Minh của ông Giàu có vào thời điểm và được các phe biết đến có lẽ là lực lượng công nhân, liên đoàn lao động, v.v. Cùng với tin Việt Minh chiếm được Hà Nội thì ngày 20/08, ông Giàu đánh tiếng muốn gặp Mặt trận Quốc gia Thống nhất để trao đổi.

Ngày 22/08, sau khi Việt Minh ra mắt, thì Mặt trận Quốc gia Thống nhất mới gặp và trao đổi với ông Giàu. Lúc này, có một đề nghị của ông Ngà đưa ra đó là Việt Minh gia nhập Mặt trận Quốc gia Thống nhất. Ông Giàu với sự khôn ngoan của một nhà lý luận cộng sản, cho rằng Mặt trận Quốc gia Thống nhất mới nên gia nhập Việt Minh vì hai lý do. Thứ nhất, Việt Minh tồn tại trước. Thứ hai, các tổ chức trong Mặt trận của ông Ngà thực ra được người Nhật hậu thuẫn rất nhiều nên dễ gây hiểu lầm cho Đồng Minh khi họ vào. Lập luận này không phải không có cơ sở nhưng rất khó để phe ông Ngà chấp nhận. Kết quả là cuộc họp không đem lại kết quả gì, ngoài chuyện hai bên hứa tiếp tục giữ liên lạc.

Thú vị là Phạm Văn Hùm, lãnh đạo của Trăng Câu Đệ Tứ, trở thành sứ giả giữa ông Ngà và ông Giàu, có lẽ xuất phát từ quen biết khá thân khi xưa của hai người hồi còn ở Pháp (ông Hùm thật ra thành công ở Pháp hơn ông Giàu khi lấy được bằng triết học ở Sorbonne rồi xuống Toulouse dạy học. Ông Giàu thì không thực hiện được lời hứa lấy hai bằng tiến sĩ văn khoa và luật khoa ở Toulouse. Hai người quen biết và thân nhau ở Toulouse khi cùng tham gia Đảng Cộng sản Pháp).

Bước ngoặt của cán cân quyền lực trong Sài Gòn đó chính là khi bác sĩ Phạm Ngọc Thạch quyết định chọn đưa Thanh niên Tiền phong gần 200 ngàn người của mình về phe Việt Minh. Mất chỗ dựa, Mặt trận Quốc gia Thống nhất gần như kiệt quệ. Ngày 24/08, thông qua tờ Hưng Việt, là tờ báo chính thức của mình, Mặt trận Quốc gia Thống nhất tuyên bố gia nhập Việt Minh. Có lẽ sự kiện này, cùng với thắng lợi của Tân An, đã khiến Hội nghị Chợ Đệm tự tin bấm nút cho cuộc khởi nghĩa ngày 25/08. Cũng nhờ những diễn biến này mà cuộc khởi nghĩa diễn ra trong vòng trật tự, không có sự đụng độ qua lại giữa các phe.

Nam Bộ yên bình thêm được hai tuần, cho đến khi Lâm ủy Hành chánh của ông Giàu ra mắt và chịu nhiều chất vấn của các phe phái khác không có chân trong đó. Ông Giàu sau đó bằng một hành động Stalinist điển hình đã ra lệnh bắt bớ gần như toàn bộ đối lập, đẩy miền Nam Bộ vào cảnh chia rẽ. Đó, cùng với quyết định nổ súng Nam Bộ Kháng Chiến trái với lệnh của đại diện Tổng bộ Việt Minh Hoàng Quốc Việt, có lẽ cũng đặt dấu chấm hết cho sự nghiệp chính trị của ông Trần Văn Giàu và đưa ông ra Bắc giữ những vị trí học thuật đơn thuần cho đến cuối đời.

Vài câu chuyện bên lề của Sài Gòn ở góc nhìn khác, xin kể để đầy đủ hầu các bạn.

L.N.D.H.

Nguồn: Tiếng Dân

 

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn