Chết dưới tay Trung Quốc, Phần IV, Chương 15

Peter Navarro và Greg Autry

Nhóm Lê Minh Thịnh dịch

Chương 15

CHẾT BỞI KẺ ỦNG HỘ TRUNG QUỐC: FAREED ZAKARIA TAN THEO MÂY KHÓI

Sự tăng trưởng của Trung Quốc mang lại lợi ích rõ ràng và ngạc nhiên đối với thế giới và đặc biệt đối với Hoa Kỳ.

– Fareed Zakaria

Này Fareed, ông có muốn một chút mù tạt cho lời tâng bốc đó thêm hương vị không? Và sau khi ông hết lời khen Trung Quốc, xin ông làm ơn hãy trả lời câu hỏi này:

Làm sao mà một nhà báo, nhà điều hành thương nghiệp, người tiêu dùng, nhà chính trị, chuyên gia, hay học giả Mỹ nào đó có thể biện hộ cho một chế độ toàn trị chuyên bán sản phẩm độc hại gây thương tật và chết người, tấn công máy điện toán của chúng ta để đánh cắp tài sản trí tuệ, tiến hành các cuộc tấn công kiểu con buôn vào nền kinh tế chúng ta để đánh cắp công việc, sử dụng trái Đất như cái gạt tàn thuốc lá khổng lồ, đối xử với công nhân của chính họ như một lũ nô lệ, và đang tiến hành vũ trang tận răng để có thể đánh chìm hạm đội của chúng ta, bắn hạ các vệ tinh của chúng ta để họ mặc sức thao túng thế giới?

Đó là một câu hỏi rất hay. Và không hề có một câu trả lời nào thuyết phục cả. Dù vậy hàng ngày trên khắp Hoa Kỳ vẫn có một số lượng lớn đến mức đáng kinh ngạc những người Ủng hộ, những người Nhân nhượng – từ những người như Fareed Zakaria, James Fallows, Tom Friedman, và Fred Hiatt đến Nicholas Kristof, David Leonhardt và Joseph Stiglitz – bảo vệ kịch liệt Trung Quốc chống lại những người muốn gây áp lực đòi thực hiện những cải cách đáng lẽ phải làm từ lâu rồi.

Thực vậy, chính sự hiện diện của Liên minh Ủng hộ Trung Quốc không chính thức này trong lãnh thổ Hoa Kỳ có một ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị: chúng ta với tư cách là một quốc gia không thể đương đầu một cách hiệu quả với chính phủ Trung Quốc khi nào chúng ta chưa xác định rõ những người biện hộ này để bác bỏ những luận điệu đánh hỏa mù bằng ngôn ngữ tháp Babel chống lại sự thay đổi có ý nghĩa trong quan hệ Hoa Kỳ – Trung Quốc này.

Đó là mục đích bao trùm của chương này, và để bắt đầu, đây là bản liệt kê của sáu nhóm chính trong Liên minh Ủng hộ Trung Quốc. Họ bao gồm những nhóm sau, không theo một thứ tự nhất định:

• Những người theo khuynh hướng Tự do hy vọng “Dân chủ hóa và thuần hóa con Rồng Trung Quốc”

• Những người theo khuynh hướng Bảo thủ “Mặc kệ những đợt tấn công của bọn con buôn, cứ hướng đến tự do mậu dịch bằng mọi giá”

• Những người uốn nắn dư luận có lợi cho các chủ ngân hàng Wall Street (The Wall Street Banker Expat Spin Doctors.)

• Những kẻ nhân nhượng trong giới lãnh đạo tại Washington

• Những người [mệnh danh] là bậc thầy toàn cầu hóa trong “Thế giới phẳng”

• Những “tập đoàn tư vấn” muốn lấy lòng Gấu Trúc.

Những người theo khuynh hướng Tự do hy vọng “Dân chủ hóa và thuần hóa con Rồng Trung Quốc”

Tổng thống Clinton sẽ chấm dứt hàng năm dài tranh luận về chính trị và kinh tế vào ngày thứ Ba và đánh dấu một thành tựu lớn của chính quyền thời ông ta bằng việc phê chuẩn việc bình thường hóa mậu dịch với Trung Quốc… Nước cờ này nhằm mở cửa thị trường Trung Quốc rộng lớn cho doanh nghiệp Hoa Kỳ và mở đường cho Trung Quốc gia nhập Tổ chức Mậu dịch Thế giới… Tổng thống Clinton lập luận rằng đưa Trung Quốc gia nhập vào cơ chế mậu dịch toàn cầu sẽ giúp Trung Quốc trở thành một thành viên đáng tin cậy và có trách nhiệm hơn trong cộng đồng quốc tế.

– CNN

Điểm chính yếu trong lập luận của những người theo khuynh hướng Tự do “Dân chủ hóa Rồng” cho việc ủng hộ sự nổi lên của Trung Quốc là: chúng ta phải "đưa Rồng Trung Quốc vào cuộc chơi" để thuần hóa nó.

Trong cách nhìn này, tất cả những gì mà một Trung Quốc toàn trị thật sự cần để trở thành một Trung Quốc dân chủ là thời gian và một liều thuốc mạnh của kinh tế thịnh vượng. Bằng việc trở nên giàu có hơn, lập luận tiếp tục, “họ” sẽ trở thành như “chúng ta”, có nghĩa là một nền dân chủ dân sự tôn trọng tự do ngôn luận, quyền con người, sở hữu trí tuệ, luật lệ của tự do mậu dịch và tính thiêng liêng của thùng phiếu tự do.

Chính lập luận sai lầm này là gốc rễ của những vấn đề kinh tế hiện nay của Hoa Kỳ với Trung Quốc. Đó là vì chính quyền Clinton lợi dụng nó triệt để trong những năm cuối thập niên 1990 để hỗ trợ cho chính sách “đưa Trung Quốc vào cuộc chơi” và áp lực Quốc hội thông qua các dự luật để đưa Trung Quốc vào Tổ chức Mậu dịch Thế giới trong năm 2000.

Tất nhiên, lịch sử đã cho thấy đây là một ‘người tình’ chẳng có gì là khả ái của Tổng thống Clinton. Trong thập niên qua, Hoa Kỳ đã chỉ nhận được kết quả ngược lại lời hứa hẹn từ chính sách “đưa Trung Quốc vào cuộc chơi” của chính quyền ông ta.

Thật vậy, nền kinh tế Trung Quốc càng tạo ra nhiều của cải cho tầng lớp trung lưu đang gia tăng thì lại càng nhiều người dân Trung Quốc sẵn sàng chấp nhận ý tưởng rằng chủ nghĩa toàn trị vừa là cần thiết vừa là điều nên có để giữ cho [sự tăng trưởng] kỳ diệu này được tiếp tục. Giáo sư Hạ Minh (Ming Xia) đã mô tả nhận định hoàn toàn sai lầm của nhóm khuynh hướng Tự do Hoa Kỳ đã về trường phái Tân Bảo thủ Á châu như sau:

Ở Tây phương, những nhà dân chủ tự do thường mong đợi rằng nền kinh tế thị trường mới nổi sẽ tạo ra một tầng lớp trung lưu đủ lớn, tầng lớp này sẽ trở thành xương sống của xã hội dân sự và là động lực thúc đẩy quá trình dân chủ. Nhưng nhiều chuyên gia về Á châu đã thấy rằng điều này không đúng ở Đông Á: dưới chủ nghĩa tư bản do chính phủ điều khiển ở Đông Á, tầng lớp trung lưu thường lệ thuộc vào chính phủ để có công ăn việc làm (chuyên viên và viên chức chính quyền) và nguồn tài lực (giới doanh nghiệp) và vì vậy không chủ động trong việc chống lại chính phủ. Đây cũng là tình trạng ở Trung Quốc. Không có gì là ngạc nhiên khi thấy tầng lớp trung lưu đã đứng về phe chủ nghĩa tân bảo thủ ở Trung Quốc từ những năm 1990.

Một cách dản dị hơn, có quá nhiều người Trung Quốc dường như sẵn sàng từ bỏ các quyền tự do ngôn luận và quyền con người để đổi lấy quyền và tiền cần thiết để mua xe BMW và bánh Big Mac (*). Đó là lý do tại sao giáo sư Đại học Harvard Samuel Huntington cảnh báo những người theo khuynh hướng Tự do giữa thập niên 1990 không nên tin hoàn toàn vào khái niệm đưa Trung Quốc vào cuộc chơi. Cảnh báo của Huntington được mô phỏng trong tờ Taiwan Review:

Tinh túy của nền văn minh Tây phương là Magna Carta (**), chứ không phải Magna Mac (tức Big Mac). Thực vậy, người Trung Quốc có thể ăn bánh Big Mac hay thậm chí lái xe hơi, nhưng vẫn không quan tâm đến việc đưa dân chủ vào trong nền chính trị của họ, đặc biệt khi họ phát triển mạnh dưới sự lèo lái của chính phủ chủ nghĩa tư bản toàn trị.

Khi suy nghĩ về vấn đề này, chúng tôi muốn làm sáng tỏ một điểm: Không có cái gọi là “đặc tính cố hữu của người Trung Hoa” đối với chủ nghĩa toàn trị và không có gì khiến cho người Trung Hoa không thể hưởng sự thịnh vượng trong một xã hội tự do. Thực vậy, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore và Hoa kiều khắp thế giới đã chứng minh điều này nhiều lần.

Thật ra, sự thành công của người Trung Quốc trong các chế độ khác dân chủ hơn là kết quả của lòng tự hào, đạo lý làm việc cần cù, và tinh thần coi trọng học vấn. Tuy vậy, thật buồn là bộ máy tuyên truyền của Đảng Cộng sản đã thuyết phục một cách dối trá một bộ phận quan trọng người Trung Quốc và nhiều người trên thế giới rằng "sự lãnh đạo sáng suốt" của Đảng Cộng sản đã tạo ra sự giàu có cho Trung Quốc.

Vì vậy lần tới khi bạn nghe những người theo khuynh hướng Tự do khăng khăng đòi chúng ta phải đưa Rồng Trung Quốc vào cuộc chơi và thuần hóa nó, hãy nhắc nhở họ rằng khái niệm vào cuộc chơi chỉ đúng nếu Trung Quốc sẵn sàng chơi theo luật Tây phương – không phải tạo ra một luật của riêng mình.

Những người theo khuynh hướng Bảo thủ “Mặc kệ những đợt tấn công của nhóm Ủng hộ Thương mại, cứ hướng đến tự do mậu dịch bằng mọi giá”

Như thể nền kinh tế thế giới chưa đủ yếu ớt, các chính trị gia ở Hoa Kỳ và Trung Quốc dường như dự tính tiến hành một cuộc chiến tranh tiền tệ kiểu cũ. Trong vấn đề này Hoa Kỳ sai nhiều hơn Trung Quốc, và điều quan trọng là tìm hiểu lý do tại sao, để hai quốc gia này đừng đưa thế giới quay về thời kỳ đen tối của chủ nghĩa bảo hộ theo kiểu lợi mình hại người.

– The Wall Street Journal

Sợ có người nghĩ chúng tôi đang phê phán nhóm khuynh tả một cách quá khích. Nhưng quý vị có biết không? Ít ra có một bộ phận trong nhóm khuynh hữu ở Hoa Kỳ cũng bị phê phán như vậy.

Đặc trưng của phái bảo thủ “Mặc kệ những đợt tấn công của nhóm Ủng hộ Thương mại, cứ hướng đến tự do mậu dịch bằng mọi giá” là một niềm tin mù quáng vào nguyên lý của tự do mậu dịch bất kể các chính sách ủng hộ thương mại và bảo hộ mà đối tác thương mại của Hoa Kỳ áp dụng. Tuy nhiên, như chúng ta đã được biết một cách đau đớn trong Chương 4 “Cái chết của nền sản xuất Hoa Kỳ”, mậu dịch tự do chỉ mang lại lợi ích cho cả hai nếu cả hai chơi theo luật. Nếu không, và trường hợp điển hình là quan hệ thương mại bất cân xứng Hoa Kỳ – Trung Quốc, quốc gia này sẽ được lợi do sự mất lợi tức, việc làm, nền tảng sản xuất và sự thịnh vượng của quốc gia kia.

Có lẽ điều đáng bận tâm nhất về những người theo khuynh hướng Bảo thủ “Hướng đến tự do mậu dịch bằng mọi giá” là gần như không thể trình bày hơn thiệt với họ. Những người không tưởng luôn tự cho mình đúng này hình như bỏ qua mọi vi phạm luật lệ tự do mậu dịch của Trung Quốc trong khi nhất định cho rằng Hoa Kỳ cần tiếp tục tuân thủ những luật lệ này. Thật vậy, trong cách suy nghĩ nặng về ý thức hệ này không hề có sự minh mẫn để phân biệt, ví dụ, giữa các loại thuế bảo hộ và các hạn ngạch xấu nhằm đóng cửa không cho người nước ngoài vào thị trường, với các biện pháp tự vệ chính đáng như các sắc thuế để chống trả những trợ cấp trái luật của chính phủ Trung Quốc.

Vậy thì ai là người mà chúng ta muốn nói đến đây? Điểm khởi đầu có ích là những trang xã luận của tờ The Wall Street Journal. Bởi vì như đoạn trích dẫn mở đầu của mục này cho thấy, bất cứ khi nào chủ đề cải cách thương mại xuất hiện, tờ The Wall Street Journal và cả bầy xã luận và bình luận của báo đều hăng hái công kích với các luận điệu tuyên truyền ăn khách thường lệ. Cách thức này luôn bắt đầu với việc quy kết bất cứ hành động phòng vệ nào chống lại Trung Quốc là “chủ nghĩa bảo hộ”. Sau khi kích động bằng cách gán cho cái nhãn hiệu “bảo hộ”, tờ The Wall Street Journal lại đưa ra một cảnh báo sẽ xảy ra cuộc chiến thương mại kinh khủng nếu Hoa Kỳ cố gắng bảo vệ chống lại thủ đoạn của Trung Quốc cạnh tranh để loại bỏ đối thủ.

Tất nhiên, nếu có thể có cải cách thật sự thì tờ The Wall Street Journal sẽ hết sức cố gắng hù dọa chúng ta bằng việc nhắc đến vai trò của sắc thuế Smoot-Hawley (***) trong việc gây ra cuộc Đại Khủng hoảng. Lập luận này thật khó ngửi nhưng phải công nhận nó lại là luận điệu tuyên truyền hiệu nghiệm rất tốt cho cái ẩn ý “Tự do mậu dịch bằng mọi giá” trong những năm qua của tờ báo này.

Nói như vậy không có nghĩa tờ The Wall Street Journal là thành viên đơn độc trong thành phần ưu tú của giới báo chí tài chính trong việc đả kích những người muốn cải cách quan hệ với Trung Quốc. Thật đáng tiếc, hai thành viên có tầm vóc quốc tế khác – nhật báo Financial Times và tạp chí Economist – cũng có tư tưởng thiên về phía bỏ qua các hành vi thương mại bất chính của Trung Quốc vì sợ rằng công kích những hành vi như vậy sẽ làm phương hại tới hệ thống mậu dịch tự do toàn cầu.

Chúng ta cũng sẽ bị thiếu sót nếu chúng ta không kể thêm vào tập đoàn trường phái Biện hộ này nhiều người bảo thủ trong giới kinh điển và các tổ chức tư vấn về chính sách. Ví dụ, Dan Griswold ở Viện Cato, và Ed Feulner của Hội Di sản cứ lải nhải với giai điệu tự do mậu dịch này. Và Greg Mankiw thuộc Đại học Harvard và Ronald McKinnon thuộc Đại học Stanford cũng được liệt kê vào những người nêu cao lá cờ tự do mậu dịch ngay khi thấy dấu hiệu đầu tiên của những đạo luật Quốc hội về các vấn đề như cải cách tiền tệ. Tuy nhiên, những gì mà tất cả những nhà không tưởng lão hóa này dường như không nhận ra là:

Trung Quốc đang gây phương hại rất nhiều đến tự do mậu dịch trong triển vọng toàn cầu dài hạn hơn bất cứ một biện pháp tự vệ nào chống lại chủ nghĩa con buôn và bảo hộ Trung Quốc có thể gây ra.

Những người uốn nắn dư luận có lợi cho các ngân hàng Wall Street

Tổng những nguồn lực của Goldman Sachs, GSGH và công ty Chứng khoán Cao Hoa (Gao Hua) là nhóm lớn nhất trong số các ngân hàng đầu tư quốc tế tại Trung Quốc.

– Trang mạng của Goldman Sachs

Chúng ta không đặt dấu hỏi gì về cả tính chính trực lẫn động cơ của những người theo khuynh hướng Tự do “Dân chủ hóa và thuần hóa con Rồng Trung Quốc” hay những người theo khuynh hướng Bảo thủ “Hướng đến tự do mậu dịch bằng mọi giá” vì nhiệt tình giữ lập trường của họ dựa trên ý thức hệ. Tuy nhiên sự đánh giá khoan nhượng này không thể áp dụng cho thành phần thứ ba trong Liên minh Ủng hộ Trung Quốc.

Thành phần này gồm những người gốc ngoại quốc uốn nắn dư luận có lợi cho các ngân hàng Wall Street đại diện cho tất cả các ngân hàng lớn và các công ty dịch vụ tài chính đã trương bảng hiệu lớn tại Trung Quốc và hiện đang đua nhau hốt bạc – thường là thiệt hại cho Hoa Kỳ. Dĩ nhiên, chiến lược chính của nhóm này là sử dụng các lập luận được công chúng yêu thích để làm tăng lợi ích tài chính của bản thân họ.

Không thể chối cãi được, những người vi phạm tồi tệ nhất trong nhóm này là các tài phiệt khổng lồ như Goldman Sachs và Morgan Stanley. Họ đã thiết lập một số chi nhánh thuộc loại lớn nhất của Hoa Kỳ tại Trung Quốc, thường có mối quan hệ khăng khít với các quan chức Trung Quốc, và muốn giữ cho không gì có thể làm chao đảo con thuyền vàng của họ.

Theo chiều hướng này, họ đã thuê hai trong số những kẻ biện hộ nổi tiếng nhất trong cuộc tranh luận về Trung Quốc – Jim O’Neil, chủ tịch nhóm Quản trị Tích sản của Goldman Sachs, và Stephen Roach, cựu chủ tịch của Morgan Stanley Á châu. Cũng như các người bình luận của tờ The Wall Street Journal, hai người này nhanh chóng chụp mũ bất cứ ai có tư tưởng cải cách với Trung Quốc là “Kẻ bảo hộ” hay là “Kẻ đả kích Trung Quốc” – và cả hai đều được báo chí chính phủ Trung Quốc đề cao như những ngôi sao nhạc rock. Nhưng những điều khiến hai kẻ biện hộ nặng ký này nổi bật giữa đám đông là họ sử dụng tài tình các lập luận kinh tế và bóp méo những con số thống kê.

Hãy xem Jim O’Neil như một ví dụ. Trong thời gian trước khi có một quyết định cực kỳ quan trọng của Bộ Tài chính Hoa Kỳ về vấn đề Trung Quốc thao túng tiền tệ, tờ Financial Times đã dành cho O’Neil một cột báo để đưa ra một luận điệu không thể tin được là “đồng nhân dân tệ rất gần với giá trị thực của nó”. Đúng vậy, Jim, [nói như ông] thì Mao Trạch Đông là một nhà tư bản.

Và đây là đoạn trích dẫn gây hoang mang từ tờ China Daily của chính quyền Bắc Kinh. Bằng nét mực dính máu, tờ báo này đã nhanh chóng tiếp lời cho Stephen Roach như sau:

Chủ tịch Morgan Stanley Á châu Stephen Roach nói vào hôm thứ Sáu rằng sẽ thật mỉa mai cho Hoa Kỳ khi quy kết tiền tệ của Trung Quốc gây nên tỷ lệ thất nghiệp cao và thâm thủng mậu dịch, và những trừng phạt thương mại chống Trung Quốc sẽ đưa đến một kết quả tai hại cho Hoa Kỳ… Thâm thủng mậu dịch song phương Hoa Kỳ – Trung Quốc hầu như không phải do đồng nhân dân tệ gây ra. Nó phản ảnh một sự thật rằng Hoa Kỳ không tiết kiệm và những quốc gia không tiết kiệm phải nhập cảng tiết kiệm thặng dư từ nước ngoài.

Giỏi thật! Chỉ trong một đoạn văn, Roach đã hoàn toàn đổ lỗi cho Hoa Kỳ về vấn đề thâm thủng mậu dịch lớn với Trung Quốc, dùng luận điệu gây hoang mang sợ hãi để làm tăng nỗi ám ảnh của “kết quả tai hại” mơ hồ, và nhất là khẳng định một cách rất khó tin rằng đồng nhân dân tệ định giá thấp của Trung Quốc không thực sự là một yếu tố.

Roach cũng chẳng tế nhị gì hơn. Phản ứng lại một lời phê bình gay gắt của một người đoạt giải Nobel về vấn đề đồng nhân dân tệ bị định giá thấp, Roach hùng hổ nói: “Tôi nghĩ cần cho Paul Krugman một trận gậy bóng chày”.

Tất nhiên, khi đọc những điều như thế này, chúng ta luôn tự hỏi tại sao Trung Quốc không sẵn lòng định giá đồng tiền của nó một cách hợp lý nếu, như Roach xác nhận, nó không thật sự là một lực đẩy lớn cho nền kinh tế của Trung Quốc. Về lời cáo buộc “Hoa Kỳ không tiết kiệm”, Roach phủ nhận vai trò quan trọng mà quá trình thao túng đồng nhân dân tệ gây nên trong việc ép lãi suất của Hoa Kỳ thấp một cách giả tạo và do đó giảm tỷ lệ tiết kiệm của Hoa Kỳ.

Có lẽ điều làm cho người ta khó chịu nhất về những người như O’Neil và Roach là họ sẵn sàng nhào nặn số liệu thống kê theo chiều hướng họ muốn nói gì cũng được. Hãy xem lời xác nhận mà Roach đưa ra trong một cuộc phỏng vấn trên Barron’s:

Năm ngoái, Hoa Kỳ bị thâm thủng mậu dịch với 90 quốc gia. Trung Quốc là lớn nhất, nhưng có 89 quốc gia khác cộng lại nhiều hơn số thâm thủng mậu dịch của chúng ta với Trung Quốc.

Ồ, thật vậy sao ông Roach. Trên thực tế, một mình Trung Quốc góp vào 45% của tổng số thâm thủng mậu dịch về hàng hóa của Hoa Kỳ, 89 quốc gia khác của Roach chia nhau 55% còn lại, tức là mỗi quốc gia góp vào trung bình ít hơn 1% tổng số thâm thủng mậu dịch.

Cụ thể hơn nữa, Trung Quốc góp đến 75% trong tổng số thâm thủng mậu dịch hàng hóa khi không kể đến nhập cảng xăng dầu. Tuy nhiên với vai trò “cãi thuê đánh mướn” “Lee Atwater” cho “Kinh tế con Rồng”, Roach còn thành công với việc cáo buộc – hoàn toàn không có cơ sở – các quốc gia khác chịu trách nhiệm "nhiều hơn" cho vấn đề thâm thủng mậu dịch của Hoa Kỳ.

Dĩ nhiên, nhìn rộng hơn là khi bạn thấy những người bênh vực Wall Street như O’Neil và Roach lập luận chống lại những cải cách có ý nghĩa với Trung Quốc, hãy nhớ rằng họ làm việc cho ai và nồi cơm của họ đến từ đâu.

Những kẻ nhân nhượng trong giới lãnh đạo của Washington

Tôi tin rằng đó là hòa bình trong thời đại chúng ta.

– Neville Chamberlain

Tôi tuyệt đối tin rằng sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc là tốt cho thế giới, và cũng tốt cho Hoa Kỳ.

– Barack Obama

Trong thập niên qua, Trung Quốc áp đặt được lối chơi vào nền kinh tế Hoa Kỳ mà có vẻ như không phụ thuộc đến việc ai đang ngồi ở Tòa Bạch Ốc, đang điều hành Bộ Tài chính, hay đảng nào chiếm đa số trên đồi Capitol. Bất chấp đảng chính trị nào nắm chính quyền, sự đồng thuận trong giới lãnh đạo ở Washington luôn luôn là nhân nhượng thay vì đối đầu với con Rồng Trung Quốc.

Đối với Tổng thống George Bush, vấn đề chủ yếu thuộc về ý thức hệ – là một nhà theo môn phái mậu dịch tự do, ông ta đã lường được thiệt hại gây ra cho nền tảng sản xuất Hoa Kỳ bởi một Trung Quốc mang tư tưởng con buôn và bảo hộ. Thêm vào đó Bush lại bị bận tâm với cuộc chiến ở Iraq, cuộc chiến chống khủng bố, và sự ám ảnh của ông ta với bọn ma quỷ. Kết quả là chúng ta đã bị ảnh hưởng bởi tám năm của chính sách “không thấy tai họa Trung Quốc” từ người quyền lực nhất hành tinh.

Nhân đây chúng tôi phải thú nhận. Cả hai chúng tôi kỳ vọng rằng một khi chúng ta có một sự thay đổi chính thể ở Washington trong cuộc bầu cử 2008, Hoa Kỳ sẽ nhanh chóng chuyển sang đường lối có những cải cách có ý nghĩa với Trung Quốc. Tuy nhiên, với Tổng thống Barack Obama, cuối cùng quá rõ ràng rằng chúng ta đã đánh đổi một kẻ nhân nhượng trong giới lãnh đạo của Washington bằng một kẻ nhân nhượng khác.

Điều bận tâm nhất trong sự kiện này là Tổng thống Obama dường như hoàn toàn không đủ khả năng nhận ra những điểm đang ngày càng rõ ràng cho thấy mối liên hệ giữa sự khốn khó của nền kinh tế Hoa Kỳ với Vũ khí Hủy diệt Việc làm của Trung Quốc. Có lẽ bởi vì ông tin rằng ông cần tiếp tục vay tiền của Trung Quốc để tài trợ cho gói kích thích tài chính công và thâm hụt ngân sách khổng lồ. Có lẽ vì ông ta đã chọn các cố vấn và phụ tá thân cận gồm các thành viên nội các và cố vấn thân Trung Quốc như Jason Furman của Nhà Trắng, Bộ trưởng Thương mại Gary Locke, Giám đốc Cao cấp Hội đồng An ninh Quốc gia Jeffrey Bader, Lael Brainard của Bộ Tài chính, và các viên chức cao cấp tại Bộ Ngoại giao như James Steinbarg và Kurt Campbell.

Đáng ngại nhất, có lẽ là Tổng thống Obama thật sự không hiểu những rắc rối của kinh tế vĩ mô toàn cầu và, như Thủ tướng Anh Neville Chamberlain trước đây, ông “tuyệt đối tin” rằng “sự trỗi dậy” của Trung Quốc sẽ “hòa bình” và “tốt cho Hoa Kỳ”. Dù sao đi nữa, về vấn đề Trung Quốc, hai ông chủ gần đây của Tòa Bạch Ốc đã không phục vụ tốt chúng ta, những người sống ở Hoa Kỳ.

Và với hai ngài tổng thống như vậy, không có gì ngạc nhiên khi chúng ta có những câu chuyện tương tự chuyện của hai Bộ trưởng Tài chính, Henry Paulson của Bush và Timothy Geithner của Obama. Dù đã có rất nhiều cơ hội – và những bằng chứng đầy rẫy! – cả hai đã từ chối nhiều lần làm một việc quan trọng nhất và trực tiếp nhất mà đất nước này có thể thực hiện trên con đường hướng đến cải cách thương mại có ý nghĩa với Trung Quốc, đó là quy cho Trung Quốc là quốc gia thao túng tiền tệ.

Dĩ nhiên, không ai thật sự mong đợi Hank Paulson dẹp nạn bom tiền tệ của Trung Quốc. Bởi vì, trước khi trở thành Bộ trưởng Tài chính, Paulson là một trong những người chủ chốt của "Những giới uốn nắn dư luận có lợi cho các ngân hàng Wall Street". Thực vậy, trong cương vị là Chủ tịch và Tổng Giám đốc Điều hành của Goldman Sachs, Paulson đã hơn 70 lần đi đến Trung Quốc. Mối liên lạc với Trung Quốc của Paulson đã giúp cho hãng của ông ta kiếm hàng trăm triệu đô–la; do đó không thể nào một tay trong như vậy của Wall Street lại cắn bàn tay Bắc Kinh vốn cho các đồng chí của Goldman Sachs những món béo bở.

Còn việc Timothy Geithner thay đổi một cách nhanh chóng thành một nhà ủng hộ Trung Quốc như thế nào còn hơn là một điều bí ẩn. Quả thực là nhanh một cách ‘biến hiện khôn lường’. Trong một giây phút chớp nhoáng, Geithner đi từ một nhà ủng hộ cải cách [đối với] Trung Quốc, hứa hẹn sẽ quy kết Trung Quốc là một nước thao túng tiền tệ trong suốt cuộc điều trần của ông ta, đến một người nhân nhượng Trung Quốc ngay khi ông ta ngồi vào văn phòng Bộ Tài chính.

Những bậc thầy toàn cầu hóa “Thế giới phẳng”

Cho đến giờ, mối quan hệ kinh tế với Trung Quốc của Hoa Kỳ đã thành công và có lợi – và có lợi cho cả hai phía…

Ca làm việc trong nhà máy [ở Trung Quốc] thường là 12 giờ, và thường với hai lần nghỉ để ăn (có trợ cấp hay miễn phí), sáu hay bảy ngày một tuần. Mỗi khi công việc ít đi một chút – nếu dây chuyền bị dừng lại vì lý do nào đó, nếu một công nhân có dư được chút thời gian sau giờ ăn – nhiều người gục đầu vào cái bàn trước mặt họ và có vẻ ngủ ngay lập tức.

– James Fallows

Làm thế nào mà một trí thức Hoa Kỳ như James Fallows lại có thể hòa hợp được [sự mâu thuẫn giữa] phát biểu đầu tiên của ông ta với quan sát thứ hai của ông ta? Điều này cũng là một câu hỏi hay; nhưng nếu những bậc thầy toàn cầu hóa của Hoa Kỳ giỏi một thứ gì đó, thì đó là khả năng quét những mâu thuẫn xuống dưới tấm thảm của những câu chuyện thần tiên [cho rằng] việc các công xưởng Trung Quốc bóc lột mồ hôi nước mắt của người công nhân lại mang lợi ích đến cho Hoa Kỳ và những công nhân Hoa Kỳ.

Những bậc thầy toàn cầu hóa là ai, họ là những ông (đôi khi là bà) vốn viết những bài ca tụng khéo léo đăng lên những trang tạp chí và báo uy tín như Atlantic Monthly, The New York Times, và Time. Ngoài Fallows, họ còn có những cái tên như Tom Friedman, Nicholas Kristof, và vâng, Fareed Zakaria đã đề cập trước đây.

Điểm chung của những người đưa ra những luận điệu mê hoặc về “Thế giới phẳng” tuyệt vọng là họ tin tưởng một cách thiếu cơ sở rằng các công nhân Hoa kỳ và các công ty tuyển dụng họ không còn khả năng cạnh tranh về mặt giá thành với các quốc gia đang phát triển như Trung Quốc.

Cái hội đồng của các vị tuyệt vọng này vừa kỳ dị vừa phản thực tế bởi vì trong lịch sử, Hoa Kỳ luôn có khả năng cạnh tranh với các nước lương thấp bằng ưu thế năng suất vượt trội của nó. Với ưu thế đó, thì không phải là điều quan trọng nếu những người công nhân ở Thâm Quyến hay Sài Gòn được trả lương 50 xu một giờ trong khi đó những người công nhân Hoa Kỳ được trả lương gấp 30 lần nếu những người công nhân Hoa Kỳ được trang bị kỹ thuật mới hơn và thiết bị sản xuất vượt trội có năng suất gấp 30 lần.

Dĩ nhiên, vấn đề hiện nay của Hoa Kỳ với Trung Quốc là Hoa Kỳ không chỉ cạnh tranh về lương thấp. Như chúng ta đã đề cập nhiều ở Chương 4, các công ty Hoa Kỳ và công nhân của họ phải vượt qua những trợ cấp xuất cảng phi pháp thao túng tiền tệ, và hàng loại Vũ khí Hủy diệt Việc làm khác của Trung Quốc. Tuy nhiên, đừng có một người Mỹ nào tỏ ý nghi ngờ một sự thật kinh tế lâu đời này:

Cùng trên sân chơi bằng phẳng như nhau với Trung Quốc hay bất cứ quốc gia nào khác, các công ty Hoa Kỳ và công nhân của họ có thể cạnh tranh với bất cứ ai trên thế giới.

Chính vì sự thật kinh tế lâu đời này mà tại thời điểm chuyển tiếp này trong lịch sử chúng ta cần có những cải cách thương mại và tiền tệ thật sự đối với một Trung Quốc chơi xấu. Mặc dù vậy, các bậc thầy toàn cầu hóa từ chối ghi nhận sự thật này và thay vào đó cứ khăng khăng cho rằng những người công nhân Hoa Kỳ không cần xin làm những công việc sản xuất bởi vì những công việc này "tất yếu" chạy đến các nước như Trung Quốc.

Lời phàn nàn của chúng ta với những bậc thầy toàn cầu hóa không phải chỉ vì họ đã hoàn toàn sai lầm mà là vì họ sử dụng những đặc quyền và thế lực của họ tại những địa vị thống trị trong giới truyền thông để đưa ra những luận điệu sai lầm và có khi dối trá trắng trợn với công chúng Hoa Kỳ nhằm cổ động cho ẩn ý toàn cầu hóa của họ. Ví dụ hãy xem cái ông Fareed Zakaria lớn tiếng chống lại cải cách tiền tệ với Trung Quốc từ vị trí đặc quyền của ông ta trên tạp chí Time:

Vào ngày 29/9, Hạ viện đã thông qua một đạo luật [sẽ] trừng phạt Trung Quốc vì tội duy trì tiền tệ của họ dưới giá trị thật bằng việc đánh các sắc thuế vào hàng hóa Trung Quốc. Mọi người dường như đồng ý rằng đã đến lúc phải làm như vậy. Nhưng không phải thế. Đạo luật này hoàn toàn vô nghĩa và là một sự mỵ dân nguy hiểm nhất. Nó sẽ không giải quyết vấn đề mà nó muốn giải quyết. Đáng lo ngại hơn, nó là một phần của tâm lý chống Trung Quốc đang tăng lên ở Hoa Kỳ và bỏ qua sự thách thức thật sự của giai đoạn phát triển sắp tới của Trung Quốc.

Quả thật, bộ máy tuyên truyền của Bắc Kinh cũng không thể tung ra một mánh lới tránh né tài tình hơn. Lập luận rằng đạo luật cải cách tiền tệ sẽ “trừng phạt Trung Quốc”, trước hết Zakaria đã mô tả Trung Quốc như là một nạn nhân đáng thương bị “đánh” bởi các sắc thuế hơn là một con buôn săn mồi mà Hoa Kỳ phải tự vệ chống lại. Xin Fareed hãy trở về với thực tế: định giá đồng tiền của bạn thấp hơn 40% chỉ nhằm bòn rút các đối tác thương mại của bạn mới là vi phạm các luật lệ mậu dịch tự do.

Sau đó Zakaria còn quả quyết rằng đánh thuế trả đũa để bù lại việc Trung Quốc định giá thấp đồng tiền “sẽ không giải quyết được vấn đề mà nó đang tìm cách giải quyết”. Ồ thật không? Nếu vấn đề là đưa đồng tiền của Trung Quốc trở về giá trị thật, dĩ nhiên các biện pháp phản ứng sẽ công hiệu, và những sắc thuế như vậy sẽ tạo ra thu nhập đang vô cùng cần thiết cho chính phủ Hoa Kỳ cho đến khi Trung Quốc phải hoặc bỏ cuộc hoặc chơi một cách công bằng.

Cũng lưu ý rằng người "mèo chê mèo dài đuôi" như Zakaria đã khéo léo quy kết cho bất kỳ ai hỗ trợ cải cách thương mại như là một người theo đuổi chủ nghĩa “mỵ dân nguy hiểm”. Thế còn luận điệu la lối của Zakaria thân Trung Quốc là gì nếu không đi đôi với luận điệu [gán cho người khác] là “đả kích Trung Quốc” và “tâm lý chống Trung Quốc ngày càng gia tăng”.

Đây thật sự là một kiểu tuyên truyền bậc thầy mà nhờ vậy Time Warner đã thưởng cho Zakiria khá hậu hĩnh. Nhưng vấn đề lớn hơn với các “nhà bình luận thông thái” như Zakaria là họ đơn giản không hề tiến hành một cuộc nghiên cứu thật sự nào để bênh vực cho những lời khẳng định thân Trung Quốc của họ.

Ví dụ hãy xem Zakaria mô tả, trong cùng bài báo tạp chí Time ở trên, những đặc điểm của các yếu tố khiến cho Trung Quốc có lợi thế về chi phí so với các nhà sản xuất Hoa Kỳ. Với Zakaria, vấn đề không chỉ là lương thấp. Nó còn là các yếu tố khác như “chính sách thân thiện cởi mở với giới kinh doanh, các công đoàn dễ bảo, và một lực lượng lao động chăm chỉ”.

Dĩ nhiên, phân tích của Zakaria đầy rẫy những sai lầm nho nhỏ. Trong đặc điểm “thân thiện cởi mở với giới kinh doanh”, Zakaria chắc phải tin rằng nạn tham nhũng lan tràn ở Trung Quốc bằng cách nào đó giúp cải thiện môi trường kinh doanh. Zakaria nói là “các công đoàn dễ bảo”,thì cũng chẳng khác gì tô son trát phấn cho heo; các công đoàn lao động Trung Quốc chỉ có trên danh nghĩa và xin Thượng Đế (có một đội bác sĩ đi kèm) phù hộ cho người nào muốn đứng ra thành lập một công đoàn biết tranh đấu thật sự tại Trung Quốc. Còn “lực lượng lao động chăm chỉ” của Trung Quốc, nếu ông muốn nói là người Mỹ [lười biếng] không chịu làm việc 12 giờ một ngày, 6 ngày một tuần với giờ nghỉ đi vệ sinh theo quy định trong môi trường làm việc tệ hại của xưởng máy, thì thưa ông Fareed, chúng tôi xin nhận là ông nói đúng.

Nhưng những điều này chỉ là những điều bắt bẻ nhỏ nhặt về phân tích của Zakaria về lợi thế chi phí sản xuất của Trung Quốc. Vấn đề lớn thật sự trong lập luận của ông ta là ông không hề đề cập đến những nguồn gốc thật của lợi thế cạnh tranh của Trung Quốc. Tất nhiên những thứ này chính là những Vũ khí Hủy diệt Việc làm như đã nói trước đây vốn vi phạm hầu hết mọi luật lệ trong tự do thương mậu dịch. Một lần nữa như đã nêu ra trong Chương 4, chúng bao gồm các trợ cấp xuất cảng đại quy mô trái luật của Trung Quốc, hành động thao túng tiền tệ ngang ngược, việc ăn cắp bản quyền và làm hàng giả tràn lan, chính sách phi pháp trong việc bắt buộc chuyển giao kỹ thuật, vân vân. Trong cái ‘vân vân’ đó, chúng ta đừng quên lợi thế chi phí của các nhà máy của Con Rồng có được từ việc sử dụng các con sông, con suối và bầu khí quyển thế giới như là những địa điểm xả rác thải khổng lồ.

Vậy thì tại sao Zakaria cố tình bỏ sót những nguồn gốc quan trọng nhất của lợi thế cạnh tranh của con Rồng Trung Quốc ngoài lao động giá rẻ của nó? Thực ra có thể có hai lý do.

Lý do thứ nhất là Zakaria hiểu sức mạnh của những Vũ khí Hủy diệt Việc làm này nhưng cố tình bỏ qua chúng. Như vậy là có vấn đề về sự ngay thẳng của ông.

Lý do thứ hai là Zakaria thật sự không hiểu khía cạnh kinh tế của quan hệ mậu dịch Hoa Kỳ – Trung Quốc. Nó đưa đến vấn đề là ông ấy có đáng tin cậy hay không – và rất có thể vào một ngày nào đó nhà bình luận thông thái rỗng tuếch này hạng siêu này sẽ tan theo mây khói nên biến đi .

Dĩ nhiên, tới đây bạn có thể nghĩ chúng tôi chỉ trích Fareed Zakaria với ác ý, nhưng chúng tôi làm vậy chỉ vì chúng tôi tin rằng ông ta không chỉ là một trong số những người ảnh hưởng nhất của cái gọi là những bậc thầy toàn cầu hóa mà còn là nhân vật vô trách nhiệm nhất của đám người đó. Để chứng minh cho điểm này, cũng cần đánh giá lập luận cuối cùng của những bậc thầy toàn cầu hóa mà Zakaria đã tiếp tay phổ biến. Lập luận của ông Zakaria [dân Bombay] này cũng ngớ ngẩn, hoàn toàn xa vời thực tế chẳng khác gì câu bà Marie Antoinette [dân Pháp] – khi nghe nói dân chúng không có bánh mì ăn – đã nói “Vậy thì cho chúng có ăn bánh ngọt” . Lập luận đó như sau: ngay cả khi Trung Quốc sẵn sàng từ bỏ đường lối con buôn của họ, sự tăng giá thành của hàng nhập cảng Trung Quốc sẽ không làm giảm thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ hay làm tăng số lượng việc làm sản xuất ở Hoa Kỳ. Theo Zakaria, một sân chơi bằng phẳng như thế sẽ chỉ đơn thuần, “giúp các nền kinh tế lương thấp như Việt Nam, Ấn Độ và Bangladesh, vốn làm ra các sản phẩm như của Trung Quốc”.

Dĩ nhiên, dựa trên những phân tích kinh tế của chúng tôi, chúng tôi tin rằng Zakaria đã hoàn toàn sai về điều này. Như chúng tôi đã nói, chúng tôi tin tưởng rằng các công ty và công nhân Hoa Kỳ có thể cạnh tranh với bất cứ ai trên thế giới trên một sân chơi công bằng, đặc biệt trong lãnh vực sản xuất dùng máy tự động và kỹ thuật tinh xảo thường vượt hẳn lao động chân tay.

Nhưng hãy cứ giả sử Zakaria thật sự đúng. Điều ông ta nói là Hoa Kỳ không nên trừng phạt chủ nghĩa con buôn của Trung Quốc bởi vì làm vậy thật sự không giúp đỡ chúng ta. Nó chỉ giúp một số nước thế giới thứ ba khác mà không ai (hay ít ra là Fareed) quan tâm đến – đó là những nơi trên thế giới đang chịu ảnh hưởng tồi tệ từ chính sách lợi mình hại người của Trung Quốc, như nước láng giềng tốt của chúng ta Mexico và quê hương Ấn Độ của Zakaria. Ồ, Fareed, sao lại nhẫn tâm như vậy. Ông đã quên đi nguồn gốc của ông và các khu nhà ổ chuột ở Bombay rồi chăng?

Những ban tham mưu tư vấn (think tank) ve vãn Gấu Trúc

Những ai định xây dựng một Vạn Lý Trường Thành của Hoa Kỳ để đẩy lui ảnh hưởng của Trung Quốc có thể làm nguy hại đến hòa bình và thịnh vượng dài hạn của thế giới trong khi chỉ cải thiện được một chút triển vọng thay đổi chính sách ở Trung Quốc.

– Albert Keidel, Atlantic Council

Là thành viên cuối cùng của Liên minh Ủng hộ Trung Quốc, có rất nhiều ‘think tank’ ve vãn Gấu Trúc trong và ngoài Beltway thường nhẩy vào các cuộc tranh luận về Trung Quốc. Chúng tôi không biết chắc tại sao những think tank này lại lúc nào cũng quá thân Trung Quốc như vậy và chúng tôi không có ý muốn nghi ngờ gì về lòng chính trực của họ hay những động cơ của họ. Tuy nhiên, chúng tôi muốn nhận dạng những "đối tượng tình nghi thông thường" trong nhóm này, để trong trường hợp bạn gặp những luận điệu của họ trên phương tiện truyền thông, bạn có thể không đếm xỉa một cách thích đáng đến những dữ liệu và ý kiến do họ đưa ra.

Đây là một "danh sách ngắn", không theo thứ tự nào hết, của các think tank và nhà phân tích mà chúng tôi thấy những bài viết về Trung Quốc của họ thiếu sáng suốt và sâu sắc.

• Albert Keidel của Hội đồng Atlantic

• Peter Bottelier và Doug Paal của Carnegie Endowment

• Kenneth Lieberthal, Bob Rubin và John Thornton của (và bất cứ ai liên quan đến) Viện Brookings

• Charles Freeman của (và bất cứ ai liên quan đến) Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế

• Gần như bất cứ ai liên quan đến Hội đồng Quan hệ Quốc tế (Elizabeth Economy là một ngoại lệ đáng kể)

• Ed Gresser của Viện Chính sách Tiến bộ.

Lại một lần nữa, chúng tôi không muốn nghi ngờ động cơ của những nhà phân tích này hay viện của họ. Chúng tôi chỉ muốn nói là “Người đọc, hãy cẩn thận!”

Tóm lược các luận điệu và chiến thuật của Liên minh Ủng hộ Trung Quốc

Để kết thúc chương này, cần tóm lược các điểm chính của “Liên minh Ủng hộ Trung Quốc”. Bất cứ khi nào bạn thấy một hoặc nhiều trong số những lập luận này trên các bài bình luận, xã luận, diễn thuyết, tranh luận truyền hình, hay báo cáo của các think tank, bạn có thể tin chắc rằng những kẻ đó mưu toan chống lại những cải cách có ý nghĩa với Trung Quốc. Và đây là một vài luận điệu lừa bịp thường dùng của các kẻ ủng hộ Trung Quốc:

• Kiểu điều kiện tất yếu – buộc tội bất cứ ai chỉ trích Trung Quốc là một “Kẻ đả kích (basher) Trung Quốc”.

• Kiểu Joe McCarthy – quy kết bất cứ ai ủng hộ cải cách thương mại là một “kẻ bảo hộ”.

• Kiểu hù dọa chúng ta – cảnh báo bất cứ nỗ lực nào nhằm bảo vệ Hoa Kỳ từ chủ nghĩa con buôn và bảo hộ Trung Quốc sẽ dẫn đến một “cuộc chiến mậu dịch”.

• Kiểu biến nó thành một tiểu thuyết kinh dị Stephen King – nhắc đến vai trò của các sắc thuế Smoot-Hawley trong cuộc Đại Khủng hoảng để tạo ra ấn tượng rằng một cuộc chiến mậu dịch với Trung Quốc sẽ tàn phá nền kinh tế toàn cầu.

• Kiểu “tâm lý sợ phản tác dụng” – cảnh báo rằng nếu bạn cố gắng gây áp lực bắt Bắc Kinh cam kết cải cách thì chỉ gây ra phản tác dụng.

• Kiểu lần khân trì hoãn – nhấn mạnh rằng “bây giờ” không phải là thời điểm để thực hiện các cải cách – và cứ lặp lại lập luận này từ năm này sang năm khác.

• Kiểu “lợi cho người nghèo” của Walmart – cho rằng bất cứ sự tổn hại nào đến các cơ sở sản xuất Hoa Kỳ sẽ được bù đắp nhiều hơn bằng lợi ích có được cho người tiêu dùng nhờ giá thấp của hàng hóa rẻ tiền của Trung Quốc.

• Kiểu sử dụng trò chơi ‘shell game’ (nhanh tay đánh tráo cái này sang cái khác) Stephen Roach – cho rằng vấn đề thâm thủng mậu dịch của chúng ta là một vấn đề “đa phương” với cả thế giới chứ không phải chỉ là vấn đề song phương với Trung Quốc.

• Kiểu tự trách mình – quy lỗi cho mức độ tiết kiệm thấp của Hoa Kỳ trong vấn đề bất cân xứng thương mại Hoa Kỳ – Trung Quốc chứ không phải là do các mưu đồ con buôn của Trung Quốc.

• Kiểu lừa bịp những người khờ khạo cả tin? – nói rằng đồng tiền của Trung Quốc thật sự không bị định giá thấp đến mức đó – hay không bị định giá thấp chút nào.

• Kiểu sử dụng chống chế Marie Antoinette – Fareed Zakaria – cho rằng cải cách mậu dịch với Trung Quốc sẽ không giúp Hoa Kỳ mà chỉ chuyển việc giao thương đến các quốc gia chi phí thấp khác như Bangladesh và Việt Nam.

Thế đấy, nếu bạn bị lừa một lần vì những luận điệu xuyên tạc này thì thật là điều hổ thẹn cho các nhà ủng hộ Trung Quốc. Nhưng nếu chúng ta để cho họ lừa dối nhiều lần thì chính chúng ta mới là người đáng hổ thẹn.

P. N. G. A.

Chú thích:

(*) Big Mac: một món hamburger – bánh mì tròn kẹp thịt và rau ở giữa – của hãng MacDonald.

(**) Magna Carta: Hiến pháp nước Anh năm 1215, đặt nền móng cho chế độ pháp quyền ngay trong chế độ quân chủ khi lần đầu tiên khẳng định Vua cũng phải tuân theo luật pháp. Magna tiếng Latin nghĩa là lớn, là big. Magna Mac nghĩa là Big Mac.

(***) Hawley-Smoot Tariff Act, 1930, đặt mức thuế nhập cảng cao nhất trong lịch sử Mỹ và khiến cho các quốc gia khác cũng trả đũa bằng cách nâng cao mức thuế. Kết quả là ngoại thương của Mỹ đột ngột giảm sút, khiến cho khủng hoảng kinh tế thêm trầm trọng.

Nhóm dịch giả gửi trực tiếp cho BVN.

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn