Việt Nam dần dần trở nên nồng ấm với giới quân sự Mỹ

Carl Thayer, The Diplomat, 6/11/2013

Trần Ngọc Cư dịch

clip_image001Tháng trước Mỹ và Việt Nam tổ chức hai cuộc họp an ninh cấp cao quan trọng hàng năm tại Washington: Đối thoại Chính trị, An ninh, Quốc phòng lần thứ 6, và Đối thoại Chính sách Quốc phòng lần thứ 4.

Đối thoại Chính trị, An ninh, Quốc phòng Mỹ-Việt lần thứ 6 được tổ chức vào ngày 1 tháng Mười ở cấp thứ trưởng. Phía Mỹ có Quyền Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao về các Vấn đề Chính trị - Quân sự Tom Kelly đại diện, và phía Việt Nam có Thứ trưởng Ngoại giao Hà Kim Ngọc đại diện.

Cuộc đối thoại này có một nghị trình rộng lớn bàn đến một loạt vấn đề chính trị, an ninh, quốc phòng đáng quan tâm. Việc này được phản ánh trong thành phần các đại diện tham dự.

Phái đoàn Mỹ gồm các đại diện từ Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Cơ quan Phát triển Quốc tế và Bộ Chỉ huy Mỹ ở Thái Bình Dương. Phái đoàn Việt Nam gồm có các đại diện từ Bộ Ngoại giao, Bộ Công an và Bộ Quốc phòng.

Nghị trình cuộc Đối thoại Chính trị, An ninh, Quốc phòng Mỹ - Việt lần thứ 6 gồm chống khủng bố, chống ma túy, chống buôn người, an ninh mạng, an ninh quốc phòng, phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu hộ, các vấn đề di sản chiến tranh và hợp tác trong các tổ chức khu vực như ASEAN, Diễn đàn Khu vực ASEAN và Thượng đỉnh Đông Á.

Cuộc Đối thoại Chính sách Quốc phòng Mỹ - Việt lần thứ 4 cũng được tổ chức ở cấp thứ trưởng và có sự tham dự của quan chức từ Bộ Quốc phòng của hai nước. Cuộc đối thoại thứ tư này được tổ chức tại Washington ngày 28-29 tháng Mười. Phía Mỹ có Phó Trợ lý Bộ Quốc phòng về Nam Á và Đông Nam Á Vikram Singh đại diện, và phía Việt Nam có Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh đại diện.

Cả hai cuộc đối thoại được tổ chức trong khuôn khổ của Bản ghi nhớ về Thúc đẩy Hợp tác Quan hệ Quốc phòng Song phương được ký kết ngày 19 tháng Chín 2011 và Tuyên bố chung Mỹ-Việt ngày 25 tháng Bảy 2013.

Bản ghi nhớ 2011 đặt ra năm lĩnh vực ưu tiên về hợp tác quốc phòng song phương: đối thoại thường xuyên ở cấp cao giữa Bộ Quốc phòng hai nước, an ninh trên biển, tìm kiếm cứu hộ, giúp đỡ nhân đạo, cứu trợ thiên tai và gìn giữ hòa bình. Bản Ghi nhớ, trên thực tế, chỉ là một lối mã hóa [codification] cho những hoạt động đã được thực hiện. Bản Ghi nhớ cũng là một biện pháp minh bạch được thiết kế để làm giảm bớt – được chừng nào hay chừng nấy – những lo ngại của Bắc Kinh về câu kết quân sự Mỹ - Việt chống Trung Quốc.

Những đối thoại quốc phòng Mỹ - Việt này được tiến hành dưới bóng những di sản của thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Việt Nam sử dụng những dịp này để công bố tiến độ tìm kiếm các nhân viên quân sự Mỹ mất tích trong chiến cuộc (MIA). Chẳng hạn, trong chuyến viếng thăm Hà Nội tháng Sáu 2012 của Bộ trưởng Quốc phòng Leon Panetta, Việt Nam công bố sẽ mở ra ba địa điểm mới cho việc tìm kiếm MIA của Mỹ. Tuyên bố này được được ra một ngày trước khi khai mạc cuộc Đối thoại Chính trị, An ninh, Quốc phòng lần thứ 5. Tại cuộc Đối thoại Chính sách Quốc phòng lần thứ 2 vào tháng Chín 2011, Việt Nam trao sáu hồ sơ liên quan các cuộc tìm kiếm MIA của Mỹ.

Washington sử dụng các dịp đối thoại quốc phòng để tái khẳng định việc tiếp tục cam kết khai quật bom mìn chưa nổ và tẩy sạch hậu quả Chất độc Da cam. Tại cuộc Đối thoại Chính sách Quốc phòng lần thứ 2, chẳng hạn, Mỹ tuyên bố sẽ tiếp tục giúp đỡ Việt Nam khắc phục “hậu quả chiến tranh”, một mỹ từ để gọi các bom mìn chưa nổ và chất độc dioxin.

Hợp tác quốc phòng Mỹ - Việt theo Bản ghi nhớ 2011 đã tiến hành ở một nhịp độ thận trọng và tuần tự. Ngay trước khi hai bên ký kết Bản ghi nhớ này, chiếc tàu của Bộ Chỉ huy Hải vận Quân sự Mỹ đầu tiên đã được sửa chữa nhẹ tại Vịnh Cam Ranh. Sau khi Bản Ghi nhớ được ký kết, bốn tàu khác của Bộ Chỉ huy Hải vận Quân sự Mỹ được sửa chữa tại đó. Mỗi lượt sửa chữa được đánh giá dưới nửa triệu USD.

Tháng Mười 2011, Giám đốc Học viện Quốc phòng Việt Nam đã đến nói chuyện với ban giảng huấn và sinh viên tại Đại học Quốc phòng Mỹ. Lần đầu tiên, Việt Nam đã gửi đến Trường Chiến tranh Quốc gia Hoa Kỳ và Trường Tham mưu Hải quân Hoa Kỳ, mỗi nơi một nghiên cứu sinh.

Từ tháng Sáu đến tháng Tám 2012, Việt Nam gửi quan sát viên đầu tiên đến cuộc Diễn tập Vùng ven Thái Bình Dương (RIMPAC). Tháng Bảy 2012, Mỹ tiếp đón Ban Chỉ đạo 504 của Việt Nam có nhiệm vụ khắc phục hậu quả bom mìn chưa nổ sau chiến tranh. Tháng Mười Hai cùng năm, tàu sân bay George Washington của Mỹ đã tiếp đón một phái đoàn quan chức Việt Nam bay ra hải phận quốc tế ngoài khơi duyên hải đông Việt Nam.

Năm 2012, Việt Nam tiếp đón một số quan chức quân sự Mỹ cao cấp, gồm Tư lệnh Hạm đội Bảy (tháng Giêng); Bộ trưởng Quốc phòng Panetta (tháng Sáu); Tư lệnh Hạm đội Bảy (tháng Bảy); và một phái đoàn của Đại học Quốc phòng Mỹ (tháng Mười). Tháng Tư, Việt Nam đăng cai tổ chức sinh hoạt trao đổi giữ hai hải quân lần thứ 3 tại cảng Đà Nẵng gồm huấn luyện cứu nạn và phòng chống thiên tai nhưng không có thao diễn bắn đạn thật hay trao đổi kỹ năng chiến đấu.

Năm 2013 Việt Nam đăng cai tổ chức cuộc Đối thoại Chính sách Quốc phòng lần thứ 3 vào tháng Giêng và cuộc sinh hoạt trao đổi hải quân phi-tác chiến lần thứ tư tại Đà Nẵng vào tháng Tư tiếp đó.

Trong một phát triển có ý nghĩa, tháng Sáu vừa qua Chủ tịch Tham mưu Liên quân Hoa Kỳ tiếp đón cuộc thăm viếng đầu tiên của Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam (và Thứ trưởng Quốc phòng), Tướng Đỗ Bá Tỵ. Phái đoàn Tướng Tỵ gồm có Tư lệnh Không quân Việt Nam và các Phó Tư lệnh Hải quân và Tổng cục Tình báo. Chuyến đi của ông bao gồm một cuộc thăm viếng Căn cứ Hỗn hợp Lewis-McChord ở bang Washington, việc này gợi ý về những hoạt động hỗn hợp có thể diễn ra trong tương lai.

Cao điểm của quan hệ song phương Mỹ-Việt được thể hiện vào tháng Bảy 2013, khi Tổng thống Mỹ Barack Obama tiếp đón người đồng nhiệm, Chủ tịch nước Trương tấn Sang, tại Nhà trắng. Hai vị quốc trưởng đã đồng ý mở ra một “thời kỳ mới cho quan hệ song phương” bằng cách thiết lập một Quan hệ Đối tác Toàn diện Mỹ-Việt [a U.S.-Vietnam Comprehensive Partnership].

Bản Tuyên bố chung được hai nhà lãnh đạo đưa ra gồm chín điểm. Điểm sáu đề cập đến các vấn đề di sản chiến tranh và điểm bảy bàn về hợp tác an ninh quốc phòng. Không có nỗ lực quan trọng nào được công bố trong việc theo dõi tính cách diễn biến của các quan hệ quốc phòng song phương.

Cả hai nhà lãnh đạo bày tỏ sự hài lòng về việc thực thi Bản Ghi nhớ 2011 và tái khẳng định sự cam kết thực thi đầy đủ bản ghi nhớ này. Cả hai đồng ý tiếp tục cuộc Đối thoại Chính trị, An ninh Quốc phòng và cuộc Đối thoại Chính sách Quốc phòng.

Về hợp tác tương lai, hai nhà lãnh đạo quyết định nới rộng hợp tác nhằm nâng cao các khả năng tìm kiếm cứu hộ và phòng chống thiên tai của Việt Nam, đồng thời thiết lập quan hệ hợp tác trong vấn đề an ninh phi truyền thống [non-traditionary security]. Bản Tuyên bố chung nêu rõ chống khủng bố, thi hành luật biển, chống tội phạm xuyên quốc gia (hải tặc, tội phạm công nghệ cao, ma túy, buôn lậu người và động vật hoang dã) và an ninh mạng. Tổng thống Obama đề nghị giúp đỡ và hậu thuẫn việc Việt Nam lần đầu tiên tham gia hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên Hợp Quốc.

Nghị trình của cuộc Đối thoại Chính sách Quốc phòng Mỹ-Việt lần thứ 4 gồm các vấn đề an ninh khu vực và quốc tế, an ninh trên biển, các vấn đề di sản chiến tranh (gồm cả thông tin về MIA Việt Nam), hợp tác trong các diễn đàn đa phương như Hội nghị các Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN+, việc Mỹ hỗ trợ Việt Nam tham gia lần đầu trong lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc, và kế hoạch hợp tác cho năm 2014.

Tướng Vịnh trao cho phía Mỹ bốn hồ sơ về những địa điểm tìm kiếm MIA mới. [Phó Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ] Singh cam kết gia tăng hậu thuẫn cho việc tẩy sạch Chất Da cam và tháo gỡ bom mìn chưa nổ.

Có gì mới mẻ chăng? Đó là, hai bên đã đồng ý đẩy mạnh hợp tác giữa hải quân hai nước và giữa các học viện cũng như các cơ sở quốc phòng hai nước. Một Bản Ghi nhớ được ký kết về sự hợp tác giữa Lực lượng Tuần duyên Mỹ và Tuần duyên Việt Nam (trước đây là Cảnh sát Biển).

Diễn biến tuần tự trong các đối thoại chính trị, an ninh và quốc phòng Mỹ-Việt phản ánh đường lối thận trọng của Việt Nam trong việc duy trì sự quân bình trong quan hệ của mình đối với Trung Quốc và đối với Mỹ. Ví dụ, cho đến nay Việt Nam vẫn chưa tham gia các cuộc diễn tập quân sự với Mỹ.

Việt Nam chỉ cho phép Hải quân Mỹ được ghé cảng của mình mỗi năm một lần và tiếp tục cấm tàu chiến Mỹ vào Vịnh Cam Ranh. Việt Nam cũng chưa chấp thuận một yêu cầu được Bộ trưởng Panetta đưa ra vào tháng Sáu 2012 về việc thiết lập một Văn phòng Hợp tác Quốc phòng tại Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội.

Việt Nam còn bất bình về điều mà nước này cho là một cam kết không thỏa đáng đối với việc thanh toán các di sản chiến tranh. Trong một cuộc phỏng vấn tiếp theo sau cuộc Đối thoại Chính sách Quốc phòng lần thứ 4, Tướng Vịnh nói, “một quan hệ quốc phòng tốt đẹp hơn cần phải dựa trên hiệu năng của việc hợp tác trên thực tế, gồm việc khắc phục hậu quả chiến tranh… Nói chung, Mỹ đã đề nghị hợp tác tích cực với Việt Nam trong vấn đề này, nhưng như thế vẫn chưa đủ vì các hậu quả chiến tranh là khủng khiếp”. Tướng Vịnh cũng nhận xét rằng theo quan niệm của ông “chúng ta phải xây dựng niềm tin chiến lược giữa các lãnh đạo hàng đầu của hai nước…”.

Phát biểu này có thể nhắc đến việc Mỹ vẫn tiếp tục những hạn chế đối với việc bán vũ khí cho Việt Nam bất chấp những yêu cầu trực tiếp do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh đưa ra với Bộ trưởng Panetta vào tháng Sáu 2012.

Theo các Điều lệ Buôn bán Vũ khí Quốc tế [của Hoa Kỳ], Mỹ chỉ có thể bán cho Việt Nam một số hạng mục và dịch vụ quốc phòng không sát thương nhất định trên cơ sở xét theo từng trường hợp một. Việc bán các vũ khí sát thương và một số hạng mục không sát thương như ống nhòm ban đêm vẫn còn bị cấm.

Gần đây Việt Nam đã chủ động giải quyết vấn đề niềm tin chiến lược. Vào cuối tháng Tám, bên lề cuộc họp các Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN+, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam mời Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel đến thăm Việt Nam năm 2014. Hagel đã chấp nhận lời mời.

Theo một thoả ước đạt được vào năm 2003, Việt Nam và Mỹ đồng ý để các bộ trưởng quốc phòng hai nước thay phiên nhau thăm viếng cứ ba năm một lần. Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam đã đến thăm Washington năm 2006 và 2009. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã đến thăm Hà Nội năm 2006 và 2012. Chuyến viếng thăm sắp tới của Hagel có thể báo hiệu chấm dứt chu kỳ ba năm một lần và bắt đầu mở ra các cuộc tiếp xúc thường xuyên hơn giữa Bộ trưởng Quốc phòng hai nước.

C. T.

Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn