Có phải luật quốc tế suy tàn, hay là cơ hội tái sinh tốt đẹp hơn?

Linda Kinstler The Guardian ngày 26 tháng 6 năm 2025

Lê Bá Nhật Thắng biên dịch

Bình luận của Phạm Thanh Vân | Dự án Đại Sự Ký Biển Đông

Những trang sử của một đất nước từng bị tấn công bởi những cường quốc là thành viên Hội đồng Bảo An Liên Hợp Quốc đã khiến một bộ phận có tác động đến chính sách, cũng như nhiều giới và công chúng ở Việt Nam không có nhiều niềm tin vào luật quốc tế và các thiết chế quốc tế. Bài báo trên The Guardian, “Chúng ta có đang chứng kiến sự suy tàn của luật pháp quốc tế?” dường như tiếp tục củng cố định kiến này.

Tuy nhiên, việc dịch bài viết sang tiếng Việt không nhằm để hạ thấp vai trò của luật quốc tế mà trái lại, là một nỗ lực chia sẻ và thấu hiểu những trở ngại và thách thức ở cấp độ toàn cầu mà nhà nước Việt Nam đang phải đối mặt khi giải quyết tranh chấp Biển Đông, và xa hơn, khi Việt Nam đang cố gắng hoà nhập vào các giá trị văn minh của nhân loại. Báo cáo năm 2024 của Amnesty International cảnh báo về “sự sụp đổ gần như hoàn toàn của luật quốc tế” và “sự vi phạm trắng trợn các quy tắc quốc tế”. Trong thời đại của công nghệ và AI, luật quốc tế sẽ còn tiếp tục đối mặt với thách thức chưa từng có.

Dù vậy, định hướng của Việt Nam hội nhập quốc tế và coi trọng luật quốc tế là đúng đắn, và Việt Nam đã bắt đầu có đủ tiềm năng và năng lực chuyên môn để hoà nhập vào các giá trị quan trọng đối với sự phát triển vững bền. Đóng góp quan trọng của Việt Nam trong tiến trình và nội dung Tư vấn pháp lý của Toà án Công lý Quốc tế về nghĩa vụ của các quốc gia đối với biến đổi khí hậu là ví dụ mới nhất về năng lực chuyên môn pháp lý của các nhà luật quốc tế Việt Nam, mà chúng tôi sẽ có một phân tích riêng rẽ.

Như một chuyên gia được trích dẫn trong bài báo của The Guardian nhận định, khủng hoảng có thể là cơ hội hồi sinh luật quốc tế, bắt đầu từ lĩnh vực biến đổi khí hậu đã thu hút sự quan tâm của đông đảo các quốc gia. Người bình luận cho rằng khủng hoảng còn là cơ hội cho những nhà nghiên cứu luật quốc tế của Việt Nam phát triển một cách tiếp cận mới đối với luật quốc tế một cách toàn diện hơn.

Như một ví dụ, luật pháp quốc tế không chỉ được duy trì nhờ các thể chế hay thiện chí ở cấp độ quốc gia, mà còn phụ thuộc sâu sắc vào giá trị đạo đức và hành vi cá nhân của những chủ thể hành nghề pháp lý – mà tiêu biểu là thẩm phán và học giả, những người nắm sứ mệnh đưa ra những diễn giải pháp lý khách quan, công bằng, không để ảnh hưởng bởi lợi ích chính trị hay lợi ích riêng. Một khảo sát của người viết (sẽ được công bố riêng rẽ) cho thấy mối quan hệ chưa được nghiên cứu đầy đủ giữa liêm chính cá nhân và tính tin cậy và sự bền vững lâu dài của hệ thống pháp luật quốc tế. Sự thất bại về tính liêm chính ở cấp độ vi mô có thể tạo hiệu ứng thác nước và cuối cùng đe doạ tính bền vững ở cấp độ hệ thống, làm suy giảm niềm tin của công chúng đối với luật quốc tế. Tương lai của luật quốc tế không chỉ phụ thuộc vào thương lượng giữa các quốc gia, năng lực chuyên môn, mà còn bị tác động bởi những lựa chọn đạo đức hằng ngày của những người hành nghề luật. Khi các cá nhân này hành xử liêm chính, công bằng – đặc biệt với người yếu thế – họ góp phần quan trọng củng cố tính bền vững và tính tin cậy của luật quốc tế, đưa luật quốc tế không còn là công cụ của lợi ích mà trở thành một nền tảng triết lý của thuyết chung sống hoà bình. Việt Nam có thể đóng vai trò lãnh đạo định hình luật quốc tế một cách thuyết phục khi làm gương ngay trên chính đất nước mình (lead by example), với những nhà nghiên cứu và luật gia chính trực, lấy công lý là nền tảng cho mọi đức tính, ứng xử công bằng với người yếu thế. Lên tiếng cho những người Palestine ở xa hay những vấn đề toàn cầu thì dễ, ứng xử đúng đắn với những người gần mình mới là thử thách về thực hành, thay vì chỉ để những giá trị nền tảng về công lý và hoà bình của luật quốc tế dừng ở kiến thức lý thuyết.

Ngày càng có nhiều học giả và luật sư đánh mất niềm tin vào hệ thống hiện tại. Một số người khác cho rằng lỗi không nằm ở luật pháp, mà ở các quốc gia lẽ ra phải duy trì nó.

Vào cuối tháng Tư, các phần tử khủng bố đã sát hại 26 dân thường tại thị trấn Pahalgam của Ấn Độ, nằm trong khu vực biên giới miền núi Kashmir. Ấn Độ nhanh chóng quy trách nhiệm cho Pakistan, tiến hành các cuộc không kích bằng tên lửa và tuyên bố đình chỉ Hiệp ước sông Indus – về thực chất đe dọa cắt nguồn cung cấp tới ba phần tư lượng nước của Pakistan.

Ahmad Irfan Aslam, một luật gia quốc tế kỳ cựu từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên nước, Biến đổi khí hậu và Đầu tư của Pakistan cho đến năm ngoái, theo dõi diễn biến với cảm giác kinh hoàng. Ấn Độ đã đặt khả năng tắt van cấp nước cho 250 triệu người dân lên bàn cân. Hành động này không chỉ vi phạm Hiệp ước sông Ấn mà còn xâm phạm luật quốc tế về sử dụng nguồn nước công bằng.

Đồng nghiệp và bạn bè tìm đến Aslam để xin lời khuyên về những hành động có thể thực hiện. Lúc đó ông chợt nhận ra: “Tôi nhận ra một điều đáng sợ là ngày nay không còn nhiều thứ chúng ta có thể làm”. “Chúng ta đang chứng kiến sự xói mòn đột ngột của các định chế đa phương, các chuẩn mực thể chế. Mọi thứ dường như trở nên bất định”. Ngay cả khi Pakistan đưa vụ việc lên một trong những thể chế được thành lập để giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia – Hội đồng Bảo an và Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) hay Tòa Trọng tài Thường trực – bất kỳ phán quyết nào được đưa ra cũng hầu như chẳng có cơ hội được tuân thủ. “Luật pháp quốc tế luôn phụ thuộc vào thiện chí của các quốc gia”, Aslam nói. “Và thiện chí đó đã bị xói mòn”.

Năm 2024, Aslam từng trải qua một cảm giác bất an tương tự tại The Hague, nơi ông đại diện Pakistan trước Tòa án Công lý Quốc tế trong một phiên điều trần liên quan đến việc Israel tiếp tục chiếm đóng các vùng lãnh thổ Palestine ở Bờ Tây. “Việc chiếm đóng của Israel là bất hợp pháp và hành vi bất hợp pháp thì phải nhận hậu quả”, ông phát biểu trước tòa. Có 52 quốc gia tham gia phiên điều trần, và khi Aslam trao đổi với nhiều đồng nghiệp, ông nhận thấy rõ một điều: “Tất cả những điều này sẽ chẳng thực sự thay đổi được gì trên thực địa”. Có thể những gì họ trình bày trước hội đồng thẩm phán sẽ có ý nghĩa nào đó đối với các sử gia trong tương lai, nhưng chúng hoàn toàn không thể ngăn chặn nỗi thống khổ tức thì của người Palestine. “Bất kể bạn tìm đến tòa án nào, bạn cũng sẽ không nhận được công lý”, ông nói. “Và thường dân bị kẹt trong một mạng lưới địa chính trị không phải do họ tạo ra”.

Trong suốt thập kỷ qua, các thể chế chủ chốt bảo vệ trật tự quốc tế đã dần bị suy yếu, tê liệt hoặc mất uy tín. Việc Hoa Kỳ gần đây rút khỏi hàng loạt tổ chức và hiệp định quốc tế – Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu, Tổ chức Y tế Thế giới, Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc – càng làm tổn hại hệ thống; các lệnh trừng phạt của Hoa Kỳ đối với Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC) đã làm suy giảm uy tín của tòa và tạo rào cản tài chính nghiêm trọng cho các cuộc điều tra tội ác chiến tranh tại Ukraina và Gaza. Hội đồng Bảo An Liên Hợp Quốc đã rơi vào thế bế tắc trong suốt hơn một thập kỷ, phần lớn do quyền phủ quyết của các thành viên thường trực.

Những lời đe dọa chiếm Greenland và Canada cũng như quốc hữu hóa kênh đào Panama của Tổng thống Trump càng làm lung lay nền tảng luật pháp quốc tế vốn đã rệu rã. “Ngay cả việc chỉ gợi lên khả năng thực hiện những hành động rõ ràng bất hợp pháp ấy cũng đã làm suy yếu chuẩn mực pháp lý, bởi nó khiến người ta tin rằng chúng có thể xảy ra”, giáo sư luật quốc tế Oona Hathaway tại Đại học Yale nhận định. Vài ngày sau khi Hoa Kỳ nối gót Israel tiến hành không kích vào các cơ sở hạt nhân Iran, Hathaway cho rằng hành động của Trump đe dọa “tái định hình trật tự pháp lý toàn cầu, biến nó từ một trật tự dựa trên luật lệ thành một trật tự dựa trên sức mạnh”.

Tuy nhiên, quá trình xói mòn luật pháp quốc tế đã bắt đầu từ lâu trước khi Trump lên nắm quyền năm 2017. Tính cấp thiết, thậm chí cả sự tồn tại của luật pháp quốc tế, đã bị đặt dấu hỏi kể từ khi nó xuất hiện gần hai thế kỷ trước. Những người ủng hộ cho rằng luật pháp quốc tế là thành luỹ ngăn chặn một cuộc đại chiến khác, là cơ chế kiềm chế tội ác và bạo lực quy mô lớn. Ngược lại, các nhà phê bình phản biện rằng, thay vì bảo vệ thế giới khỏi tội ác tồi tệ nhất, luật pháp quốc tế lại che chở cho các quốc gia bằng ngôn ngữ biện minh cho sai lầm của họ. Ngay cả trong giới luật gia quốc tế cũng chia rẽ sâu sắc về việc liệu ngành của họ đang sống tốt, đang ngủ đông, đang hấp hối hay đã từ lâu chỉ còn là “bóng ma đạo đức” lơ lửng trên bản đồ thế giới.

Dạo quanh The Hague, người ta ít cảm nhận nơi đây như một thành phố, mà giống như tập hợp các biểu tượng. Bước chân qua các con phố là chạm mặt những di tích của những nỗ lực trước đây nhằm thiết lập hòa bình thế giới. Toà nhà từng là Tòa án Hình sự Quốc tế xét xử tội ác tại Nam Tư cũ nằm ngay trước Trung tâm Quốc tế truy tố tội xâm lược ở Ukraine. Toà án Iran-Hoa Kỳ, được lập sau vụ khủng hoảng con tin ở Tehran năm 1979 và vẫn hoạt động, chỉ cách đó vài phút đi bộ, trong khi Tổ chức Cấm Vũ khí Hóa học đóng trụ sở chỉ cách vài mét. Về mặt pháp lý, các cơ quan này ít liên quan đến nhau, nhưng cùng tọa lạc tại The Hague khiến chúng có “lớp vỏ uy tín”, một luật gia quốc tế từng chia sẻ với tôi. Tòa Hình sự Quốc tế nằm ở góc đông bắc thành phố, gần trung tâm giam giữ các bị cáo. (Những nhân vật đang bị giam giữ gồm cựu tổng thống Philippines Rodrigo Duterte và lãnh đạo phe nổi dậy Cộng hòa Trung Phi Alfred Yekatom.) Càng tiến về Cung điện Hòa bình – nơi đặt Toà án Công lý Quốc tế – thành phố càng trở nên yên bình và xanh mát.

Những tổ chức này là hiện thân hữu hình của ngành “luật pháp quốc tế”, dù các học giả vẫn bất đồng về bản chất của luật pháp quốc tế. Thay vì có một định nghĩa rõ ràng, người ta chỉ thấy loạt ẩn dụ: có người ví nó “giống lực hút: bạn không nhìn thấy nhưng vẫn tồn tại”. Những người khác ví nó như cách đánh vần trong tiếng Anh (các quy tắc đôi khi trông như bịa ra); như phim khiêu dâm (bạn biết nó khi bạn thấy); như một khối nước (không bao giờ đứng yên); như một vở hài kịch (có thể đi ngược logic); hay một bi kịch (nơi tất cả đều là kẻ thua cuộc). Nhà văn Shirley Hazzard từng mô tả một cách cay độc hơn, gọi nó là “một trò làm đẹp vớ vẩn”. Theo điều lệ của ICJ, các cấu phần của luật pháp quốc tế bao gồm các hiệp ước, công ước, tập quán, án lệ, cũng như “những nguyên tắc pháp luật chung được các quốc gia văn minh công nhận” và “giáo lý của những chuyên gia ưu tú nhất”.

Nhưng nếu chỉ nói về luật pháp quốc tế như một tập hợp các quy tắc và thỏa thuận, ta sẽ bỏ qua chức năng của nó như một “ngôn ngữ chung của hệ thống quốc tế”, và như phương tiện bày tỏ niềm tin rằng những kẻ phạm tội toàn cầu phải bị trừng phạt như những tội phạm trong nước, đồng thời (thường) bày tỏ thái độ phản đối khi họ không bị trừng phạt. (Luật pháp quốc tế đã trở thành ngôn ngữ thông dụng của “tầng lớp trung lưu có học”, theo lời Giáo sư luật Gerry Simpson của Trường Kinh tế Chính trị London – LSE. “Khi tôi đi dự tiệc tối, ai cũng nói với tôi bằng ngôn ngữ của luật pháp quốc tế”, ông chia sẻ). Nhắc đến “luật pháp quốc tế” là gợi lên hình ảnh: Bộ chỉ huy tối cao của Đức quốc xã chờ bị tuyên án tại Nuremberg; các tội phạm chiến tranh và diệt chủng bị xét xử tại The Hague. Đây là những khoảnh khắc của luật hình sự quốc tế – nhánh trẻ nhất và mong manh nhất của luật pháp quốc tế, cũng là lĩnh vực bị giới chính trị, truyền thông và công chúng tranh luận gay gắt nhất.

Hiện nay, trong giới chuyên môn đang dâng lên quan điểm rằng luật hình sự quốc tế là một dự án thất bại – một “xác sống”. Gần như không có luật sư nào mà tôi phỏng vấn sẵn sàng bảo vệ nó một cách vô điều kiện. “Khoảng cách giữa kỳ vọng của luật hình sự quốc tế và thực tế người dân phải gánh chịu ngày càng lớn”,giáo sư luật Adil Haque tại Đại học Rutgers nhận xét. “Và đó là vấn đề của luật, vì luật phải đạt được kết quả trong thực tế”.

Việc thành lập Tòa Hình sự Quốc tế năm 1998 chính là hiện thực hóa khát vọng lãng mạn nhất của luật pháp quốc tế: đưa những kẻ phạm tội biểu tượng ra chịu trách nhiệm khi chính quốc gia họ không làm được. Toà ra đời trong một thời điểm đặc biệt và có lẽ không thể tái lập, khi các cường quốc còn đang đắm chìm trong hào quang sau Chiến tranh Lạnh. “Nhìn lại, đó là một giai đoạn kỳ lạ trong lịch sử, khi những lo ngại về chủ quyền và an ninh của các cường quốc phần nào lắng xuống,” nhà báo kiêm học giả David Bosco, người đã dành nhiều thập kỷ theo dõi hoạt động của tòa án, nhận định. “Điều đó đã cho phép một dự án như ICC ra đời – điều mà khó có thể thành hình ở bất cứ thời điểm nào khác”.

Giai đoạn đó hóa ra rất ngắn ngủi. Tòa án Hình sự Quốc tế, với ngân sách hoạt động hàng năm khoảng 200 triệu euro, chưa bao giờ có thể hoàn toàn đáp ứng những kỳ vọng đã tạo nên sự ra đời của nó. Trong 23 năm hoạt động, tòa chỉ kết án được 11 vụ, tất cả đều liên quan đến châu Phi. Vì ICC bị cho là tập trung xét xử người châu Phi, các thành viên Liên minh châu Phi nhiều lần dọa rút khỏi Quy chế Rome – hiệp ước sáng lập ICC. “ICC mang một hào quang thực dân mới rất khó gột bỏ”, học giả pháp lý kiêm cựu ngoại giao người Phần Lan Martti Koskenniemi nhận định. Theo ông, tòa là sản phẩm của “chủ nghĩa ngạo mạn tự do” thập niên 1990, kết quả của một hệ thống bị mê hoặc bởi chính chủ nghĩa lý tưởng của mình.

Kể từ khi thành lập, ICC liên tục bị cáo buộc là công cụ cho công lý của kẻ chiến thắng, một “tòa án giả hiệu” trong con mắt những người chỉ trích. Việc gần đây bắt giữ cựu Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte – dù là một chiến thắng đáng kể đối với tòa – cũng sẽ bị thách thức dựa trên cơ sở rằng Philippines đã chính thức rút khỏi Quy chế Rome vào năm 2019. (Phòng tiền tố của ICC cho biết cuộc điều tra của họ về các tội ác trong chiến dịch chống ma túy của Duterte chỉ liên quan đến những hành vi xảy ra trước thời điểm đó). Và mặc dù lệnh bắt giữ của tòa đối với Tổng thống Nga Vladimir Putin và Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu có ý nghĩa biểu tượng lớn lao, cơ hội các cáo trạng đó dẫn tới một phiên tòa thực sự gần như bằng không. Nga và Israel cùng với Hoa Kỳ, Syria và Trung Quốc đều từ chối tham gia Quy chế Rome, qua đó từ chối trao quyền tài phán cho ICC đối với công dân của mình. (Đầu năm nay, Hungary cũng đã thông báo rút khỏi ICC – đồng thời đón tiếp Netanyahu tại Budapest).

Những động thái không ngừng của Hoa Kỳ trong việc làm suy yếu ICC là rất sâu sắc. Một tháng sau khi ICC chính thức được thành lập, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua “Đạo luật Xâm nhập The Hague” (Hague Invasion Act), trao cho tổng thống quyền sử dụng “mọi biện pháp cần thiết” để giải cứu quan chức chính phủ Hoa Kỳ bị ICC bắt giữ. Năm 2017, khi công tố viên của ICC là Fatou Bensouda tìm cách mở cuộc điều tra về những cáo buộc lực lượng Hoa Kỳ đã có hành vi tàn ác tại Afghanistan, bà đã bị từ chối cấp thị thực vào Hoa Kỳ và ICC bị đe dọa trừng phạt kinh tế. Dưới áp lực từ chính quyền Trump, cuộc điều tra cuối cùng đã bị hủy bỏ. Gần đây, Bensouda được giao nhiệm vụ điều tra những cáo buộc tội ác chiến tranh và tội ác chống lại loài người tại Palestine – một nhiệm vụ khiến bà và gia đình phải đối mặt với những “đe dọa trực tiếp”.

Các lệnh bắt giữ có tầm ảnh hưởng lớn đối với Putin và Netanyahu khiến uy tín của ICC tăng lên, nhưng đồng thời cũng làm nổi bật sự bất lực của toà và kéo theo các đòn đáp trả chí mạng từ phía Hoa Kỳ. “Nghịch lý thay”, luật sư quốc tế Chantal Meloni nói với tôi, “ngay khoảnh khắc tòa chứng tỏ rằng mình còn hiệu quả có thể cũng là lúc tòa bắt đầu đi đến hồi kết”.

Những lời chỉ trích nhắm vào luật pháp quốc tế vốn không mới, và ở một mức độ nào đó, gần như không thể bác bỏ: rằng luật quá yếu, được áp dụng có chọn lọc, và chỉ là công cụ mở rộng quyền lực nhà nước. “Chúng ta đều là tù nhân trong hệ thống ngang hàng này, nơi các quốc gia phải tự giám sát lẫn nhau – điều đó tất yếu sẽ dẫn tới chính trị hóa”, Yusra Suedi, giảng viên tại Đại học Manchester, nhận định. Về bản chất, đây là một hệ thống tự nguyện: các quốc gia yếu thế nếu chống lại chỉ thị của luật quốc tế thì bị gọi là “quốc gia ngoài lề” hay “ngỗ ngược”; còn các quốc gia hùng mạnh làm điều tương tự lại được mệnh danh bá chủ.

Đối với các nhà phê bình, vấn đề không chỉ nằm ở việc luật không ngăn được chiến tranh hay bảo vệ dân thường, mà còn ở chỗ nó cung cấp ngôn ngữ cho các quốc gia biện minh cho việc sử dụng vũ lực thiếu kiểm soát. Việc vi phạm không còn là ngoại lệ, mà trở thành quy luật. Ví dụ, luật nhân đạo quốc tế hạn chế việc sử dụng một số loại vũ khí nhất định, chẳng hạn như bom chùm, vốn “có bản chất không phân biệt, có khả năng gây hại mà không phân biệt được giữa chiến binh và dân thường”. Tuy nhiên, điều đó không ngăn được Israel – quốc gia đã phê chuẩn Công ước về một số loại vũ khí thông thường vào năm 1995 – sử dụng bom chùm chống lại dân thường vào năm 2006, trong cuộc chiến ở Liban. (Israel, giống như Mỹ, Nga, Iran và Trung Quốc, đã từ chối ký Công ước năm 2008 về bom chùm). Hơn 1.000 người đã thiệt mạng, trong đó khoảng một phần ba là trẻ em. Quân đội Israel tuyên bố rằng việc sử dụng bom chùm không vi phạm luật pháp quốc tế, vì họ tập trung vào các mục tiêu quân sự, và bởi vì người dân ở khu vực ngoại ô phía nam Beirut – nơi được gọi là Dahiya – đã được cảnh báo trước về cuộc tấn công.

Chính trong cuộc xung đột đó, các lực lượng Israel đã phát triển “học thuyết Dahiya”, cho phép sử dụng lực lượng “vượt mức cân xứng” vào các khu dân cư trong một số tình huống nhất định. Cuộc tấn công vào Dahiya là một sự vi phạm rõ ràng nguyên tắc “tính tương xứng” trong luật pháp quốc tế, nguyên tắc quy định rằng dân thường không được phép trở thành mục tiêu tấn công nếu hậu quả gây ra là “quá mức so với lợi thế quân sự cụ thể và trực tiếp dự kiến”. Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc đã thành lập một ủy ban điều tra sự kiện này, và kết luận rằng “không có lý do chính đáng” cho việc sử dụng bom chùm.

Mỗi học giả than phiền về sự suy tàn của luật pháp quốc tế đều có khoảnh khắc riêng mà họ cho là thời điểm bắt đầu của sự suy thoái. Theo Martti Koskenniemi, điều đó xảy ra vào thập niên 1960, khi các mục tiêu ban đầu về hòa bình và công lý dần bị thay thế bởi các mệnh lệnh hành chính và quản trị do toàn cầu hóa mang lại. Đối với học giả pháp lý người Israel Itamar Mann, Dahiya dường như là khởi đầu cho sự kết thúc của luật pháp quốc tế với tư cách là một hệ thống đáng tin cậy nhằm ngăn chặn tội ác. “Họ không chỉ phớt lờ quy tắc: họ còn viện dẫn chính quy tắc đó để phục vụ cho những mục đích mà lẽ ra nó phải hạn chế hoặc kiểm soát”, ông nói. Bằng cách cố gắng biện minh cho một hành vi không có cơ sở pháp lý bằng ngôn ngữ của luật pháp quốc tế, Israel đã biến luật pháp trở thành trò cười cả về tinh thần lẫn câu chữ. “Nói chung, đó là thời điểm mà ý tưởng rằng một khu dân cư nguyên vẹn có thể bị xóa sổ – hoặc gần như vậy – bắt đầu xuất hiện trong nhận thức chung”, Mann nói. Khi chúng tôi thảo luận về tình trạng chung của luật pháp quốc tế, ông bắt đầu dùng thì quá khứ: “Đó từng là một phương tiện thách thức việc sử dụng vũ lực tàn bạo, và điều đó giờ không còn nữa”.

Việc viện dẫn luật pháp quốc tế như một tấm bình phong cho những vi phạm chính trật tự mà nó đặt ra đã góp phần tạo nên nhận thức rằng ngành luật đang suy thoái. Chẳng hạn, Nga đã cố gắng đưa ra các lập luận pháp lý nhằm biện minh cho cuộc xâm lược Ukraine năm 2014. Trong một tài liệu nhằm biện minh cho cuộc tấn công Israel vào ngày 7 tháng 10, Hamas đã trích dẫn một ý kiến của Tòa án Công lý Quốc tế liên quan đến việc xây dựng bức tường trên vùng đất Palestine bị chiếm đóng, đồng thời kêu gọi các quốc gia “thực hiện trách nhiệm của mình đối với luật pháp quốc tế”. Trong khi đó, các chính trị gia Israel thường xuyên viện dẫn luật pháp quốc tế như một tấm khiên và một lời biện hộ cho việc tiếp tục cuộc chiến ở Gaza. Có thể xem đây là dấu hiệu cho thấy hệ thống quốc tế đang tồn tại những sai lệch nghiêm trọng – hoặc cũng có thể là bằng chứng cho thấy nó vẫn đang vận hành đúng như thiết kế – khi một quốc gia như Triều Tiên cũng có thể lên tiếng cáo buộc Israel đã phạm phải một “tội ác chống lại loài người không thể dung thứ” khi tấn công Iran.

Gerry Simpson bắt đầu sự nghiệp với niềm tin vào luật pháp quốc tế và sức mạnh của nó, từng viết nhiều bài đề xuất các cơ chế thể chế mới như các ủy ban chuyên trách. Tuy nhiên, hiện nay ông cho rằng cách tiếp cận đó là sai lầm. Theo ông, một phần vấn đề của ngành này nằm ở chỗ luật pháp quốc tế, giống như bất kỳ hệ thống niềm tin nào khác, về bản chất chỉ là một tập hợp các ngôn từ và những ngôn từ ấy đã ngày càng rời xa thực tế mà chúng được tạo ra để phản ánh. Trong cuốn sách gần đây The Sentimental Life of International Law, ông viết: “Có ai thực sự cho rằng cụm từ ‘vi phạm nghiêm trọng luật chiến tranh’ có thể truyền tải trọn vẹn bản chất của những tổn thương về thể xác và tinh thần gây ra bởi bom mìn hay tra tấn không?”.

“Nhiều người đang cố bám víu vào một hệ thống pháp lý ngày càng trở nên xa tầm với của chúng ta”,Monica Hakimi – cựu luật sư Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, hiện là giáo sư luật quốc tế tại Đại học Columbia nhận định. “Chúng ta không thể buông xuôi hay từ bỏ các chuẩn mực pháp lý quốc tế vốn đã giúp ngăn chặn những cuộc chiến tranh quy mô lớn và bảo vệ quyền cá nhân. Nhưng tôi cho rằng chúng ta vẫn chưa thực sự suy nghĩ thấu đáo về những thỏa hiệp cần thiết nếu muốn ngăn chặn các xu hướng nguy hiểm nhất đang hiện hữu”.

Một cuộc đối mặt với những thất bại của ngành luật quốc tế và sự trì trệ của các thể chế liên quan từ lâu đã là điều cần thiết, theo lời nhiều luật sư mà tôi đã phỏng vấn. “Chỉ có kẻ ngây thơ mới cho rằng Liên Hợp Quốc, Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới – với cấu trúc hiện tại là phù hợp để dẫn dắt chúng ta đến cuối thế kỷ này”, Sir Daniel Bethlehem, cựu cố vấn pháp lý của Bộ Ngoại giao Anh, phát biểu. “Tôi không thể hình dung nổi việc chúng ta có thể thoát khỏi vũng lầy ở Sudan, Cộng hòa Dân chủ Congo, hay Israel-Gaza, hoặc Ukraina, chỉ bằng cách từng bước tiến lên”. Ông từ lâu đã kêu gọi một sự tái định hình lâu dài về hình thức và nội dung của hệ thống quốc tế. Theo ông, nếu nhân loại muốn thoát khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay, thì “rất cần phải tái cấu trúc, tái thiết kế lại hệ thống này”.

Đối với những người tin tưởng tuyệt đối vào ngành, luật pháp quốc tế không hề khủng hoảng. Dire Tladi – một học giả luật người Nam Phi có uy tín, người vừa được bổ nhiệm làm thẩm phán tại Tòa án Công lý Quốc tế vào năm ngoái – khẳng định với tôi rằng luật pháp quốc tế không hề suy thoái. Theo ông, luật quốc tế vẫn tồn tại như một “hệ thống quy tắc trung lập, được thiết lập để điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia, và đáng lẽ phải được áp dụng mà không thiên vị hay sợ hãi”. Khi tôi chỉ ra rằng cụm từ “đáng lẽ” đang gánh vác quá nhiều trọng trách trong câu nói ấy, Tladi đáp lại: “Voilà” (Thì đấy).

Tladi nhận thức rất rõ về những giới hạn trong công việc của mình. Trong các ý kiến pháp lý, ông thường thể hiện quan điểm mang màu sắc chủ nghĩa hiện thực. Vào tháng 5 năm ngoái, trong một tuyên bố liên quan đến vụ kiện của Nam Phi chống Israel với cáo buộc vi phạm Công ước về tội diệt chủng, ông viết “không còn từ ngữ nào đủ để mô tả thảm kịch ở Gaza”, và cho biết tòa đã ra lệnh yêu cầu Israel chấm dứt các hoạt động quân sự và buộc Hamas thả các con tin. “Nhưng”, ông kết luận, “tòa cũng chỉ là toà!”. Lời của ông và đồng nghiệp chỉ có thể làm được đến thế. Luật pháp đã ban hành các chỉ thị và phán quyết, nhưng chúng rơi vào những đôi tai bịt kín. Không một ý kiến tư vấn nào có thể khiến một chiếc xe tăng quay đầu.

Điểm mấu chốt, theo Tladi, không phải là sự thất bại của luật pháp quốc tế, mà là sự thất bại của nền chính trị quốc tế. “Luật pháp vẫn tồn tại”, ông nói, nhưng “những kẽ hở trong luật quốc tế thường bị lợi dụng làm cơ sở để tránh bị truy cứu trách nhiệm”. Ngay cả khi không có kẽ hở – “không ai tranh cãi rằng hành vi diệt chủng là bị cấm”, Tladi nhấn mạnh – chính trị quốc tế và quyền lực vẫn thường xuyên làm suy yếu sức mạnh của luật quốc tế. “Không thể bỏ qua ảnh hưởng của quyền lực trong quá trình xây dựng luật”, ông nói. (Với tư cách một thẩm phán đang tại nhiệm, Tladi không thể bình luận về các vụ kiện đang diễn ra).

Khi tôi trao đổi với Raji Sourani, Giám đốc Trung tâm Nhân quyền Palestine, người đã phải rời Gaza cùng gia đình sau khi nhà riêng của họ bị đánh sập cuối tháng 10 năm 2023, ông cũng đưa ra một lời biện hộ mạnh mẽ cho luật pháp quốc tế. Ông liệt kê một loạt những bước tiến: Tòa án Công lý Quốc tế thừa nhận khả năng xảy ra tội diệt chủng ở Gaza và ban hành sáu biện pháp tạm thời yêu cầu Israel hạn chế sử dụng vũ lực và tuân thủ Công ước Diệt chủng; Tòa Hình sự Quốc tế phát lệnh bắt giữ Netanyahu và cựu Bộ trưởng Quốc phòng Yoav Gallant; gần 100 binh sĩ Israel đang bị điều tra tội ác chiến tranh tại ít nhất 14 quốc gia theo nguyên tắc tài phán phổ quát.

“Vấn đề không nằm ở luật pháp quốc tế”, Sourani nói. “Chúng tôi đã sử dụng nó tốt nhất có thể, vì thượng tôn pháp luật, vì phẩm giá con người, và để bảo vệ dân thường”. Theo ông, vấn đề nằm ở các quốc gia cho rằng luật pháp quốc tế không cần được áp dụng một cách nhất quán. “Chúng tôi đã rất vui mừng khi họ nói về quyền tự quyết và độc lập của Ukraine, Sourani chia sẻ. Những tiêu chuẩn đó, ông nói, cần được áp dụng ở mọi nơi. “Không thể được gọi là nền dân chủ thực sự nếu các anh lựa chọn áp dụng luật pháp quốc tế một cách có chọn lọc”.

Đối với Leila Sadat, cựu cố vấn đặc biệt của ICC và là một học giả uy tín, những người chỉ trích luật quốc tế cũng phải chịu một phần trách nhiệm về tình trạng tê liệt của ngành. Bằng việc liên tục đặt câu hỏi về tính phù hợp và thậm chí cả sự tồn tại của luật, họ đã mở đường cho hoài nghi, công kích và thao túng. Khi bà bắt đầu công tác tại ICC, bà khao khát làm cho tòa hiệu quả hơn. Nhưng, bà nói, “Tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc thách thức toàn bộ khái niệm rằng cá nhân phải chịu trách nhiệm về tội ác hàng loạt”.

Đối với Sourani, tranh luận về luật pháp quốc tế không hề mang tính học thuật đơn thuần. “Chúng tôi tin vào công lý, phẩm giá con người, pháp quyền, và nhân quyền”, ông nói. “Đây không chỉ là những từ ngữ. Đây là mạng sống con người, là máu, là nỗi đau và sự khổ sở của con người”. Trước đó trong ngày, ông đã liên lạc được với một người bạn vẫn ở Gaza. Người bạn ấy nói rằng anh không còn dám nhìn vào mắt vợ con, vì không thể tìm được thứ gì để nuôi sống họ. “Anh ấy nói với tôi: ‘Raji, tôi có một giấc mơ. Tôi muốn chết’”.

Vậy luật pháp quốc tế sẽ đi về đâu? Lĩnh vực này mang tính chu kỳ, Suedi nói với tôi. “Đôi khi phải có những sự kiện kinh hoàng mới khiến nhân loại thức tỉnh trước hậu quả hành động của mình, thôi thúc chúng ta suy ngẫm, chuộc lỗi và quay lại với những giá trị nền tảng”. Hiện chúng ta đang ở trong một giai đoạn suy thoái: luật pháp quốc tế sẽ không biến mất, nhưng các thiết chế của nó có lẽ sẽ tiếp tục mất uy tín, và các phán quyết ngày càng ít trọng lượng hơn. Sự suy thoái của luật pháp quốc tế sẽ song hành với sự xói mòn của pháp quyền trong nội bộ các quốc gia. “Chỉ trích luật quốc tế thì dễ, nói rằng nó không thể cưỡng chế, rằng tất cả chỉ là trò đùa”, Sadat nói với tôi. “Nhưng giờ đây, chúng ta đang chứng kiến điều gì xảy ra khi một tổng thống [Trump] công kích luật pháp quốc nội. Mọi hệ thống pháp luật – kể cả luật trong nước – đều phụ thuộc vào thiện chí của con người”.

Trung Quốc đang dần đảm nhận vai trò mà Hoa Kỳ từng đóng trong các thể chế quốc tế, tái định hình luật pháp theo hình ảnh của mình. Trong khi Hoa Kỳ rút dần khỏi các diễn đàn đa phương, Trung Quốc lại tiến gần hơn. “Họ tham dự tất cả các cuộc họp của ICC; họ tham gia vào hệ thống”, Sadat nói. Khi Hoa Kỳ vắng mặt, bà dự đoán, “chúng ta có thể sẽ có một hệ thống pháp lý quốc tế do Trung Quốc dẫn dắt”.

Luật quốc tế do Trung Quốc dẫn dắt sẽ có xu hướng giảm vai trò bảo vệ nhân quyền và phân phối viện trợ, đồng thời đề cao việc tôn trọng biên giới quốc gia. “Việc bảo vệ độc quyền chủ quyền quốc gia” là nguyên tắc trung tâm trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc, giáo sư luật Julian Ku tại Đại học Hofstra nhận định. “Và Liên Hợp Quốc là diễn đàn để họ tiếp thị quan điểm này tới các nước quốc gia phát triển – họ muốn liên minh với những quốc gia chán ngấy việc bị người Châu Âu, Hoa Kỳ, và các tổ chức phi chính phủ rao giảng”. (“Không có gì ngạc nhiên khi các quốc gia độc tài ở Châu Phi thích bá quyền Trung Quốc”,Hakimi bổ sung).

Tuy nhiên, cho đến nay, trật tự quốc tế do Trung Quốc dẫn dắt có vẻ cũng sẽ không nhất quán hơn so với phiên bản trước đó. “Mọi người đang đi theo những hướng khác nhau: Trung Quốc rất quan tâm đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nhưng họ chẳng giúp gì nhiều cho Ukraina”, Ku nói. “Thổ Nhĩ Kỳ đã chiếm đóng Cyprus suốt gần 60 năm, và mọi người dường như đã quen với điều đó”. Đại diện của Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc gần đây tuyên bố rằng các cuộc không kích của Hoa Kỳ vào Iran đã làm tổn hại đến uy tín của nước này trong các cuộc đàm phán quốc tế, trong khi truyền thông nhà nước Trung Quốc chỉ trích Hoa Kỳ vì “trò chơi vương quyền” mà coi nhẹ luật pháp quốc tế.

Trong vài năm tới, lớp hiệp ước và thoả thuận dày đặc đã chi phối vài thập kỷ qua có thể sẽ tiếp tục bị bào mòn. Cuối tháng Sáu, Bộ trưởng Nội vụ Ấn Độ Amit Shah tuyên bố nước ông “sẽ không bao giờ” khôi phục Hiệp ước Sông Ấn, và “Pakistan sẽ bị cắt nguồn nước mà họ đã hưởng một cách vô lý”.

Tuy vậy, cựu bộ trưởng Pakistan Ahmad nói với tôi rằng bất chấp tình trạng hiện tại, ông vẫn là một người lạc quan đến mức tuyệt vọng, ít nhất là trong dài hạn. “Mọi thế lực đều có đối trọng”, ông nói. “Mỗi cuộc diệt chủng diễn ra sẽ có các vụ kiện ngược lại để buộc những kẻ gây ra phải chịu trách nhiệm”. Mỗi vụ kiện phải dẫn đến một phán quyết. “Liệu các phán quyết đó có được thực thi? Không. Điều đó có đồng nghĩa với việc hệ thống đã sụp đổ? Không. Những phán quyết đó có thể không quan trọng và chẳng mấy liên quan hôm nay, nhưng chúng sẽ xuất hiện trở lại, và có ý nghĩa”.

Ahmad tin rằng chỉ một cuộc khủng hoảng mới có thể buộc nhân loại đoàn kết lại, tái xây dựng các thể chế toàn cầu và tái gắn kết với luật pháp quốc tế. Ông nói với tôi rằng cuộc khủng hoảng có thể cuối cùng sẽ làm hồi sinh luật pháp quốc tế không phải là Israel-Palestine, hay Nga-Ukraine, hay nguy cơ sáp nhập Greenland, hay sự suy yếu của các thể chế đa phương. Mà là biến đổi khí hậu. “Trong bảy năm tới, luật pháp quốc tế sẽ phản ứng với biến đổi khí hậu, và điều đó sẽ lan tỏa sang các lĩnh vực khác – đầu tiên là thương mại và đầu tư, sau đó mới đến các vấn đề như toàn vẹn lãnh thổ hay các thủ tục tố tụng tại Tòa Hình sự Quốc tế”.

Năm ngoái, một số lượng chưa từng có các quốc gia đã tham gia vào các thủ tục tố tụng tại ICJ về khủng hoảng khí hậu, và các thẩm phán hiện đang soạn thảo bản ý kiến tư vấn về nghĩa vụ bảo vệ môi trường của các quốc gia. “Nếu bạn đọc các báo cáo khoa học, chúng nói rất rõ rằng chúng ta đang không chiến thắng [trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu]”, Tladi nói với tôi. “Hoặc luật pháp không đủ mạnh, hoặc luật pháp không được thực thi”.

Luật pháp quốc tế từ lâu đã là một hệ thống năng động, và nó buộc phải phát triển song song với thế giới mà nó tìm cách điều chỉnh. “Luật pháp quốc tế sẽ ổn thôi, nhưng nó sẽ phản ánh hiện trạng của thế giới”,Tladi kết luận. “Vậy nên câu hỏi đặt ra là: thế giới sẽ trông như thế nào?”.

L.K. 

---

Linda Kinstler là một nhà văn hiện đang sinh sống tại Berkeley, California. 

Lê Bá Nhật Thắng và TS. Phạm Thanh Vân lần lượt là cộng tác viên và thành viên của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông. Có thể đọc bài viết gốc ở đây.

Nguyên tắc hoạt động của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.

—————

Dự án Đại Sự Ký Biển Đông tồn tại dựa trên tài trợ của cộng đồng. Nếu quý độc giả muốn có một nguồn thông tin tri thức khách quan, đa chiều dựa trên chiều sâu chuyên môn và dữ liệu có hệ thống, Dự án Đại Sự Ký Biển Đông là một địa chỉ mà mọi người có thể tin tưởng. Hãy chung tay cùng với chúng tôi duy trì Dự án bằng cách tài trợ cho Dự án, và khuyến khích bạn bè, đồng nghiệp cùng tài trợ Dự án. Xem hướng dẫn tài trợ ở đây: https://dskbd.org/tai-tro-cho-du-an/. Báo cáo tài chính sẽ được tổng kết vào cuối năm. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn.

Nguồn bản dịch: Dự án Đại Sự Ký Biển Đông

 

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn