Tự do luôn luôn là tự do của người có quan điểm khác (Phần II)

Phạm Hải Hồ

II - “Cách mạng Ngaˮ của Rosa Luxemburg

image

 Rosa Luxemburg với luật sư Paul Levi (1914)

Những ngày này kỷ niệm 95 năm cuộc Cách mạng tháng Mười Nga. Trong lịch sử loài người, ít có sự kiện nào đã ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài đến cục diện thế giới như cuộc cách mạng ấy. Nó dẫn tới sự hình thành một hệ thống xã hội chủ nghĩa trải rộng từ Âu sang Á, sang cả châu Mỹ, châu Phi, với lực lượng quân sự hùng mạnh và bộ máy an ninh tưởng chừng như dư sức trấn áp mọi “thế lực thù địchˮ. Vậy mà trong những năm 1989-1991 của thế kỷ trước, cả cái hệ thống khổng lồ ấy nhanh chóng sụp đổ như lâu đài xây trên cát, vượt xa những dự đoán táo bạo nhất. Để hiểu hiện tượng ấy, theo thiển ý của tôi, trước hết cần phải xem xét nguồn gốc của hệ thống xã hội chủ nghĩa với định hướng “mác-xít - lêninítˮ, đó là: cuộc cách mạng bôn-sê-vích ở Nga. Trong việc này, quan điểm của Rosa Luxemburg thật đáng chú ý. Như đã đề cập ở Phần I, mùa hè năm 1918, khi còn bị giam trong nhà tù của Đế chế Đức, bà đã viết một bản thảo về Cách mạng Tháng mười và giao cho luật sư của mình là Paul Levi giữ, dự định sẽ biên soạn một quyển sách hoàn hảo hơn trong tương lai. Năm 1922, ba năm sau khi Rosa bị phe phản cách mạng giết, Levi công bố tài liệu ấy dưới dạng sách mang tựa đề “Cách mạng Ngaˮ[1].

Mở đầu bản thảo, Rosa Luxemburg viết: Cách mạng Nga là sự kiện vĩ đại nhất trong chiến tranh thế giới [thứ nhất]ˮ[2]. Bà nhận định rằng thắng lợi của Cách mạng tháng Mười là bằng chứng hùng hồn về sự sai lầm của cái thuyết giáo điều mà Kautsky[3] cùng chia sẻ với đảng Dân chủ Xã hội cầm quyền, thuyết cho rằng một nước có nền kinh tế lạc hậu, chủ yếu thiên về nông nghiệp như nước Nga chưa có khả năng thực hiện một cuộc cách mạng xã hội thiết lập nền chuyên chính vô sản. Thuyết ấy chỉ cho phép nước Nga làm cách mạng tư sản – từ quan niệm đó nảy sinh ra chiến thuật liên kết giữa các đảng viên đảng Xã hội Nga và người theo chủ nghĩa tự do tư sản –, nó đồng thời cũng là học thuyết của thành phần cơ hội trong phong trào công nhân Nga, những kẻ gọi là men-sê-vích […]ˮ.

Rõ ràng Rosa ủng hộ cuộc cách mạng lật đổ chính quyền lâm thời được quốc hội Nga (Duma) thành lập sau Cách mạng tháng Hai 1917 và việc trấn áp các lực lượng phản động phá hoại trong giai đoạn đầu vô cùng khó khăn:

“Sau cách mạng Tháng Mười, khi cả tầng lớp trung lưu, giới trí thức tư sản và tiểu tư sản đều tẩy chay chính quyền xô-viết, làm tê liệt lưu thông đường sắt, bưu chính và điện báo, cơ sở giáo dục và bộ máy hành chính, và như vậy là chống lại chính quyền công nhân, thì dĩ nhiên phải dùng mọi biện pháp cưỡng bức đối với họ: tước quyền chính trị, nguồn sinh sống v.v. nhằm đập tan sự kháng cự bằng quả đấm thép. Đó chính là nền chuyên chính xã hội chủ nghĩa, nó không được từ bỏ một phương tiện quyền lực nào nhằm áp đặt hay ngăn trở những biện pháp nhất định vì lợi ích chungˮ.

Trước khi tiếp tục theo luồng tư tưởng của Rosa Luxemburg, chúng ta nên tìm hiểu khái niệm “chuyên chính vô sảnˮ hay “chuyên chính xã hội chủ nghĩaˮ của bà. Thông thường, chuyên chính vô sản được hiểu là nền chuyên chính do giai cấp công nhân với đồng minh là giai cấp nông dân thiết lập nhằm xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, tiến tới xã hội không giai cấp. Để thực hiện điều đó, các nhà nước cộng sản chủ yếu thi hành chính sách đàn áp đối lập và trí thức bất đồng chính kiến, đồng thời tuyên truyền kích động quần chúng. Nghiêm trọng hơn cả, Stalin và Polpot, nếu chỉ kể tên hai nhà độc tài cộng sản tiêu biểu nhất, còn chủ trương tiêu diệt những thành phần xã hội khác với giai cấp công - nông, nhất là tầng lớp trí thức. Trong các chế độ kể trên, quyền hành tập trung ở Ban Chấp hành Trung ương đảng hay Bộ Chính trị, thậm chí ở một cá nhân, với quá trình ra quyết định không công khai, minh bạch nhưng lại buộc toàn dân phải tuân theo. Là người có tư duy độc lập, sáng tạo, “chưa bao giờ tôn sùng chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa mác-xítˮ, Rosa quan niệm về chuyên chính vô sản hoàn toàn khác. Chuyên chính của giai cấp vô sản không đối lập với dân chủ như theo lý thuyết của Lenin - Trotsky nhưng là một nền chuyên chính“công khai đến mức độ cao nhất, với sự tham gia tích cực và không bị kìm hãm của quần chúng nhân dân, trong một nền dân chủ vô hạnˮ. Giai cấp vô sản không được Rosa hiểu là một giai cấp chỉ bao gồm những công nhân, nhưng là một giai cấp cách mạng trong cuộc vận động không ngừng tiến tới chủ nghĩa xã hội. Những ai có ý thức và khả năng chính trị mà tham gia tích cực vào cuộc vận động ấy − cho dù họ là công nhân hay nông dân, thuộc tầng lớp trí thức hay giới trung lưu − đều thuộc về giai cấp vô sản[4]. Còn hạng “vô sản lưu manh, thoái hóaˮ(Lumpenproletariat) thì dĩ nhiên không được xếp vào giai cấp ấy.

Tuy tán thành Cách mạng tháng Mười nhưng Rosa không bằng lòng với những gì xảy ra gần một năm sau ở nước Nga xô-viết. Trước hết, bà chỉ trích việc đảng bôn-sê-vich của Lenin đã giải tán Hội đồng lập hiến bằng bạo lực sau khi không chiếm được đa số trong kỳ bầu cử tháng 11-1917, cũng như lập ra “một luật bầu cử cho phép tước hết quyền của những tầng lớp xã hội rộng lớn, đặt họ ra ngoài vòng xã hội về mặt chính trị, trong khi họ đã không có được một vị trí kinh tế nào ngay trong xã hộiˮ. Ở đây, có lẽ Rosa muốn nói về luật bầu cử nêu trong Hiến pháp đầu tiên của Liên xô (1918) không cho phép giới thượng lưu, những người ủng hộ bạch quân và ngay cả tầng lớp trung lưu tham gia bầu cử hay giữ quyền chính trị. Bà chủ trương “cần có cả những xô-viết làm trụ cột lẫn hội đồng lập hiến và luật bầu cử tổng quát.ˮ Như vậy nghĩa là không chỉ có công, nông, binh (các xô-viết) mà mọi thành phần xã hội (toàn dân) đều có thể tham gia vào quá trình dân chủ.

Rải rác ở nhiều nơi trong bản thảo của Rosa là hình ảnhvề tình trạng mất tự do dân chủ ở Liên Xô và những hệ lụy của nó:

“Nhưng ngoài hội đồng lập hiến và luật bầu cử tổng quát ra, còn có những khía cạnh khác của vấn đề: việc hủy bỏ các bảo đảm dân chủ quan trọng nhất của một đời sống công cộng lành mạnh và hoạt động chính trị của quần chúng lao động: tự do báo chí, quyền lập hội và hội họp mà nếu không có thì mọi đối thủ của chính quyền xô-viết đều bị đặt ngoài vòng pháp luật. […] Có một thực tế hiển nhiên không thể phủ nhận là nếu thiếu tự do báo chí rộng rãi, thiếu các hoạt động hội họp và lập hội không hạn chế thì khó có thể hình dung được quyền làm chủ của nhân dânˮ.,

“Việc họ [Lenin, Trotsky v.v.] đè nén đời sống công cộng đã làm tắc nghẽn nguồn kinh nghiệm chính trị và ngăn trở sự tiến lên của quần chúngˮ.

“Cùng với sự đè nén đời sống chính trị trong cả nước, hoạt động ở các xô-viết ngày càng suy yếu hơn. Thiếu bầu cử tổng quát, thiếu tự do báo chí và hội họp rộng rãi, tự do đấu tranh tư tưởng, thì cuộc sống trong bất kỳ thể chế công nào cũng sẽ tắt lịm và trở thành giả tạo, trong đó chế độ quan liêu là yếu tố động duy nhất. Đời sống xã hội lịm dần đi, vài chục lãnh tụ đảng với năng lực vô hạn và lý tưởng cao xa nắm quyền chỉ đạo và cai trị, trong số đó chỉ một chục cái đầu xuất chúng mới thực sự lãnh đạo, còn tầng lớp công nhân ưu tú thì thỉnh thoảng được huy động đến những cuộc họp để vỗ tay tán thưởng diễn văn của các lãnh tụ, nhất trí thông qua nghị quyết do họ đề ra; kỳ thực đó là chế độ bè phái – cũng chuyên chính đấy, có điều không phải là chuyên chính của giai cấp vô sản mà của một vài chính khách, tức là chuyên chính trong ý nghĩa tư sản, ý nghĩa thống trị của phái Jacobin[5][…]. Hơn thế nữa: tình trạng ấy còn gây nên sự hoang hoá đời sống công cộng: ám sát, xử bắn con tin v. v.ˮ.

Để giải quyết tình trạng nói trên, Rosa đưa ra giải pháp: tự do chính trị và sự giám sát của công chúng. Khác hẵn với cách nghĩ vô trách nhiệm “đã có đảng và nhà nước loˮ kết hợp với những biện pháp ngăn trở, dọa nạt, cấm đoán, thậm chí đàn áp người dân muốn thực thi quyền tự do, dân chủ của mình trong chế độ “ dân chủ vạn lần hơnˮ của chúng ta. Bà nhận định:

image Tờ thứ 100 của bản thảo “Cách mạng Ngaˮ, trong đó có câu “Tự do luôn luôn là tự do của người có quan điểm khácˮ.

“Tự do dành riêng cho những người ủng hộ chính phủ hay những đảng viên của một chính đảng – cho dù họ có đông tới đâu đi nữa – cũng không phải là tự do. Tự do luôn luôn là tự do của người có quan điểm khác. Không phải bởi lòng yêu ‘công bằng’ mù quáng nhưng vì mọi điều hay lẽ phải, mọi đặc tính bổ ích và tẩy sạch của tự do chính trị đều gắn liền với thực thể ấy và sẽ mất tác dụng nếu ‘tự do’ trở thành đặc quyền đặc lợiˮ.

“Nhất thiết phải có sự kiểm tra của công chúng. Nếu không, kinh nghiệm chỉ được trao đổi trong vòng khép kín của giới cán bộ của nhà nước mới. Tham nhũng - tha hóa là điều không thể tránh khỏi. […] Thực tiễn xã hội chủ nghĩa đòi hỏi cả một sự khuấy động tinh thần trong quần chúng vốn bị thoái hoá qua hàng thế kỷ thống trị của giai cấp tư sản. Bản năng xã hội thay vì thói ích kỷ; sáng kiến quần chúng thay vì tính trì trệ; lý tưởng giúp ta vượt qua mọi gian khổ v. v. và v. v. Điều ấy, không ai hiểu rõ hơn, diễn tả mạnh mẽ hơn, nhắc đi nhắc lại bền bỉ hơn Lenin. Tuy nhiên, ông lại sử dụng những phương tiện hết sức sai lầm. Sắc lệnh, quyền lực độc đoán của các đốc công nhà máy, hình phạt khắc nghiệt, chế độ khủng bố, tất cả đều là những liều thuốc giảm đau tạm thời. Con đường duy nhất dẫn tới sự hồi sinh là sự rèn luyện của chính bản thân đời sống công chúng, tự do rộng rãi không hạn chế, dư luận quần chúng. Còn chế độ khủng bố chỉ làm suy đồi đạo đứcˮ.

Mặc dù là một người rất giàu tình cảm nhưng Rosa ít khi để cảm tính len vào trong lý luận của mình. Công nhận tự do của người khác chính kiến không phải vì “lòng yêu công bằng mù quángˮ nhưng vì những tác dụng vô cùng hữu ích của nó. Là một nhà tư tưởng mác-xít, bà có cách nghĩ và hành động phù hợp với các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Bởi vì nếu trấn áp đối lập (xin đừng lầm lẫn với bọn phá hoại, khủng bố, bạo động), thậm chí không cho phép đối lập tồn tại thì làm sao có thể “thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lậpˮ để phát triển? Nếu cấm nhân dân biểu tình, lập hội, diễn đạt tự do, tư hữu ruộng đất v.v. và tuyển chọn nhân sự theo chủ nghĩa lý lịch, theo vấn đề “đầu tiênˮ thì sao có thể xuất hiện những con người tài đức, có năng lực quản lý để đưa đất nước đi lên? Nếu như tình trạng kinh tế - chính trị - xã hội của chúng ta cứ tiếp tục như hiện nay thì băn khoăn của ông Tổng bí thư đảng CSVN: “đến hết thế kỷ này không biết có chủ nghĩa xã hội hoàn thiện hay chưaˮ có thể giải đáp được là: chưa đâu, thậm chí vài ba thế kỷ nữa cũng chưa chắc đạt tới… chủ nghĩa tư bản phát triển.

Ý tưởng đưa “ý thức giai cấpˮ từ bên ngoài vào phong trào công nhân của cả Lenin lẫn Kautsky hoàn toàn xa lạ với Rosa. Bà chủ trương quần chúng phải tự rèn luyện và nâng cao ý thức của mình qua những cuộc đình công đại chúng, những buổi học tập chính trị, những hoạt động văn hóa - xã hội v.v. Trái với chuyên chính tư sản, trong nền chuyên chính vô sản, “việc giáo dục quần chúng là yếu tố sống còn, là khí trời mà nếu không có thì nó không thể tồn tại đượcˮ. Đối với Rosa, đảng lãnh đạo có nghĩa là tạo điều kiện phát triển tốt nhất cho nhân dân, giáo dục quần chúng thật sâu sắc về chính trị, đưa ra những đề xuất để họ xem xét, quyết định và sẵn sàng chấp nhận nếu bị từ chối, chớ không phải ban hành những nghị quyết buộc họ phải học tập rồi nhất nhất phải thi hành.

Ngoài việc phản bác chế độ độc tài của Lenin và đảng bôn-sê-vích, Rosa còn phê phán chủ trương về quyền dân tộc tự quyết và chính sách đất đai của họ nhưng các lĩnh vực ấy vượt ra ngoài khuôn khổ của bài này. Điều sau cùng cần nói ở đây là Rosa luôn luôn trung thành với quan điểm của mình cho đến chết, đó là: chủ nghĩa xã hội phải gắn liền với tự do dân chủ và tính nhân văn. Mặc dù sau khi ra khỏi nhà tù và dấn thân vào cuộc cách mạng Đức, bà có hơi cực đoan hơn trước, nhưng ý kiến khá phổ biến cho rằngbà đã thay đổi theo đường lối và phương pháp cách mạng của Lenin bắt nguồn từ một huyền thoại. Nó được hai đồng chí gần gũi của Rosa là Clara Zetkin[6] và Adolf Warski[7] tung ra năm 1922 sau khi Levi công bố “Cách mạng Nga”, chắc là chủ yếu do tác động của Lenin và áp lực của Quốc tế Cộng Sản mà đảng Cộng sản Liên Xô chiếm ưu thế tuyệt đối. Huyền thoại ấy đã bị bác bỏ bởi Paul Levi[8], người luật sư đồng hành với Rosa từ 1914 và kế thừa tư tưởng chính trị của bà, cũng như bởi những nghiên cứu gần đây[9]. Bốn tuần sau khi được trả tự do, chính Rosa đã nhận định trong số ra ngày 14/12/1918 của tờ Cờ Đỏ do bà phụ trách:

“Bản chất của chủ nghĩa xã hội nằm ở chỗ đông đảo quần chúng lao động chấm dứt tình trạng bị thống trị, hơn thế nữa, còn sống trọn vẹn đời sống kinh tế và chính trị, thay đổi nó với quyền tự quyết trong tự do và có ý thứcˮ[10].

Bên cạnh đó, bà quan niệm:

“Chỉ có hành động cách mạng bất chấp mọi sự và lòng nhân đạo rộng lượng nhất mới thật là sinh khí của chủ nghĩa xã hội. Một chế độ phải bị lật đổ nhưng mỗi giọt nước mắt dù có thể lau khô là một lời buộc tội và kẻ nào vì vội vã công việc hệ trọng mà vô ý dẫm nát một con trùng thì cũng đã phạm tội ácˮ[11].

Hà Nội, ngày 7.11.2013

P. H. H.

Tác giả gửi trực tiếp cho BVN

[1]Rosa Luxemburg (1918). The Russian Revolution. Translated by Bertram Wolfe. marxists.org 1999.

[2] Trong bài này, những câu chữ viết nghiêng được tác giả trích, dịch từ tác phẩm “Die russische Revolution” (Cách mạng Nga) của Rosa Luxemburg. Các chú thích đều của tác giả.

[3] Karl Kautsky (1854-1938): triết gia, nhà báo và lý thuyết gia mác-xít Đức. Sau khi Friedrich Engels mất (1895) cho tới đầu thế chiến thứ nhất, Kautsky là người truyền bá chủ nghĩa mác-xít có ảnh hưởng nhất. Năm 1917, ông rời đảng Dân chủ Xã hội Đức (SPD), gia nhập đảng Dân chủ Xã hội Độc lập (USPD), một chính đảng chống chiến tranh và chủ nghĩa xét lại. Cuối cuộc chiến, ông chỉ trích thẳng thừng cuộc cách mạng bôn-sê-vích, tham gia luận chiến với Lenin và Trotsky về nhà nước xô viết.

[4]Jörn Schütrumpf (2009). Rosa Luxemburg, die unbekannteste Bekannte in Deutschland. Deutsche Fassung des Artikels für ein Sonderheft der »Humanité« zum 90. Todestag von Rosa Luxemburg. Januar 2009.

[5] Chế độ cai trị của phái Jacobin trong Thời kỳ Khủng bố (kéo dài từ tháng 9/1793 đến tháng 7/1794) sau Cách mạng Pháp, sát hại khoảng 41.600 “kẻ thù của cách mạng”, kể cả “cha đẻ của hóa học hiện đạiˮ Antoine Lavoisier. Chế độ này chấm dứt sau khi các lãnh tụ như Robespierre, Saint-Just bị giết.

[6]Clara Zetkin (1922). Um Rosa Luxemburgs Stellung zur russischen Revolution. Verlag der Kommunistischen Internationale, 1922.

[7]A. Warski (1922). Rosa Luxemburgs Stellung zu den taktischen Problemen der Revolution. Bibliothek der Kommunistischen Internationale, 1922.

[8]Jörn Schütrumpf (2013): Der Name der Rose Der Streit um Luxemburgs Fragment “Zur russischen Revolutionˮ und eine Klarstellung von Paul Levi. neues deuschland 12.01.2013.

[9]Ottokar Luban (2004). Problemstellungen und Tendenzen in wissenschaftlichen deutschen Rosa-Luxemburg-Publikationen nach 1990. Referat auf der Rosa-Luxemburg-Tagung der Russischen Akademie der Wissenschaften, Institut für allgemeine Geschichte, Moskau, am 12. Februar 2004 – verbesserte und erweiterte Fassung (22. Februar 2004).Jörn Schütrumpf (2013). Der Name der Rose Der Streit um Luxemburgs Fragment “Zur russischen Revolutionˮ und eine Klarstellung von Paul Levi. neues deuschland 12.01.2013.

[10]Rosa Luxemburg (1918). Was will der Spartakusbund? Die Rote Fahne (Berlin), Nr. 29, 14. Dezember 1918.

[11]Rosa Luxemburg: Der Anfang. Die Rote Fahne, 18. November 1918.

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn