Thư giãn Chủ nhật: Hậu duệ sư Tăng Phú

Nguyệt Cầm

Thật ra, cả đại biểu Quốc hội Thích Thanh Quyết lẫn chuyên gia thỉnh vong không miễn phí Thích Trúc Thái Minh đều là hậu duệ của sư Tăng Phú, bonus "định hướng xã hội chủ nghĩa." ;)

Đọc lại nửa cuối chương 13 của Số đỏ, thấy Vũ Trọng Phụng đúng là thiên tài. :)

"Xuân Tóc Ðỏ quay lại thì đó là một ông sư. Ông này cũng tân thời Âu hoá theo văn minh vì ông có ba cái răng vàng trong mồm, cái áo lụa Thượng Hải nhuộm nâu, đi đôi dép láng đế cao su, và nhất là đẹp giai lắm, trông phong tình lắm.

Xuân Tóc Ðỏ hất hàm hỏi:

- Ông hỏi gì? Mời ông ngồi!

- Bần tăng xin phép... Thưa ngài, bần tăng đã cam chịu khổ hạnh, vất vả, đến nỗi bần tăng lại còn làm chủ nhiệm một tờ báo nữa, tờ báo Gõ mõ... A Di Ðà Phật!

Xuân Tóc Ðỏ ngồi xuống, hỏi đùa:

- Báo Gõ mõ à? Sao không dạy người ta đi hát cô đầu có được không?

Sư ông đỏ mặt, ấp úng:

- Bẩm ngài đi hát cô đầu cũng chỉ là di dưỡng tinh thần, vì đó là thuộc kinh nhạc, trong tứ thư ngũ kinh của đức Khổng. Tăng ni chúng tôi mà có đi hát thì cũng không bao giờ phạm đến sắc giới vì chúng tôi chỉ hát chay thôi, chứ không khi nào ngủ lại cả đêm ở nhà chị em. Vả lại... đến pháp luật của Chính phủ bảo hộ cũng bênh vực cho sư đi hát nữa là! Ðấy ngài xem, anh chủ cái báo gì ấy dám công kích sư đi hát mà bần tăng kiện tại toà cho phải thua hộc máu mồm ra đấy!

- À à! Thế kia à? Ghê nhỉ?

TUYÊN BỐ VỀ DỰ ÁN ĐƯỜNG CAO TỐC BẮC- NAM

(Danh sách ký tên đến 17h ngày 30.03.2019)

Ban biên soạn kết thúc lấy chữ ký vào Tuyên bố này lúc 17h ngày 30.03.2019 như đã thông báo trước đó. Xin cám ơn tất cả các Quý vị đã quan tâm gửi thư ký tên! 

1. Sự việc:

Bộ Giao thông vận tải VN đã làm việc với  Cty Thái Bình Dương (TQ) về việc Cty này ngỏ ý muốn làm Đường cao tốc Bắc- Nam bằng vốn vay từ Trung Quốc (TQ).

2. Xét rằng:

Đường cao tốc Bắc- Nam chạy dọc mặt phía Đông nước VN là dự án chiến lược, không chỉ góp phần phát triển kinh tế mà còn liên quan chặt chẽ với an ninh quốc phòng, liên quan phòng thủ Biển Đông.

Mọi công trình hợp tác với các nhà thầu TQ từ trước đến nay đều đội vốn rất lớn, thi công dây dưa. Thủ đoạn của họ là bỏ thầu rẻ, thi công trì trệ, kết hợp với quan tham VN đẩy giá lên. Trên thực tế, hầu hết các công trình có yếu tố TQ đều yếu chất lượng, kém an toàn khi thi công, khi vận hành và gây ô nhiễm trầm trọng môi trường. Đường sắt trên cao Cát Linh - Hà Đông cho bài học xương máu.

Các nhà thầu TQ luôn đem các công nghệ lạc hậu, nhân lực TQ, kể cả lao động phổ thông vào VN, đến đâu ở lì đó, gây phức tạp an ninh xã hội.

Hiện nay các nước từ châu Phi, đến Ấn Độ Dương, Đông Á... đều tẩy chay các dự án đầu tư của TQ.

Tiếp tục thuê nhà thầu TQ là tiếp tay cho tham nhũng.

3. Yêu cầu:

Trước thực trạng tệ hại và nguy hiểm trên, chúng tôi - các cá nhân các tổ chức xã hội dân sự - yêu cầu:

Tổ chức ngay việc lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân, các chuyên gia VN trong và ngoài nước, tham vấn các nhà thầu Mỹ, Pháp, Nhật Bản... tìm phương án tối ưu cho dự án Đường cao tốc Bắc-Nam. Loại bỏ dứt khoát nhà thầu TQ, không vay vốn và nhận đầu tư từ TQ vì những lý do trên.

Làm mỗi công trình đều phải đem lại công ăn việc làm, tích lũy kỹ năng, điều kiện học hỏi cho lao động và kỹ thuật viên VN, để tiến tới tự làm. Các dự án Cầu dây văng Mỹ Thuận, Cầu Cần Thơ là bài học tốt. Nhà thầu Úc, Nhật chỉ mang chuyên gia đến, kỹ sư, công nhân là người VN.

Theo cách ấy, ngăn chặn được hiện tượng di dân bất hợp pháp, gây bất ổn xã hội của lao động TQ, ngăn chặn tham nhũng.

Chính phủ cần huy động các doanh nghiệp VN cùng tham gia vào công trình chiến lược này, ưu tiên hợp tác với các công ty Mỹ, nhằm hạ giá thành, góp phần cân bằng cán cân thương mại, tạo điều kiện phát triển nhanh và bền vững kim ngạch giao thương hai nước.

Soạn tại Sài Gòn ngày 20.3.2019

Các tổ chức và cá nhân ký tên hưởng ứng Tuyên Bố trên xin gửi “họ, tên, nghề nghiệp (chức vụ nếu có), địa chỉ cư trú hay làm việc” về email : bacnamcaotoc@gmail.com

CÁC TỔ CHỨC, CÁ NHÂN KÝ TÊN

Tổ chức:

1.CLB Lê Hiếu Đằng, đại diện: Lê Thân, nhà hoạt động xã hội, Sài Gòn

2.Nghiệp đoàn Báo chí Việt Nam, đại diện: Tiến sĩ Dương Thị Phương Hằng, Hoa Kỳ

3.Nhóm Vì Môi Trường, đại diện: Nguyễn Thị Bích Ngà, nhà báo tự do, Sài Gòn

4.Diễn đàn XHDS, đại diện: Tiến sĩ Nguyễn Quang A

5.Người Bảo vệ Nhân quyền (Defend the Defenders), đại diện: Thạc sỹ Vũ Quốc Ngữ

6. Nghiệp đoàn sinh viên Việt Nam, đại diện: Sinh viên Trịnh Thị Ngọc Kim

7. Nghiệp đoàn giáo chức Việt Nam, đại diện: nhà giáo Lê Trọng Hùng ( Trung Dân Việt Thương), Hà Nội

Cá nhân:

Cá nhân:

1. Võ Văn Tạo, nhà báo, TP Nha Trang, Khánh Hòa

2. Hoàng Hưng, nhà thơ-nhà báo tự do, Sài Gòn

3. Nguyễn Xuân Diện, Tiến sĩ, Hà Nội

4. Nguyên Ngọc, nhà văn, Hội An, Quảng Nam

5. NSUT Nguyễn Thị Kim Chi, thành viên CLB LHĐ, SG

6. Trần Thế Việt, nguyên Bí thư Thành ủy Tp.DàLat, Lâm Đồng

7. Phạm Toàn, nhà nghiên cứu giáo dục, Hà Nội

8. Hoàng Dũng, PGS TS, TP HCM

9. Phan Đắc Lữ, nhà thơ, Sài Gòn

10. Trần Văn Bang, kỹ sư, Sài Gòn

11. Nguyễn Thu Giang , nguyên Phó Giám đốc Sở Tư Pháp TpHCM

12. Phạm Đình Trọng, nhà văn , Sài Gòn

13. Hà Văn Thùy, nhà văn, Sài Gòn

14. Tô Linh Giang, Hàng Chuối, Hà Nội

15. Nguyễn Thị Khánh Trâm, hưu trí, Sài Gòn

16. Ngô Kim Hoa, nhà báo tự do, thành viên CLB LHĐ, SG

17. Lại Thị Ánh Hồng, NS hưu trí, thành viên CLB LHĐ, SG

18. André Menras- Hồ Cương Quyết, nhà giáo Pháp Việt, Pháp

19. Ngụy Hữu Tâm, Nguyễn Huy Tự, Hà Nội

20. Trần Ngọc Sơn, kỹ sư, Pháp

21. Nguyễn Thanh Hằng, dược sĩ, Pháp

22. Phạm Nguyên Trường, dịch giả, Vũng Tàu

23. Trần Minh Thảo -viết văn, Bảo lộc, Lâm Đồng (CLB Phan Tây Hồ)

24. Trần Thanh Vân, kiến trúc sư, Hà Nội

25. Đào Tiến Thi, nhà nghiên cứu văn học và ngôn ngữ, nguyên Uỷ viên BCH Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội

26. Nguyễn Quang Nhàn, hưu trí, Đà Lạt

27. Tôn Quang Trí, nguyên PGĐ sở CN TPHCM

28. Tô Lê Sơn, CLB Lê Hiếu Đằng, SG

29. Nguyễn Nguyên Bình, nhà văn, Hà Nội

30. Tống văn Công, nhà báo, cư trú tại Hoa Kỳ

31. Trần Tiến Đức, nhà báo độc lập, đạo diễn truyền hình và phim tài liệu, Hà nội

32. Vũ Hồng Ánh - NS đàn Cello- HCMC, SG

33. Nguyễn Phú Yên, hưu trí, TP.HCM

34. Lê Ngọc Thanh, linh mục Dòng Chúa Cứu thế VN

35. Đỗ Minh Tuấn, biên tâp-đạo diễn điện ảnh, Hà Nội

36. Hoàng Minh Tường , nhà văn, Hà Nội

37. Nguyễn Tuệ  Hải, hưu trí, Canberra – Australia

38. Lại Nguyên Ân, nhà nghiên cứu văn học, Hà Nội

39. Nguyễn Quý Phương, hưu trí, Q. Hai Bà Trưng, Hà Nội

40. Nguyễn trọng Bình, 82 tuổi, Nguyễn Văn Cừ, Long Biên,Hà nội

41. Trần Quang Tuyết, TS Vật lý, nguyên Phó Hiệu trưởng ĐH Phú Xuân, Huế

42. Hà Huy Sơn, luật sư, Cty Luật TNHH Hà Sơn, Hà Nội

43. Lê Nam Hùng, phiên dịch Tiếng Nga, TP Nha Trang

44. Đoàn Công Nghị, công chức, TP Nha Trang

45. Nguyễn văn Lịch, kỹ sư cơ khí, nghỉ hưu, Hà Nội

46. Nguyễn Đan Quế, bác sĩ, Saigon

47. Doãn Mạnh Dũng, kỹ sư, Q3, Tp HCM

48. Đỗ Ngọc Yên, nhà văn, Q. Cầu Giấy, Hà Nội

49. Nguyến Trọng Hùng, P. Đông Vệ, TP Thanh Hóa

50. Nguyễn Kan Trường, họa sĩ, Q. Tây Hồ, Hà Nội

51. Nguyễn Trọng Bách, kỹ sư, TP Nam Định

52. Đinh Hữu Thuyên, lái xe, Q Gò Vấp, SG

53. Cao Trần Việt Nga, hưu trí, CC Time city, Hà Nội

54. Phan văn Phong, cử nhân Tài chính, P.Tràng Tiền, Q.Hoàn Kiếm, HN

55. Nguyễn Chỉnh Huấn, cựu chiến binh BTTM, Q3, TPHCM

56. Nguyễn Phương Hoà Bình, bác sỹ nghỉ hưu, Q2, TPHCM

57. Nguyễn Đăng Châu, giảng viên ĐH hưu trí, Sơn Trà, Đà Nẵng

58. Đào Thu Huệ, giảng viên ĐH, Hà Nội

59. Võ Hồng Ly, viên chức, Q2, Sài Gòn

60. Nguyễn Thanh Trúc, giáo viên, Hà Nội

61. Hoàng Ngọc Vinh,  Như Quỳnh, Văn Lâm, Hưng Yên

62. Bùi Nghệ, kỹ sư hưu trí, Sài Gòn

63. Hoàng Ngọc Giao, luật sư, Tiến sĩ Luật, Viện trưởng Viện nghiên cứu Chính sách Pháp luật & Phát triển, Hà Nội

64. Doãn Kiều Anh, kỹ sư, Sài Gòn

65. Phạm Hồng Thắm, nhà báo nghỉ hưu, Hà Nội

66. Nguyễn Văn Dũng, giáo viên nghỉ hưu, Q Bình Tân, TPHCM

67. Đỗ Như Ly, hưu trí, Q.10, TPHCM

68. Đặng Hữu Nam, linh mục Giáo phận Vinh, Chánh xứ GX Mỹ Khánh, Nghệ An

69. Đỗ Thành Nhân, MBA - Tư vấn đầu tư, Quảng Ngãi

70. Đàm Ngọc Tuyên, nhà báo độc lập, Quảng Ngãi

71. Đinh Quang Tuyến, hướng dẫn du lịch tiếng Pháp, Q.8, SG

72. Mai Thái Lĩnh, nhà nghiên cứu, CLB Phan Tây Hồ, Đà Lạt

73. Trần Quang Lâm Sơn, Biên Hoà, Đồng Nai

74. Phan Cao Thiện, lao động tự do, Quảng Trạch, Quảng Bình

75. Nguyễn Đình Ngọc, tù nhân nhân quyền, Q.7, Sài Gòn

76. Nguyễn Mạnh Hùng, mục sư Tinh lành, Thủ Đức, Sài Gòn

77. Nguyễn Oánh, hưu trí, Hải Phòng

78. Mai Thị Thúy Nga, hưu trí, Hà Nội

79. Trương Minh Nghiêm, hưu trí, TPHCM

80. Nguyễn Khắc Mai, nhà nghiên cứu, Trung Tâm Minh triết, Hà Nội

81. Lê Bảo Nhi, nhà báo tự do, Thủ Đức, Sài Gòn

82. Nguyễn Thị Thương Huyền, CN may, Gò Vấp, Sài Gòn

83. Lưu Thành, cựu chiến binh, TX Phước Long, Bình Phước

84. Lê Thị Ngọc, lao động tự do, P.11, Q.5, Sài Gòn

85. Trần Song Hào, bác sỹ, cựu chiến binh (chiến trường K) nghỉ hưu, Nha Trang

86. Hồ Ngọc Nhuận, nguyên Phó CT UBMTTQ TPHCM, hưu trí, SG

87. Đào Công Tiến, PGS.TS, nguyên Hiệu trưởng trường ĐH Kinh Tế TPHCM

88. Võ anh Dũng, hưu trí, TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định

89. Ngô Thị Thứ, giáo viên hưu trí, Thủ Đức, Sài Gòn

90. Dương Thị Mỹ, luật sư, Huế

91. Scatter Loz, 82 Stanley rd, Toronto, Canada

92. Nguyễn Quang Vinh, sĩ quan QĐ nghỉ hưu, Đội Cấn, Hà Nội.

93. Nguyễn Đăng Hưng, Giáo sư Danh dự Đại học Liège, Bỉ. Sinh sống tại Sài Gòn

94. Nguyễn Thị Mỵ, nhà thơ, P. Đông Hải, Q. Lê Chân, Hải Phòng

95. Lư Văn Bảy, CTNLT, tỉnh Kiên Giang

96. Nguyễn Tường Thụy, nhà báo độc lập, Hà Nội

97. Vũ Thư Hiên, nhà văn, Paris, France

98. Dương Văn Hải, thẩm phán Tòa án TP Huế, hưu trí, Huế

99. Lâm Quang Thiệp, Giáo sư nghỉ hưu, Hà Nội

100. Nguyễn Đình Ấm, nhà báo, Hà Nội

101. Võ Xuân Tòng, nhà văn, hội viên Hội Nhà văn Hà Nội, sống tại TPHCM

102. Lê Hoàng Linh, lao động tự do, Gò Vấp, TPHCM

103. Võ Thanh Nguyên, lao động tự do, Sài Gòn

104. Nguyễn Hồng Hưng, nhà điêu khắc - giảng viên ĐH, Q.3, TPHCM

105. Nguyễn Thúy Hạnh, nhà hoạt động xã hội, Hà Nội

106. Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo, Hà Nội

107. Đoàn Huy Chương, Phó chủ tịch Phong trào Lao động Việt

108. Huỳnh Quang Minh, Kế toán, Quảng Nam

109. Tô Tấn Phước, thợ điện, Đồng Tháp

110. Nguyễn Tiến Dân, nhà giáo , Hà Nội

111. Khổng Hy Thiêm, kỹ sư điện, Suối Tân - Cam Lâm - Khánh Hòa

112. Bùi Huy Ngọc, TS, nguyên Hiệu trưởng Trường CĐ Sư phạm Nam Định

113. Nguyễn Ngọc Thạch, hưu trí,  Sài Gòn

114. Bình Mai, kỹ sư, Sài Gòn

115. Trần Rạng, nhà giáo, Sài Gòn

116. Nguyễn Thành Nga, bác sĩ- thương binh, BR-VT

117. Nguyễn Minh Châu, họa sĩ, hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam, HN

118. Bùi Hồng-Mạnh, cử nhân HH(73), CCB79, Blogger, Biên khảo tự do, Mu-ních, CHLB Đức

119. Mã Lam, nhà thơ, Sài Gòn

120. Võ Văn Thôn, nguyên Giám đốc sở Tư pháp TPHCM (DS từ 21.3.19)

121. Huỳnh Sơn Phước, nhà báo, Hội An, Quảng Nam

122. Đặng Trường Lưu, họa sĩ- nhà phê bình mỹ thuật, Hà Nội

123. Lê Kỳ Phương, nông dân làm vướn, Hà Nội

124. Trịnh Đình Hoà, hưu trí, Phương Liên, Đống Đa- HN

125. Nguyễn Tấn Thọ hưu trí ở Khánh Hoà

126. Nghiêm Ngọc Trai, hưu trí, Đống Đa-Hà Nội

127. Nguyễn Thị Kim Thái, lao động tự do, Hồng Gai- Hạ Long - Quảng Ninh

128. Nguyễn Quốc Sơn, họa sỹ, TP Huế

129. Ngô Đức Minh, cựu giáo chức hưu trí, Tp.HCM

130. Nguyễn Văn Khoa, kỹ sư, TP.Nha Trang-Khánh Hoà

131. Bùi Minh Quốc, nhà thơ- nhà báo, Đà Lạt

132. Đặng Đăng Phước, giáo viên, Dak Lak

133. Trần Đăng Quang, nhân viên quản lý, Hà Nam

134. Lê Văn Sơn, nhà báo tự do, Hoa Kỳ

135. Trần Văn Thành, linh mục quản xứ Tam Tòa, Đồng Hới, Quảng Bình

136. Nguyễn Văn Thành, lao động tự do, Nam Nghĩa- Nam Đàn- Nghệ An

137. Lê Xuân Hòa, kỹ sư dầu khí, hưu trí, TP Vũng Tàu

138. Nguyễn Hữu Phước, lao động tự do, Quảng Ngãi

139. Nguyễn Quang A, TS, nhà nghiên cứu- nhà hoạt động xã hội, Hà Nội

140. Nguyễn Ngọc Sơn, bác sĩ, nghỉ việc, Bà Rịa Vũng Tàu

141. Nguyễn Thị Bích Hoa, nội trợ, Bà Rịa Vũng Tàu

142. Nguyễn Thanh Hà, thạc sỹ-bác sỹ, Hà Nội

143. Trần Thanh Bình, kỹ sư hưu trí, sống ở Italy

144. Dương Tùng Châu , làm bảo vệ, ở Sài Gòn

145. Nguyễn Đức Nghĩa, kinh doanh, Sài Gòn

146. Lê Kim Dung, nguyên giáo viên đại học, Hà Nội

147. Nguyễn Chí Trung, VN Dân chủ xã hội đảng, SG

148. Lê Vinh, tiến sĩ, Alberta, Canada

149. Phan Quốc Tuyên, kỹ sư tin học, Genève, Thụy Sĩ

150. Nguyễn Thanh Tâm-Blogger ThanhTam Nguyen, Oregon, USA

151. Nguyễn Hữu Thao, Cựu chiến binh, hiện sống tại Sofia Bulgaria

152. Ngô Thị Kim Cúc, nhà văn- nhà báo, Sài Gòn

153. Lê Mỹ Hạnh, công chức nghỉ hưu, Pháp

154. Nguyễn Quang Tuyến, nghệ sĩ thị giác, San Francisco, USA

155. Trần Cao Phi, kỹ thuật viên điện tử, San Diego, California, USA

156. Nguyễn Hữu Viện, Đại học Số hóa Trực tuyến, thư viện Phan Châu Trinh CH Pháp

157. Nguyễn Xuân Nghĩa, Nhà giáo, TP HCM

158. Nguyễn Hải Sơn, công nhân, CHLB Đức

159. Nguyễn Đình Cống-GS, hưu trí, Hà Nội

160. Hà Dương Tường, nhà giáo về hưu, Pháp

161. Giáng Vân, nhà thơ, Hà Nội

162. Đinh T. Hinh, tiến sỹ kinh tế, chủ tịch công ty EGAT, Great Falls, VA 22066 USA

163. Hà Sỹ Phu, tiến sĩ sinh học, Đà Lạt, Lâm Đồng

164. Phan Quốc Hùng, lao động tự do, Thủ Đức, Sài Gòn

165. Trần Quang Lâm Sơn, Tam Hiệp, TP Biến Hòa, Đồng Nai

166. Đỗ Thắng Đức, chủ tịch Vitec Sài Gòn, PGĐ Cty Cốt sợi Polyme Việt Nam

167. Phan Thế Dũng, nhân viên ngân hàng, Q12, Sài Gòn

168. Nguyễn Thị Hường, sinh sống tại Malaysia

169. Đặng Đức Thịnh, nhân viên văn phòng, TP Cần Thơ

170. Hồ sỹ Thiên Thai, kỹ sư công nghệ thông tin, làm việc tại sài gòn

171. Lê Phước Sinh, dạy học, Sài Gòn

172. Đinh Văn Hương, bác sĩ, Hàn Thuyên, TP Vũng Tàu

173. Dương Thị Phương Hằng, tiến sĩ, Nghiệp đoàn báo chí VN, Hoa Kỳ

174. Nguyễn Văn Giang, lao động tự do, Vĩnh Thanh-Nhơn Trạch-Đồng Nai

175. Chu Sơn, nhà thơ tự do, QL13 Thủ Đức,TPHCM

176. Nguyễn Thị Kim Thoa - Bác sĩ, QL13 Thủ Đức ,TPHCM

177. Nguyễn Lê Uyên, nhà văn, P. Linh Trung, Thủ Đức, SG

178. Nguyễn Quốc Khải, cựu chuyên viên kinh tế Ngân Hàng Thế Giới, nhà báo độc lập Virginia, USA

179. Nguyễn Thế Hùng, luật sư, Đoàn Luật sư TPHCM, P. 5, Q. Bình Thạnh,HCM

180. Phan Văn Song, nguyên Q. Hiệu trưởng THPT chuyên Bến Tre. Sống ở Sydney, Australia

181. Vũ Thị Bích Sơn, giáo viên nghỉ hưu, TP Bảo Lộc,Lâm Đồng

182. Bùi Oanh, hưu trí, Sài Gòn

183. Nguyễn Tuấn Anh, kỹ sư điện, Hải Phòng

184. Nguyễn Trọng Việt, kỹ sư Thủy lợi hưu trí, P. Bạch mai, Q.Hai Bà Trưng,HN

185. Nguyễn Đình Mạnh, giáo viên, Hà Nội

186. Hà Trọng Tấn , TV CLB Lê Hiếu Đằng , Sài Gòn

187. Nguyễn Trung Dân, nhà báo, TPHCM

188. Nguyễn Đăng Quang, Đại tá, nguyên cán bộ Bộ Công an, Hà Nội

189. Lê Hoài Nguyên, nhà văn, Hà Nội

190. Đặng Đình Mạnh, luật sư, Q.10, Sài Gòn

191. Kha Lương Ngãi, nhà báo, TV CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn

192. Cao Lập, hưu trí, định cư Hoa Kỳ

193. Nguyễn Đông Yên, GS nghiên cứu và giảng dạy Toán học, Hà Nội

194. Nguyễn Thị Hạnh, hưu trí, Q.Bình Thạnh, HCM

195. Lê Văn Oanh, kỹ sư xây dựng, Hà Nội

196. Nguyễn Ngọc Thành, KDSX đồ gỗ, TP Biên Hòa, Đồng Nai

197. Ý Nhi, nhà thơ, TP Hồ Chí Minh

198. Đào Thanh Thuỷ, hưu trí, Hà Nội

199. Trần Công Tâm, hưu trí, Sài Gòn

200. Phùng Ngọc Huệ, hưu trí, Pháp

201. Vũ Ngọc Lân, kỹ sư luyện kim, Hà Nội

202. Nguyễn Phúc Thanh, dịch giả, Sài Gòn

Các “mê lộ” tấn công của Trung Quốc

Tô Văn Trường

Phân tích các dữ kiện lịch sử cho thấy bành trướng Đại Hán là tư tưởng xuyên suốt các triều đại từ thời phong kiến đến Trung Hoa hiện đại ngày nay. Việt Nam là địa bàn cửa ngõ để triển khai sự bành trướng xuống khu vực Đông Nam Á nhưng trong suốt hàng nghìn năm các triều đại phong kiến Trung Hoa tiến hành nhiều cuộc viễn chinh nhưng không chinh phục được, đó là lịch sử vẻ vang tự hào của các triều đại phong kiến Việt Nam.

Từ giai đoạn sau thắng lợi cách mạng 1949 lập nên nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, do tác động của các lực lượng và xu thế chính trị quốc tế, chiến lược bành trướng Trung Hoa có nhu cầu mạnh mẽ hơn, đồng thời có những thay đổi lớn về tư duy cũng như chính sách triển khai thực hiện rất tinh vi uyển chuyển được xây dựng trong ngắn hạn hay dài hạn tùy tình huống mà đối phương rất khó nhận biết, hoặc nhận biết được thì đã muộn không kịp ứng phó, tương tự “trận đồ bát quái” Khổng Minh lập ra thời Tam Quốc.

Ở giai đoạn này, Việt Nam lại càng đóng một vai trò quan trọng hơn trước đây do cả vị trí địa lý cũng như vị thế chính trị. Nếu chi phối được Việt Nam theo ý đồ Trung Quốc thì chiến lược bành trướng Trung Hoa xuống phía Nam và làm chủ Biển Đông sẽ thực hiện được nhanh chóng nhất. Đây cũng chính là sự lo ngại nhất của các nước Đông Nam Á và lãnh đạo an ninh thế giới.

Cách đây hơn 5 năm, tôi viết bài “Mê lộ tám hướng tấn công của Trung Quốc”, đến hôm nay nếu có bổ sung và cập nhật thì hợp lý nhất đó là kiểm điểm lại trong các năm qua Trung Quốc đã tiến thêm như thế nào một cách cụ thể trên cả 8 hướng đó.

Còn ngoài 8 hướng phá Việt Nam ra, có thể thấy thêm gì nữa không? Đó là Trung Quốc đã và tiếp tục chia rẽ ASEAN, mua chuộc, ép buộc và đi đêm với các thế lực quốc tế nhằm cô lập Việt Nam về mọi mặt khiến tiếng nói của Việt Nam trở nên lạc lõng và yếu ớt khi có biến cố bất lợi trên Biển Đông hoặc các tranh chấp khác với Trung Quốc xảy ra.

Cũng nên "kiểm toán" lại xem chính Việt Nam đã ngu ngơ hay vô tình tiếp tay thực hiện các mũi tấn công đó trong thời gian qua ra sao. Có lẽ rõ ràng nhất là chính quyền đang đánh mất lòng tin của người dân khi nhiều hoạt động yêu nước chống ngoại xâm lại bị đàn áp, cố tình hiểu sai lệch, bóp méo và chụp cho cái mũ của con ngáo ộp Việt Tân.

Tám hướng cũng đã là quá đủ để Trung Quốc có thể hạ gục đối thủ nhỏ bé như Việt Nam. Hướng thứ tám là hướng thâm độc và là hướng quyết định thành công của mọi hướng khác.

Gần đây, người dân cả nước quan tâm, phản đối luật 3 đặc khu kinh tế và dự án đường cao tốc Bắc Nam (do một tập đoàn Trung Quốc đề xuất) vì thấy rõ bàn tay “lông lá” của Tàu và bài học về dự án đường sắt trên cao Cát Linh-Hà Đông “tiền mất tật mang” đã nhãn tiền.

"Dùng người Việt để trị người Việt và đồng hóa người Việt ..." xưa nay nhiều kẻ ngoại xâm đã làm, kể cả Tàu trước đây. Cuối cùng, hướng này vẫn cứ thất bại thảm hại. Có lẽ vận nước mình còn lớn lắm.

Sách lược "lấy bất biến ứng vạn biến "cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh" cứu nước khi nước còn chưa nguy "mới là thượng sách. Chỉ cần chống lại hướng thứ tám bằng nội lực vươn lên của chính mình, nỗ lực vượt lên chính mình để cải tổ thể chế và hòa giải dân tộc thì hướng thứ tám của Tàu sẽ trở nên vô dụng.

Đọc Tam Quốc, trong lịch sử  trận đồ bát quái do Khổng Minh sáng tạo ra chỉ có hai người có thể phá nổi: Người thứ nhất là Hoàng Thừa Ngạn (bố vợ Khổng Minh) và người thứ hai là Khương Duy (học trò và là người kế tục sự nghiệp của Khổng Minh). Tướng Ngô là Lục Tốn nếu không có Hoàng Thừa  Ngạn chỉ đường chắc chắn sẽ chết tại trận đồ Bát Quái này của Khổng Minh.

Từ lâu, các thế hệ cầm quyền bành trướng Trung Hoa đã bày trận Bát quái này với người "đồng chí” Việt Nam. Ai sẽ là người Việt Nam có đủ tài năng, trí tuệ và bản lãnh phá trận này đây?

Người ta, thường vẫn hay dùng hình ảnh của tảng băng nổi trên mặt biển để nói về phần  NỔI  (ý là phần lộ diện : nhỏ) và phần CHÌM  (ý là phần tiềm tàng : lớn) – đó là theo lý thông thường, nhưng ở ta thì cái tảng băng (cũng hình chóp) đó lại lộn ngược lềnh bềnh nên rất khó đảo lại nhưng lại rất dễ tan, mau tan chảy! Cái hệ thống “lộn tùng phèo” này có vô số thứ để bàn theo kiểu “hội đồng chuột” (bàn cách treo chuông vào cổ mèo) nếu chưa đảo ngược lại được!

Trong phạm vi bài viết này, chúng ta cùng nhau điểm lại việc Trung Quốc dã tâm tấn công một cách có hệ thống như “mê lộ” tám hướng vào nước ta.

Hướng thứ nhất

Bằng mọi cách ngăn chặn mọi cơ hội Việt Nam độc lập tiếp xúc với văn minh thế giới, luôn tạo ra sự phụ thuộc vào Trung Quốc dưới chiêu bài phe XHCN. Ngay trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã dùng viện trợ quân sự và kinh tế để VN thắng Pháp ở mức loại bỏ ảnh hưởng của Pháp, không để Mỹ tiếp xúc với VN mà dùng biện pháp hòa bình nửa vời chia đôi 2 miền Bắc – Nam VN thực chất là gây tình trạng dẫn đến đối đầu Việt Nam dân chủ cộng hòa và Mỹ (không chỉ 2 miền VN mà cả nước Mỹ cũng bị rơi vào “bẫy” này).

Khi chiến tranh chống Mỹ kết thúc (trong khi Mỹ đang lúng túng, Trung Quốc chiếm luôn Hoàng Sa). Việt Nam thống nhất (thực chất không theo mong muốn của Trung Quốc) mặc dù Mỹ tích cực vận động bình thường hóa quan hệ 2 nước giúp VN phát triển mong muốn của thế giới và Đông Nam Á, nhưng Trung Quốc tiếp tục xúi giục (bẫy tiếp) VN thực hiện ý đồ / tham vọng thiết lập Liên bang Đông Dương, tiếp theo là đem quân sang Campuchia thực chất là các bẫy để thế giới nhận thấy VN rất hiếu chiến và mưu đồ bành trướng khó hợp tác!

Đến 1979 gây chiến tranh biên giới nói là cho VN, nhưng thực chất là cho cả thế giới bài học: “Chỉ Trung Quốc có thể dạy được VN mà thôi”, lãnh đạo CS VN không muốn sụp đổ hãy đến Thành Đô.

Từ đó đến nay, VN cứ từ bẫy này sang bẫy khác trong cái vòng luẩn quẩn hay “mê lộ” này, lãnh đạo VN chưa dám dù chỉ nghĩ tới thoát bẫy, đó là và chỉ là: độc lập tiếp thu văn minh nhân loại, mà lịch sử VN đã ghi nhận người khởi xướng đúng đắn (nhà trí thức Phan Châu Trinh) hơn 100 năm trước mà chưa thực hiện: “Khai dân trí, hậu dân túy, vị dân sinh” chứ không phải cố níu và phát triển các chương trình “câu giờ với lịch sử”: “đổi toàn vẹn lãnh thổ lấy tình hữu nghị viển vông”! Ngoài các hướng của mê lộ sau đây, theo thời gian nếu VN vẫn không có được tầng lớp tinh hoa, thì cái mê lộ này sẽ ngày càng phát triển có khi còn ngoài mong đợi của nhà cầm quyền Trung Quốc.

Sáu tỉnh biên giới phía Bắc của nước ta bị Trung Quốc dùng mọi thủ đoạn chiếm đoạt “gặm nhấm”. Ngày nay, các địa danh Mục Nam Quan, Thác Bản Giốc v.v… chỉ còn là hoài niệm trong sách giáo khoa và những câu ca dao của dân Việt. Chúng ta phải mất 6 năm điều đình, nhún nhường, phân định để xây được hơn 1500 cọc mốc bê tông biên giới Việt Trung cao 10-15 m, sâu trung bình 20 m nhưng vẫn chưa phải là bình yên vì đổ cho dân tại chỗ có “quậy phá” chỉ vì cho rằng mồ mả của người dân Trung Quốc vẫn còn nằm trên lãnh thổ Việt Nam!

Hướng thứ hai

Dùng các thủ đoạn mua chuộc các quan chức, lợi dụng “kẽ hở” của chủ trương đầu tư để thuê dài hạn đến 50 năm các khu vực trọng yếu về kinh tế và quốc phòng từ rừng núi, đến vùng ven biển của đất nước. Hậu họa đã nhãn tiền chẳng cần chờ đến 50 năm sau để con cháu lên án cha ông chết vì tham và ngu dại!

Hướng thứ ba

Phía Tây - Nam, ‘phiên dậu” của nước ta ở Campuchia và Lào nhiều vùng đất rộng lớn đã được Trung Quốc đầu tư, mua bán. Trước đây, các du học sinh người Lào còn thích sang Việt Nam học tập nhưng ngày nay địa điểm đến của họ là Trung Quốc vì học bổng cao gấp 30 lần so với Việt Nam, lại còn được cho về phép v.v… Sau tầng lớp cán bộ trung kiên gắn bó với Việt Nam già mất đi, dễ hiểu “đòn xoay trục” của Tàu sẽ như thế nào với tầng lớp kế cận ở các nước phía Tây Nam của nước ta.

Chùa xứ ta, chùa xứ người

Từ Thức

Qua những tiết lộ về chùa Ba Vàng, người ta thấy khuôn mặt ghẻ lở của Phật giáo quốc doanh. Từ đó, nhiều người có cái nhìn tiêu cực về Phật giáo. Đúng ra, đó không phải là Phật giáo, cũng không phải là Phật giáo VN. Đó là Phật giáo quốc doanh, chỉ có ở những nước Cộng sản. Không phải ở đâu người ta cũng ‘’hành đạo’’ một cách côn đồ, đểu cáng kiểu Thích Thanh Quyết, Thích Trúc Thái Minh.

Sân chùa

Hãy thử viếng một ngôi chùa Nhật Bản. Chùa cực kỳ thanh tịnh, khách rơi vào một thế giới bình yên, tự nhiên quên phiền muộn, oán thù.

Chùa cực kỳ đơn giản, bởi vì Phật Giáo, trước hết là thoát khỏi sân si, cám dỗ, từ bỏ những hệ lụy vật chất.

Điển hình là sân nhà chùa, nhiều khi chỉ trần trụi sỏi, đá vụn; để cái nhìn, tâm hồn của người tu hành, hay Phật tử viếng thăm, không bị chi phối bởi ngoại vật, dù một bức tượng, một cành hoa. Chỉ có mình với đá, với Phật. Với mình.

Mỗi ngày, một người có tâm Phật tới cào sân đá. Đó là cả một nghệ thuật, phải học suốt đời. Cái gì ở xứ Phù Tang cũng là nghệ thuật. Mỗi cử chỉ nhỏ là một biểu tượng. Những luống đá, sỏi trên sân chùa là một trạng thái của tâm hồn. Cào sân là một cách thiền.

Một hoà thượng trụ trì một hôm nhìn sân đá vừa cào, hỏi người cào sân: đệ tử có gì bất an trong lòng? Người cào sân ứa nước mắt, thú thực có chuyện buồn trong gia đình, khiến cho tâm động, để cái bất ổn trong tâm trí hiện trên đường chổi, trên những luống đá sỏi.

Người tu hành không có người hầu hạ, phải thức dậy từ 3, 4 giờ sáng để lau chùi, quét dọn và kinh kệ. Tham dự vào đời sống hàng ngày cũng thuộc hoạt động của người tu hành.

Trước khi đọc kinh phải học tập để hiểu ý nghĩa, không phải chỉ ê a cho có. Đọc kinh mỗi ngày khi hiểu kinh để những lời kinh thấm vào đầu óc, thể hiện trong cách xử thế, không phải để cho Phật vui lòng. Cũng không phải cầu xin gì, ngoài việc nhờ Phật giúp mình tìm cái thanh tịnh cho tâm hồn.

Bữa ăn cực kỳ thanh đạm, không có cảnh các bà, các cô chạy lên, chạy xuống, rót rượu, quạt mát cho các thầy quốc doanh ngồi phưỡn bụng nhậu nhẹt, đưa cay với bia, với Martell đắt tiền , đùa dỡn như vỡ chợ.

Bữa ăn yên tĩnh, nghe tiếng ruồi bay, bởi vì khi ăn phải suy ngẫm về ý nghĩa của sự dinh dưỡng, về thiên nhiên, về môi trường đã cho cây quả, cơm gạo. Bởi vì Phật tử phải biết sống giây phút hiện tại. Chẻ một sợi rau, rửa chén bát phải đặt hết tâm vào chuyện rửa chén, chẻ rau. Tìm cái vui, cái hạnh phúc trong mỗi cử chỉ nhỏ hàng ngày.

Trong nhiều chùa, nhà tu khi ăn để bên cạnh 9 hạt cơm. Một chú tiểu đi thu những hạt cơm đó, đem ra vườn cho chim chóc. Bởi vì khi ăn, khi hưởng thụ, phải nghĩ tới chúng sinh. Người tu hành không sống một mình, không sống cho mình.

Phật tại tâm

Chùa chiền Nhật Bản, đôi khi cao 3 hay 5 tầng, bao giờ cũng hoà hợp với thiên nhiên, với cảnh vật chung quanh. Mỗi ngọn cây, mỗi khóm trúc, mỗi dòng suối đều có ý nghĩa, là biểu tượng cho một triết lý sống.

Người ta không vạt cả một ngọn núi, san bằng ngọn đồi để làm những ngôi chùa to tổ bố, bê tông cốt sắt, trang trí xanh, đỏ, tím vàng, để vênh váo khoe khoang đã xây một ngôi chùa lớn nhất Đông Nam Á (nhưng lờ đi không nói bạc tỷ lấy đâu xây chùa ?)

Riêng chuyện tàn phá thiên nhiên, kho tàng của đất nước, đã là một cái tội nặng ngàn cân. Chưa nói tới chính sách ngu dân thô bạo. Bên cạnh những bài dạy về tư tưởng bác Hồ, những lời dạy kỳ quái về y khoa (ung thư là do các oan hồn nhập vào thân, chiếm các tế bào, bệnh tâm thần vì đã vô lễ với… quan, bị các vong hồn trả thù ; muốn hết ung thư, hết bệnh phải đóng tiền cho ‘’vong‘’, ít nhất 9 triệu 7!)

Người Nhật biết kính trọng môi trường trước khi từ ngữ đó ra đời. Ở VN cũng vậy, chùa chiền ngày xưa có bao giờ kệch cỡm, thô tục như ngày nay?

Phật không trọng hình thức. Phật không đòi chùa bạc tỷ. Phật tại tâm.

Chuyện xưa: một chú sãi theo một vị chân tu học đạo. Mặc dù siêng năng, thuộc lòng kinh kệ, suốt ngày rung chuông gõ mõ, vẫn bị thầy chê là chưa hiểu giáo lý nhà Phật. Một đêm trời cực kỳ lạnh, thầy trò đốt hết vật dụng trong nhà để sưởi. Hết bàn ghế, giường tủ, thầy sai trò vào chánh điện, tìm những gì có thể đốt được. Trò mang hết chổi cùn, rế rách ra đốt. Lửa tàn, trời lạnh hơn nữa, thầy sai trò đi tìm củi. Chú sãi vào chánh điện, quả thực không còn gì, ngoài tượng Phật bằng gỗ quý. Đành gãi đầu, gãi tai, mang ra, đốt. Thầy khen đệ tử đã bắt đầu hiểu giáo lý nhà Phật.

Nhà cầm quyền An Giang đàn áp, ngăn cấm “Đại lễ kỷ niệm ngày Đức Huỳnh Giáo Chủ vắng mặt”

Đàm Ngọc Tuyên

“Ngày 25/2 L hằng năm, GHPGHHTT vẫn cử hành Đại lễ kỷ niệm ngày Đức Huỳnh Giáo Chủ vắng mặt đều đặn. Cho dù nhà cầm quyền không cho phép, cho dù nhà cầm quyền dùng đủ mọi thủ đoạn khắc nghiệt nhất để đàn áp tín đồ chúng tôi thì chúng tôi vẫn tiến hành. Nhà cầm quyền họ đang vi phạm nghiêm trọng quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của người dân - một quyền Hiến định.”


Các Trị sự viên của Giáo hội Phật giáo Hoà Hảo truyền thống tham dự Lễ An vị vào ngày 20/3ÂL để chuẩn bị cho ngày Đại lễ.  Ảnh: Ô. Lê Quang Hiển.Hằng năm, vào ngày 25/2 L, tại An Giang, sẽ diễn ra “Đại lễ kỷ niệm ngày Đức Huỳnh Giáo Chủ vắng mặt”. Đức Huỳnh Giáo Chủ (Ông Huỳnh Phú Sổ) là Giáo chủ của Giáo Hội Phật Giáo Hoà Hảo. Để phân biệt với Giáo Hội Phật Giáo Hoà Hảo Quốc Doanh, trong bài viết này, Giáo Hội Phật Giáo Hoà Hảo Truyền Thống sẽ được viết tắt GHPGHHTT.

Theo như tinh thần Thông bạch của GHPGHHTT, “Đại lễ kỷ niệm ngày Đức Huỳnh Giáo Chủ vắng mặt” năm thứ 72 (25/2 L/năm Đinh Hợi 1947 - 25/2/năm Kỷ Hợi 2019) điểm lễ chính của Ban trị sự (BTS) Trung ương sẽ tổ chức tại xã Long Giang, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Chánh lễ sẽ được cử hành vào ngày 25/2 L (tức ngày 30/3 DL).

Như nhiều năm trước đó, trong suốt thời gian diễn ra Đại lễ kỷ niệm, nhà cầm quyền tỉnh An Giang luôn đàn áp, sách nhiễu và phá hoại, ngăn cấm GHPGHHTT tổ chức Đại lễ. Bằng cách họ - nhà cầm quyền - ở An Giang, và những tỉnh lân cận như Đồng Tháp, Vĩnh Long sẽ cử lực lượng công an thường phục, sắc phục quấy nhiễu, ngăn cản người dân, tín đồ đến tham dự Đại lễ. Đặc biệt, ngăn chặn sự tự do đi lại của những vị chức sắc trực thuộc GHPGHHTT.

Theo nguồn tin từ ông Nguyễn Văn Cường, Tổng Vụ trưởng Vụ Tổ chức BTS Trung ương GHPGHHTT, ngày hôm nay 28/3/2019, an ninh đã lảng vảng theo dõi nhà riêng các Trị sự viên các cấp GHPGHHTT. Đồng thời, nhà cầm quyền tỉnh An Giang đã triển khai lực lượng C.A các loại để đóng chốt chặn hai đầu điểm lễ chính của GHPGHHTT tại xã Long Giang, huyện Chợ Mới vào chiều nay 23/2 L (28/3).

Chúng tôi đã liên lạc được với ông Lê Quang Hiển, Chánh Thư ký BTS Trung ương của GHPGHHTT, Tổng Thư ký của Hội đồng Liên tôn VN (HĐLTVN) ông Hiển cho biết:

“Tại trụ sở tạm thời của BTS Trung ương GHPGHHTT ở xã Long Giang, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, C.A địa phương và C.A tỉnh An Giang vào lúc 18h hôm nay, ngày 28 tháng 3 năm 2019 nhằm 23 tháng 2 năm Kỷ Hợi (âm lịch) đã đưa lực lượng của họ đóng chốt tất cả những nẻo đường đi đến điểm tổ chức “Đại lễ kỷ niệm năm thứ 72 ngày Đức Huỳnh Giáo Chủ vắng mặt”. Họ (C.A) không cho xe qua lại đoạn đường trước trụ sở, nơi đặt lễ đài, và các bến phà đều bị kiểm soát thật chặt chẽ, họ ngăn chặn không cho người địa phương khác đến.

Riêng tại địa điểm hành lễ, thì nội bất xuất ngoại bất nhập. Chỉ riêng gia đình ông Tám Hiền (chủ nhà) là được phép đi lại thôi, còn những người khác dù là dân địa phương hay gần đó cũng không cho vào”.

Ông Hiển nói thêm:

“Ngày 25/2 L hằng năm, GHPGHHTT vẫn cử hành Đại lễ kỷ niệm ngày Đức Huỳnh Giáo chủ vắng mặt đều đặn. Cho dù nhà cầm quyền không cho phép, cho dù nhà cầm quyền dùng đủ mọi thủ đoạn khắc nghiệt nhất để đàn áp tín đồ chúng tôi thì chúng tôi vẫn tiến hành. Nhà cầm quyền họ đang vi phạm nghiêm trọng quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của người dân - một quyền Hiến định”.

Người Việt tại Nhật: bào mòn cả thể xác lẫn tinh thần

Hoa Nghi lược và tổng hợp

Trong biến động tha hóa của Phật giáo Việt Nam, thì ở tại Nhật, một ni cô người Việt lại lặng lẽ cầu siêu người cho người lao động Việt Nam đã chết tại Nhật.


Thích Tâm Trí, một nữ tu Phật giáo, người đã đến Nhật 20 năm trước

Theo Reuters ngày 29.3 cho biết, tại một ngôi chùa ở Tokyo, hàng loạt bài vị bằng gỗ có khắc tên những người Việt đã chết khi làm việc hoặc học tập, nhiều người trong số đó là sinh viên hoặc thực tập sinh kỹ thuật ở độ tuổi 20 hoặc 30.

“Bất cứ khi nào tôi được liên lạc liên quan đến một cái chết, tôi chỉ có thể nói: “Tại sao?” và “Lại nữa sao?”

Thích Tâm Trí, một nữ tu Phật giáo, người đã đến Nhật 20 năm trước.

“Những người trẻ này sống trong cảnh nghèo khổ ở Việt Nam, và cha mẹ họ đang phải chịu đựng khó khăn”.

“Họ làm việc chăm chỉ ở Nhật”, “Họ có những giấc mơ, và rồi họ đột ngột qua đời!”.

Những người mà nữ tu Thích Tâm Trí đề cập là những người bị hấp dẫn bởi mức lương cao hơn nhưng đồng thời, họ chịu gánh nặng bởi các khoản nợ đối với các nhà tuyển dụng.

Người Việt Nam là nhóm người nước ngoài gia tăng nhanh nhất ở Nhật Bản, và Chính phủ Tokyo chào đón người Việt nhằm đối phó với tình trạng thiếu lao động.

Cạnh những người trẻ, còn có một đài tưởng niệm dành cho trẻ sơ sinh – những đứa trẻ bị bỏ rơi và chết yểu ngay khi chào đời.

Người Việt tại Nhật đối diện với thực trạng làm việc quá sức, bị quỵt tiền lương và quấy rối.

Nhiều người chết vì kiệt sức, vì tai nạn, và cả vị sự căng thẳng đến mức tự tử. Người Việt tại Nhật đối diện với thực trạng làm việc quá sức, bị quỵt tiền lương và quấy rối. Rất nhiều thanh niên Việt đã chết vì suy tim cấp tính, ở độ tuổi 20. Nhiều người Việt tại Nhật rơi vào tình trạng suy dinh dưỡng vì họ thường ăn mì ramen để tiết kiệm tiền. Và hầu hết, người lao động tiết kiệm tiền để gửi về cho gia đình ở Việt Nam hoặc trả các khoản nợ mà họ đã phải chịu để đến Nhật Bản.

Tại quê nhà của những người tử nạn, gia đình họ từng đặt rất nhiều kỳ vọng, những người cha (mẹ) tự hào và khoe với hàng xóm về đứa con trai, con gái đang làm việc ở Nhật. Nhiều hy vọng được gửi gắm đến những thực tập sinh, nhưng kết quả là không ít gia đình nhận lại hài cốt, và một số bức ảnh.

Thu bất động sản giảm mạnh, lấy đâu tiền nuôi đội ngũ ăn không ngồi rồi?

Minh Quân

3 tháng đầu năm 2019 dù trôi qua với kết quả tạm thời yên tâm dành cho chính thể độc đảng ở Việt Nam về thu ngân sách vẫn tăng so với cùng kỳ năm 2018, nhưng một ‘tin mừng’ bắt buộc phải xảy ra cũng kèm theo: nguồn thu từ tiền sử dụng đất liên tục giảm sâu.

Sài Gòn - nơi được xem là bò sữa’ về thu thuế của Bộ Chính trị, cũng là thành phố có nguồn thu bất động sản lớn nhất và thị trường nhà đất nơi đây đã được các nhóm đầu cơ cá mập ‘đánh lên’ suốt từ năm 2017 đến gần đây, trong 3 tháng qua có số thu thuế bất động sản chỉ ước 1.308 tỷ đồng, đạt 13,08% dự toán và giảm đến 74,85% so cùng kỳ.

Nhiều khu dân cư trở thành bãi chăn bò

Trong một cuộc báo cáo cho Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội vào trung tuần tháng Năm năm 2018, chính bộ trưởng “Bộ Thắt Cổ” – ông Đinh Tiến Dũng – đã phải thừa nhận một sự thật trần trụi và tàn nhẫn trong cơ cấu thu ngân sách của chính thể độc đảng ở Việt Nam vào năm 2017: dù tổng thu cân đối ngân sách nhà nước năm 2017 vượt 49,16 nghìn tỷ đồng so với số báo cáo Quốc Hội, vượt 76.48 nghìn tỷ so với dự toán, nhưng số tăng thu đạt được chủ yếu không phải từ hoạt động sản xuất kinh doanh mà là nhờ tăng thu từ tiền sử dụng đất (61,58 nghìn tỷ đồng so với dự toán), và một phần khác từ thu cổ tức và lợi nhuận còn lại của doanh nghiệp nhà nước (15,19 nghìn tỷ đồng), tăng thu từ dầu thô (11,28 nghìn tỷ đồng so với dự toán).

Đến tháng Mười năm 2018, một bản báo cáo của cơ quan Kiểm Toán Nhà Nước Việt Nam được công bố đã phải thừa nhận rằng phần thu cân đối ngân sách nhà nước 2018 tuy có thể đạt 1.358,4 nghìn tỷ đồng – tức tăng 3% so với dự toán, nhưng đây là số tăng thấp nhất so với kết quả thực hiện dự toán trong 4 năm trở lại đây.

‘Đối tác chiến lược Việt - Đức’ lại sụp đổ?

Phạm Chí Dũng

Bộ Trưởng Kinh Tế Đức, Peter Altmaier, trong một cuộc phỏng vấn tại Berlin.

Thậm chí báo Nhân Dân - cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Việt Nam - còn không thèm đưa một mẩu tin nào ngay sau khi diễn ra sau cuộc gặp giữa thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc với Bộ trưởng Kinh tế và Năng lượng Đức Peter Altmaier vào chiều ngày 25 tháng 3 năm 2019 tại Trụ sở Văn phòng Chính phủ ở Hà Nội, trong lúc vẫn đưa bản tin “Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tiếp Chủ tịch Ủy ban Truyền thông Hàn Quốc” mà về mặt ngoại giao và chính trị là không thể quan trọng bằng cuộc gặp Phúc - Altmaier.

Trước đó ít ngày, hệ thống tuyên giáo và báo chí nhà nước đã mở một đợt tuyên truyền khấp khởi hy vọng về ‘làm sâu sắc hơn mối quan hệ đối tác chiến lược Việt - Đức’, hay chân thật hơn thì hé môi về ‘phục hồi quan hệ đối tác chiến lược Việt - Đức’, đồng thời ra sức cổ vũ cho tín hiệu bật đèn xanh của Bộ trưởng Đức Peter Altmaier về ‘Đức thúc đẩy sớm ký kết và phê chuẩn EVFTA (Hiệp định thương mại tự do châu Âu - Việt Nam).

‘Ăn không được thì đạp đổ’

Chuyến công du Việt Nam của Bộ trưởng Kinh tế và Năng lượng Liên bang Đức Peter Altmaier vào tháng Ba năm 2019 được phía Việt Nam kỳ vọng là một dấu mốc về sự khởi về ‘phục hồi quan hệ ngoại giao và kinh tế’ giữa Berlin và Hà Nội, kể từ khi bùng nổ vụ Nhà nước tố cáo mật vụ Việt Nam bắt cóc Trịnh Xuân Thanh vào tháng 7 năm 2017 và kéo theo phản ứng phẫn nộ và mạnh mẽ hiếm thấy: Đức thẳng tay tạm ngừng Quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam vào tháng 9 cùng năm đó, tiếp đến đình chỉ hiệp định miễn visa cho cán bộ ngoại giao Việt Nam đi công tác ở Đức, đồng thời hoãn hoặc hủy bỏ hàng loạt chương trình viện trợ kinh tế cho chính thể độc đảng ở Việt Nam.

Nhưng bây giờ thì chẳng còn gì trên mặt báo đảng và mặt mũi giới chóp bu Việt Nam. Tất cả vụt biến mất như một thế giới ảo ảnh được dựng nên bởi những động cơ băng hoại.

Sự im lặng tàn nhẫn và quay quắt của những tờ báo đảng Việt Nam sau cuộc gặp Nguyễn Xuân Phúc - Peter Altmaier càng làm lộ ra bằng chứng về não trạng và thói hành xử ‘ăn không được thì đạp đổ’ của giới quan chức cao cấp và thực dụng đến mức quắt quay ở Việt Nam.

Điều gì đã xảy ra?

Trịnh Xuân Thanh và nhân quyền!

Trang Thoibao.de cho biết Bastian Hartig - phóng viên của đài Deutsche Welle tháp tùng phái đoàn Bộ trưởng Altmaier - đã viết trên Twitter: “Trong cuộc hội đàm với Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc, Bộ trưởng Kinh tế Đức Peter Altmaier nói, Chính phủ Đức hy vọng rằng các sự cố đã làm xấu đi mối quan hệ sẽ không lặp lại, đó là vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh”.

Ngoài ra trong một bài tường thuật, phóng viên David Zajonz của đài phát thanh Đức MDR đưa tin, ngoài vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, Bộ trưởng Altmaier còn đề cập đến vấn đề nhân quyền trong cuộc hội đàm với Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc. Trích dịch bài tường thuật (từ phút thứ 1:43):

“Tham nhũng cũng là một đề tài lớn. Vấn đề quan trọng nhất trong quan hệ giữa hai nước không phải là kinh tế, mà là vụ bắt cóc ngoạn mục Trịnh Xuân Thanh trên nước Đức bởi mật vụ Việt Nam ở giữa đường phố Berlin. Trịnh Xuân Thanh ngồi tù ở Việt Nam gần 2 năm nay. Hậu quả là một thời kỳ băng giá trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Tình hình nhân quyền ở Việt Nam nói chung là xấu”.

Trước chuyến đi Việt Nam của Bộ trưởng Altmaier, các Nghị sĩ Quốc hội Liên bang Đức thuộc Đảng Xanh đã yêu cầu Bộ trưởng Altmaier nỗ lực cho nhân quyền. Tại Việt Nam ông Altmaier đã đề cập đến vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, nói về một giai đoạn khó khăn trong quan hệ giữa hai nước. “Dĩ nhiên tôi cũng đã nói chuyện về những vấn đề giữa hai nước. Nhân quyền đóng một vai trò quyết định trong chính sách của nước Đức, bất kể là nhân quyền ở nước nào. Tôi đã nêu rõ điều đó với đối tác hội đàm“, Bộ trưởng Altmaier nói”…

Việt Nam sao không thể phát triển công nghiệp?

Nguyễn Quang Duy

Viễn ảnh Việt Nam trở thành một nền kinh tế dựa vào công nghệ và sáng tạo thường được thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ca ngợi, nhưng ước mơ công nghệ hóa đất nước của những người cộng sản càng ngày càng xa rời thực tế.

Thực tế Việt Nam vẫn là một nước với nền kinh tế tiểu thương, tiểu nông, ngày càng lệ thuộc vào các công ty đa quốc gia và vào nhập cảng hàng hóa tiêu dùng từ nước ngoài.

Doanh nhân Việt Nam chịu nhiều bất công từ chính sách, luật pháp đến môi trường kinh doanh nên không thể phát triển, các doanh nghiệp tư nhân đóng góp chưa đến 10% GDP, 96% các doanh nghiệp đều nhỏ hay rất nhỏ chỉ được xem là tiểu thương hay tiểu doanh nhân.

Kinh tế hộ gia đình bao gồm tiểu thương, tiểu thủ công nghệ, buôn bán bán bưng và tiểu nông vẫn chiếm tới 32% GDP.

Doanh nghiệp nhà nước (DNNN)

Khu vực kinh tế quốc doanh theo thống kê vẫn chiếm 27% GDP, trên thực tế tỷ lệ có thể lớn hơn rất nhiều vì định nghĩa DNNN chưa được rõ ràng.

Các BOT bẩn có vốn đầu tư từ các ngân hàng nhà nước lên đến 90% như thế có thuộc DNNN không?

Các doanh nghiệp cổ phần hóa, nhà nước vẫn giữ cổ phần như thế có thuộc DNNN không?

Đã có 3 ngân hàng cổ phần được Ngân hàng Nhà nước mua lại toàn bộ cổ phần với giá 0 đồng, như vậy các ngân hàng cổ phần khác có thuộc DNNN không?

Các doanh nghiệp làm sân sau cho các nhóm lợi ích có thuộc DNNN không?

Trên chỉ là vài thí dụ, theo chủ trương của đảng Cộng sản kinh tế quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo, DNNN vẫn được nhà nước tiếp tục nuôi dưỡng mặc dầu tham nhũng, lợi ích nhóm, lãng phí của công, thiếu hiệu quả tràn lan trong khu vực này.

Trong khi đó muốn có một môi trường kinh doanh công bằng cho việc phát triển đất nước, Hà Nội phải chấm dứt can thiệp vào hoạt động của DNNN, chấm dứt mọi trợ cấp, cho vay ưu đãi, bảo lãnh vay, xóa nợ, ưu đãi nguồn lực đất và tài nguyên.

Hà Nội phải để các DNNN tuân thủ nguyên tắc thị trường không được bù lỗ, không giảm trừ thuế và DNNN phải bình đẳng cạnh tranh kinh doanh với khu vực tư nhân.

Những hiệp định thương mãi quốc tế buộc Hà Nội phải tiếp tục cổ phần hóa các DNNN cũng như mở cửa khu vực dịch vụ công cộng cho các doanh nghiệp nước ngoài vào khai thác.

Trong việc cổ phần hóa các DNNN cần được “xã hội hóa” bằng cách bán cổ phần cho dân chúng, từ trẻ đến già mỗi người một ít, như nhiều quốc gia trên thế giới vẫn làm, thay vì bán cho người nước ngoài. Trường hợp công ty bia Sài Gòn Sabeco bán tới 53,59% cổ phần cho tỷ phú Thái Charoen Sirivadhanabhakdi.

Tản mạn đôi điều nhân ngày 26 tháng Ba (Mênh mông thế sự để gió cuốn đi số 62)

Tương Lai

Như thường lệ, sáng mở tivi nghe đôi dòng thời sự, VTV1 nói nhiều về 26 tháng Ba, ngày thành lập Đoàn Thanh niên, tiếp đó là tin về chùa Ba Vàng, ngôi chùa quốc doanh buôn thần bán thánh kiếm tiền tỷ hàng ngày, tin về vụ bê bối chữa điểm ở tỉnh Hòa Bình, tin về tai nạn giao thông… Cũng chỉ là hoàn toàn ngẫu nhiên khi người ta cập nhật tin tức, mất công “chẻ sợi tóc là tư” làm chi thêm rách việc.

Biết vậy. Nhưng sao vẫn cứ thấy lướng vướng thế nào trong dòng mạch tư duy. Thì chẳng phải với kiến thức abc về phép biện chứng cũng hiểu được rằng, cái tất nhiên thông qua cái ngẫu nhiên mà biểu hiện ra đó sao? Những hiện tượng ngẫu nhiên ấy khuấy động dữ dội trong tôi những kỷ niệm riêng tư về ngày tôi gia nhập Đoàn Thanh niên Cứu quốc năm 1953 vào thập kỷ 50 thế kỷ trước.

Liệu có phải tư duy của tuổi quá “cổ lai hy” hơn một thập kỷ rồi như tôi, cứ thấy lướng vướng là vì thế? Lướng vướng, nhưng có lẩm cẩm và lạc điệu quá không? Chẳng phải ai đó đã nói rất hay rằng, những gì làm nên sự thành công của hôm qua có thể là một thất bại cho hôm nay đó sao. Dù biết rằng đó là lời nhắc nhở của nhà kinh tế Mỹ từng nhận giải Nobel về hoạt động của một doanh nghiệp, nhưng chắc là không dừng lại ở các doanh nhân. Những suy nghĩ tuổi trẻ của 70 năm trước chắc chắn là khác xa với thời đại của công nghiệp 4.0 hôm nay.

Nghĩ thế để tự biện hộ cho việc khỏi phải ngồi vào máy tính mà mênh mông thế sự đôi dòng gửi gió cuốn đi về thế sự đang lướng vướng trong đầu khi mà sức khỏe đang xuống cấp chỉ muốn nằm vắt tay trên trán và nhìn lên trần nhà, thay vì hì hục vừa nghĩ vừa gõ bàn phím.

Thế nhưng tuổi già trong tôi lại thường thả hồn mình theo những hoài niệm. Mà “hoài niệm” với “hoài cổ” lại quá khăng khít với nhau. Nhưng những hoài niệm lại gợi nhớ những gì bản thân mình đã trải qua thường thức dậy trong tôi những cảm hứng dấn bước về những giấc mơ ở phía trước, cho dù lực bất tòng tâm. Nói vậy vì tôi hay suy ngẫm về một ý tưởng của Gabriel Marquez, tác giả Trăm năm cô đơn mà với tôi, đó là một mệnh đề mang tính triết lý “Không phải người ta ngừng theo đuổi giấc mơ vì mình già đi. Người ta già đi vì ngừng theo đuổi giấc mơ”. Thì chẳng phải tuổi của trái tim không được đo bằng tóc bạc, cũng một câu nói đậm chất triết lý đã tiếp thêm nguồn sinh lực cho những ai sớm chấp nhận cách sống theo kiểu “lão giả an chi” đó sao?

Nhưng cùng với những điều đó, để mình không lạc hậu và lạc điệu với những ứng xử và khát vọng của tuổi trẻ hiện nay, tôi vẫn tâm niệm một ý tưởng đã được viết ra mười năm trước để tự định hướng một phương châm hành động “nếu chỉ quen với con đường mòn, người đi sau giẫm lên dấu chân của người đi trước, sẽ dẫn đến thảm hoạ vì con đường mòn đó không có lối ra trong một thế giới đầy biến động với những bước đột phá mà mọi sự dự đoán đều không chắc chắn”.

Đúng, mọi dự đoán đều không chắc chắn. Nhưng có những nguyên lý lại có giá trị vĩnh hằng. Thì chẳng phải Einstein đã nói rõ điều ấy “chính trị chỉ cho hiện tại nhưng phương trình là mãi mãi” đó sao? Nếu mối liên hệ giữa một hay nhiều số chưa biết với những số được xem là biết rồi trong khoa học tự nhiên, đặc biệt là trong toán học và hóa học, được diễn đạt trong “phương trình” mà Einstein khẳng định là mãi mãi, thì trong khoa học xã hội khi triển khai nghiên cứu về các phương diện con người của thế giới thì liệu có bao nhiêu điều được xem như đã biết, vô vàn điều chưa biết trong cái “tiểu vũ trụ” này?

Vậy thì điều là “mãi mãi”, là “chắc chắn” trong cuộc sống con người phải chăng chính là hành trình con người đi tìm chính mình để tự khẳng định mình. Trong suy nghĩ và tâm niệm của tôi phải cố gắng sao để tự khẳng định mình trong cuộc sống đầy biến động để không bị gục ngã, để mình được là chính mình mà tôi xem đó là một nguyên lý dẫn dắt cuộc sống mà tôi mong muốn. Và đó cũng là điều tôi mong mỏi ở các con tôi, cháu tôi.

Đấy cũng là hy vọng mãnh liệt của tôi hướng về tuổi trẻ, những người đang và sẽ đưa đất nước ta bứt lên khỏi cái thực trạng nhiễu nhương hiện nay. Trong thực trạng nhiễu nhương đó, cái đáng sợ nhất là sự băng hoại ý chí tự khẳng định mình của một bộ phận tuổi trẻ Việt Nam hôm nay. Đó là hệ lụy trực tiếp đã kéo dài nhiều thập kỷ của chế độ toàn trị phản dân chủ bị thao túng bởi chính sách thâm hiểm của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam.

Trao đổi với ông Nhị Lê

Nguyễn Đình Cống

Được biết ông là tiến sĩ, phó TBT tạp chí Cộng sản. Như vậy ông thuộc loại trí thức bậc cao của ĐCSVN. Tôi đã đọc nhiều bài viết của ông và bạn ông để biết các trí thức của Đảng suy nghĩ và viết như thế nào. Tôi vừa đọc bài do Lan Anh ghi, có đầu đề: Ông Nhị Lê: “Là đảng viên tôi suy nghĩ rất nhiều về chữ liêm chính” (Viet-Studies và Vietnam-net ngày 23/ 3/ 2019). Đọc xong tôi cảm thấy buồn cho trình độ hiểu biết của các trí thức đảng, đặc biệt khi xem lời bình “Còn THD không phải là đảng viên nên nghĩ rất ít về 2 chữ này”.

Liêm chính! Tại sao đảng viên, trí thức cấp cao suy nghĩ rất nhiều, thế mà không phải đảng viên lại nghĩ rất ít? Liệu có gì mâu thuẩn hoặc nghịch lý ở đây?

Ông Nhị Lê, khi đọc bài này của tôi chắc ông sẽ có phản ứng. Xin bình tĩnh suy xét. Tôi rất muốn gửi Email hoặc gọi điện thoại cho ông nhưng không tìm thấy địa chỉ. Tôi để lại địa chỉ cuối bài, rất mong được trao đổi ý kiến. Sẽ rất tốt khi ông vui lòng gặp trực tiếp để trao qua đổi lại kịp thời. Tôi vẫn mong được đối thoại về Mác Lê, về Đảng cầm quyền với các trí thức bậc cao của Đảng mà chưa có dịp.

Ông đã có một số câu phù hợp với tôi, như là: “Tất cả những “ung nhọt” mà cán bộ, Đảng viên ở các cấp mắc phải phản ánh rất rõ một thực tế: Đảng dù đã rất cố gắng xử lý tệ thoái hóa, biến chất nhưng vẫn chưa đạt mục tiêu…; Lòng tin của nhân dân là tài sản thiêng liêng nhất, quý báu nhất của Đảng…; Trước đây được đứng vào hàng ngũ của Đảng là niềm tự hào, vinh dự, có ý nghĩa thiêng liêng đối với mỗi người, cũng như cả gia đình, dòng họ…;”.

Tuy vậy những giải thích, những lập luận của ông là ngược với tôi. Ông có biết vì sao trước đây được vào Đảng là niềm tự hào, vinh dự không? Đó là do 3 nguyên nhân chính sau: 1- Vào Đảng sẽ có đặc quyền, đặc lợi; 2- Sự tuyên truyền rất mạnh về vinh dự trở thành đảng viên; 3- Đảng còn dựa vào lòng yêu nước và người ta còn thấy nhiều đảng viên tốt.

Trước đây nhiều người vì lòng yêu nước, vì muốn cống hiến mà vào Đảng. Những người như vậy dần dần giảm xuống, chỉ còn chiếm một tỷ lệ thấp trong tổng số đảng viên. Chính vì nguyên nhân 1 và 2, cộng với một số sai lầm trong thủ tục xét kết nạp mà khi Đảng đã nắm chính quyền thì rất nhiều bọn cơ hội tìm cách lọt vào bằng những thủ đoạn thiếu trong sáng, đồng thời làm cho các bí thư chi bộ, bí thư đảng ủy trở thành những người nắm và quyết định vận mệnh chính trị của người dân, họ trở nên cậy quyền, cậy thế. Cũng vì vậy mà một số trí thức có trí tuệ cao và trung thực đã không được kết nạp.

Ông có biết tại sao Đảng đã rất cố gắng…, nhưng vẫn chưa đạt mục tiêu? Tôi cho rằng trong việc phát triển Đảng cũng như trong đường lối cán bộ, Đảng đã phạm phải những sai lầm nghiêm trọng từ gốc.Trong bài “ Phản biện đường lối cán bộ CS” (*) tôi chỉ ra đống bùng nhùng mà Đảng đang vướng phải, đang quẩy đạp trong đó. Những Quy định như 101 (tháng 6/2012), 55 (2/2016), 08 (10/2018) về nêu gương được ông xem như bảo bối thì tôi chỉ thấy nhàm chán, vô tác dụng. Tháng 10/2018 tôi đã viết bài “Phản biện Quy định nêu gương” (*), trình bày rõ các lập luận.

Bà Phạm Chi Lan: ‘Chính sách tài khoá của Việt Nam đang có vấn đề khá nặng’

Lê Ngà

(VNF) – Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho rằng chính sách tài khóa của Việt Nam đang gặp phải những vấn đề nặng nề, điển hình là chi thường xuyên quá lớn.

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan

Bên lề hội thảo quốc gia “Đánh giá kinh tế Việt Nam năm 2018 và triển vọng năm 2019” đồng thời công bố ấn phẩm Đánh giá kinh tế Việt Nam thường niên 2018 với chủ đề "Hướng tới chính sách tài khóa bền vững và hỗ trợ tăng trưởng", VietnamFinance đã có cuộc trò chuyện với chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan về một số vấn đề kinh tế - thể chế hiện nay.

Bà Phạm Chi Lan nói:

"Tôi nghĩ các dự báo về tăng trưởng năm 2019 ở các nước khác trên thế giới đều cũng thấp hơn so với năm 2018, bởi người ta lo ngại về một số rủi ro của kinh tế toàn cầu.

Ví dụ, thương mại toàn cầu đang có sự sụt giảm nhất định do các chính sách bảo hộ của một số nước hay do xung đột thương mại Mỹ - Trung. Cuộc xung đột này ảnh hưởng rất nhiều đến các nền kinh tế chứ không chỉ riêng mình hai nước đó.

Khu vực châu Âu cũng có nhiều bất ổn, đơn cử như câu chuyện Brexit. Nó đã làm ảnh hưởng rất nhiều tới các nền kinh tế khác trong Liên minh châu Âu, không chỉ riêng mỗi nước Anh.

Nói chung trên toàn cầu, lúc nào người ta cũng nhìn một cách thận trọng về những rủi ro có thể xảy ra. Tại Việt Nam cũng vậy. Thực ra năm nay Chính phủ hay Quốc hội cũng đặt mức chỉ tiêu tăng trưởng thấp hơn so với chỉ tiêu đã đặt ra năm ngoái.

Tôi thấy chỉ tiêu đó là thực tế, bởi nền tảng năm ngoái đã rất cao thì năm sau không thể luôn luôn cao hơn được. Rất khó để chúng ta đòi hỏi một mức tăng trưởng cao hơn trong khi chưa thấy động lực mới của tăng trưởng được đưa ra.

Cho nên ở Việt Nam, việc đặt vấn đề năm nay tăng trưởng kinh tế có thể không bằng được năm ngoái, tôi nghĩ là hợp lý.

Cái “chốt” quan trọng nhất của năm 2019 cũng như là các năm tiếp theo là phải tạo được những động lực tăng trưởng mới, khi mà những nguồn lực cho tăng trưởng cũ đang cạn kiệt dần.

Ví dụ nhìn vào ngành khai khoáng, những năm gần đây đóng góp của ngành này vào nền kinh tế chung đã giảm đi đáng kể. Hay như nông nghiệp, năm ngoái tăng trưởng tương đối tốt phần nào nhờ vào điều kiện về tự nhiên, thời tiết, vậy năm nay có còn được những điều kiện tốt như vậy không.

Suy nghĩ từ một trăn trở của ông Nguyễn Đình Bin

Trân Văn

Một đoạn trong bài viết trên trang FB của ông Nguyễn Đình Bin.

Trung tuần tháng này, ngày 19 tháng 3, ông Nguyễn Đình Bin, cựu Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương đảng CSVN, cựu Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao của chính phủ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, than trên trang facebook của ông “15 năm một nghị quyết – Vết thương dân tộc vẫn chưa lành!” (1).

Nghị quyết mà ông Bin đề cập là Nghị quyết 36 NQ/TW được Bộ Chính trị đảng CSVN ban hành ngày 26 tháng 3 năm 2004, nhằm định hướng về “công tác với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài”. Ông Bin – một trong những nhân vật chính, tham gia khai mở Nghị quyết 36 NQ/TW, trăn trở, tại sao người Việt “vẫn chưa hòa giải được với nhau”?

***

Hạ tuần tháng này, hôm 24 tháng 3, ông Nghiêm Xuân Vương, đại diện cho Diễn đàn “Tôi và sứ quán”, tiếp tục gửi thêm một Thư ngỏ nữa cho giới lãnh đạo hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam, hối thúc giải quyết tình trạng lạm thu của các cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài đối với… người Việt ở bên ngoài Việt Nam (2).

Diễn đàn “Tôi và sứ quán” hiện có khoảng 30.000 thành viên (3). Mục tiêu chính của diễn đàn này là chia sẻ thông tin, ý kiến của những người Việt đang cư trú bên ngoài Việt Nam về những vấn đề có liên quan trong tương quan giữa họ với các cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở ngoại quốc.

Diễn đàn “Tôi và sứ quán” chính là một trong những nơi góp vô số câu câu trả lời cho… trăn trở của ông Bin.

“Hòa” thế nào khi các cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở ngoại quốc chỉ xem người Việt cư trú ở nước ngoài như… một công cụ, dùng đủ mọi phương tiện để vòi tiền khi họ cần đổi hộ chiếu, xin hôn thú, khai sinh cho con, hoặc bỏ quốc tịch Việt Nam, xin visa, miễn thị thực?...

Đó cũng là lý do, trong bốn năm vừa qua, Diễn đàn “Tôi và sứ quán” luôn luôn sôi động với những tố cáo cụ thể và những chia sẻ, hướng dẫn cũng hết sức cụ thể của những người Việt cư trú ở nước ngoài từng “ở trong chăn”, nhằm giúp nhau đối phó: Vận dụng qui phạm pháp luật nào? Với từng cơ quan ngoại giao cụ thể của Việt Nam ở ngoại quốc, khi có nhu cầu, buộc phải liên hệ thì hành xử ra sao?...

Ngày 26 tháng 3 vừa qua, Nghị quyết 36 NQ/TW tròn 15 tuổi và vẫn là “kim chỉ nam” cho “công tác với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài”, hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam tiếp tục thề hứa, trình bày nỗ lực giảng hòa nhưng một số đề nghị của người Việt đang cư trú tại nước ngoài, vốn chính đáng và hết sức đơn giản vẫn không hề được giải!

Tại sao các cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở ngoại quốc vẫn không công bố một cách rạch ròi những yêu cầu khi người Việt cư trú ở ngoại quốc cần hỗ trợ về thủ tục hành chính để họ không bị “vẽ”, bị “quay” cho tới khi chịu dấm dúi? Tại sao các cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở ngoại quốc vẫn không niêm yết phí của từng loại thủ tục hành chính để đồng bào của họ không bị đồng chí của họ mổ, vắt, vặt?...

Chẳng ai dám chắc, thêm lần này, “những người cầm nắm sinh mệnh dân chúng, tương lai của đất nước”, tác động trực tiếp tới “sự nghèo hèn hay thịnh vượng, sự minh bạch hay gian dối” của Việt Nam, có “thôi vì bản thân”, chịu “làm người có lương tri để nghĩ cho dân chúng” , không “nhẫn tâm biến công dân của mình trở thành người vô cảm, ngoảnh mặt với đất nước” như Diễn đàn “Tôi và sứ quán” kêu gọi hay không?

Người vô hình ở trại T16

Trịnh Chu


Trương Duy Nhất - người vô hình ở Trại tạm giam T16. Đồ hoạ: Luật Khoa.

Sau gần hai tháng im lặng trước sự mất tích của ông Trương Duy Nhất, tối ngày 25/3, các cơ quan truyền thông nhà nước đồng loạt loan tin về việc điều tra nhân vật này. 
Chánh Văn phòng Cơ quan Cảnh sát Điều tra Bộ Công an cho biết, “trong quá trình điều tra mở rộng vụ án Vũ ‘nhôm’, cơ quan điều tra Bộ Công an đã phát hiện có dấu hiệu sai phạm liên quan đến ông Trương Duy Nhất”.
Thông tin này được đưa ra trong buổi họp báo thường kỳ của Bộ Công an. Tuy nhiên, trước câu hỏi của phóng viên về việc có thông tin cho rằng ông Trương Duy Nhất đã bị bắt là có chính xác không, đại diện của Bộ này, Trung tướng Trần Văn Vệ cho hay, “hiện vụ việc đang trong quá trình điều tra chưa thể cung cấp thông tin cụ thể”, báo Soha dẫn lời.
Người vô hình
Như vậy tính đến thời điểm này, không một cơ quan chức năng nào chính thức xác nhận đã bắt và giam giữ ông Trương Duy Nhất.
Ông Nhất, người được công chúng biết đến là một nhà báo và là chủ trang blog “Một góc nhìn khác”, được gia đình loan báo mất tích vào ngày 26/1, chỉ một ngày sau khi ông đến Văn phòng Cao ủy Tị nạn Liên Hợp Quốc tại Thái Lan để xin tị nạn.
Thông tin manh mối đầu tiên về số phận của blogger này sau nhiều tháng mất tích lại đến từ một cuộc gọi nặc danh cho vợ ông.
Theo BBC Việt ngữ, dẫn lời cô Trương Thục Đoan, con gái ông Nhất, cho biết: “Một người, hôm 15/3, không biết là ai, gọi cho mẹ ở Việt Nam báo là ba hiện đang bị giam ở T16”.
Cũng theo nguồn tin này, hôm 20/3, vợ ông Nhất từ Đà Nẵng bay ra Hà Nội nhằm xác thực thông tin về nơi giam giữ chồng mình.
Tại T16 (ký hiệu của Trại Tạm giam của Cơ quan Cảnh sát Điều tra – Bộ công an), điều bất ngờ đã xảy ra khi cán bộ trại giam cho bà gửi nhu yếu phẩm tiếp tế và cấp cho sổ thăm nuôi, dù bà không được cho gặp chồng mình. Theo thông tin từ sổ thăm nuôi này, ông Nhất bị bắt vào ngày 28/1/2019 và được chuyển đến trại giam T16 trong cùng ngày.
Qua quyển sổ thăm nuôi, cơ quan chức năng như đã gián tiếp thừa nhận việc bắt và đang giam giữ ông Nhất. Dù vậy, ông vẫn như một “bóng ma” trong tiến trình pháp lý không thể xác định, từ việc bắt giữ trước đây cho tới sự giam cầm tại thời điểm này.
Theo cách mô tả của Human Rights Watch, những người bị giam cầm trong tình trạng này được gọi là… “bóng ma trong trại giam”. Đó là những người bị bắt bí mật, bị giam giữ bí mật, bị giới chức bắt giam nhưng không thừa nhận, và bị tước đoạt đi tất cả các quyền con người của họ.
Khe cửa hẹp ở T16 mở ra cho chúng ta thấy lấp ló một “bóng ma” – đó là Trương Duy Nhất, người bị bị tước đoạt đi tất cả quyền cơ bản của một người bị bắt và giam cầm.

TUYÊN BỐ VỀ DỰ ÁN ĐƯỜNG CAO TỐC BẮC- NAM

1. Sự việc:

Bộ Giao thông vận tải VN đã làm việc với  Cty Thái Bình Dương (TQ) về việc Cty này ngỏ ý muốn làm Đường cao tốc Bắc- Nam bằng vốn vay từ Trung Quốc (TQ).

2. Xét rằng:

Đường cao tốc Bắc- Nam chạy dọc mặt phía Đông nước VN là dự án chiến lược, không chỉ góp phần phát triển kinh tế mà còn liên quan chặt chẽ với an ninh quốc phòng, liên quan phòng thủ Biển Đông.

Mọi công trình hợp tác với các nhà thầu TQ từ trước đến nay đều đội vốn rất lớn, thi công dây dưa. Thủ đoạn của họ là bỏ thầu rẻ, thi công trì trệ, kết hợp với quan tham VN đẩy giá lên. Trên thực tế, hầu hết các công trình có yếu tố TQ đều yếu chất lượng, kém an toàn khi thi công, khi vận hành và gây ô nhiễm trầm trọng môi trường. Đường sắt trên cao Cát Linh - Hà Đông cho bài học xương máu.

Các nhà thầu TQ luôn đem các công nghệ lạc hậu, nhân lực TQ, kể cả lao động phổ thông vào VN, đến đâu ở lì đó, gây phức tạp an ninh xã hội.

Hiện nay các nước từ châu Phi, đến Ấn Độ Dương, Đông Á... đều tẩy chay các dự án đầu tư của TQ.

Tiếp tục thuê nhà thầu TQ là tiếp tay cho tham nhũng.

3. Yêu cầu:

Trước thực trạng tệ hại và nguy hiểm trên, chúng tôi - các cá nhân các tổ chức xã hội dân sự - yêu cầu:

Tổ chức ngay việc lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân, các chuyên gia VN trong và ngoài nước, tham vấn các nhà thầu Mỹ, Pháp, Nhật Bản... tìm phương án tối ưu cho dự án Đường cao tốc Bắc-Nam. Loại bỏ dứt khoát nhà thầu TQ, không vay vốn và nhận đầu tư từ TQ vì những lý do trên.

Làm mỗi công trình đều phải đem lại công ăn việc làm, tích lũy kỹ năng, điều kiện học hỏi cho lao động và kỹ thuật viên VN, để tiến tới tự làm. Các dự án Cầu dây văng Mỹ Thuận, Cầu Cần Thơ là bài học tốt. Nhà thầu Úc, Nhật  chỉ mang chuyên gia đến, kỹ sư, công nhân là người VN.

Theo cách ấy, ngăn chặn được hiện tượng di dân bất hợp pháp, gây bất ổn xã hội của lao động TQ, ngăn chặn tham nhũng.

Chính phủ cần huy động các doanh nghiệp VN cùng tham gia vào công trình chiến lược này, ưu tiên hợp tác với các công ty Mỹ, nhằm hạ giá thành, góp phần cân bằng cán cân thương mại, tạo điều kiện phát triển nhanh và bền vững kim ngạch giao thương hai nước.

Soạn tại Sài Gòn ngày 20.3.2019

Các tổ chức và cá nhân ký tên hưởng ứng Tuyên Bố  trên xin gửi “họ, tên, nghề nghiệp (chức vụ nếu có), địa chỉ cư trú hay làm việc” về email : bacnamcaotoc@gmail.com

CÁC TỔ CHỨC, CÁ NHÂN KÝ TÊN

Tổ chức:

1.CLB Lê Hiếu Đằng, đại diện: Lê Thân, nhà hoạt động xã hội, Sài Gòn

2.Nghiệp đoàn Báo chí Việt Nam, đại diện: Tiến sĩ Dương Thị Phương Hằng, Hoa Kỳ

3.Nhóm Vì Môi Trường, đại diện: Nguyễn Thị Bích Ngà, nhà báo tự do, Sài Gòn

4.Diễn đàn XHDS, đại diện: Tiến sĩ Nguyễn Quang A

5.Người Bảo vệ Nhân quyền (Defend the Defenders), đại diện: Thạc sỹ Vũ Quốc Ngữ

6. Nghiệp đoàn sinh viên Việt Nam, đại diện: Sinh viên Trịnh Thị Ngọc Kim

7. Nghiệp đoàn giáo chức Việt Nam, đại diện: nhà giáo Lê Trọng Hùng ( Trung Dân Việt Thương), Hà Nội

Cá nhân:

Bàn về đảng cầm quyền

Nguyễn Đình Cống
  1. Giới thiệu
Khái niện đảng cầm quyền (ĐCQ) được dùng rộng rãi tai các nước dân chủ. Trước đây các đảng theo Mác Lê chủ yếu nói về cách mạng, lãnh đạo, thống trị giai cấp, không hoặc rất ít nói về vai trò cầm quyền. Ở Việt Nam, hình như Hồ Chí Minh là người  đầu tiên viết “Đảng ta là ĐCQ”. Gần đây vấn đề ĐCSVN lãnh đạo và cầm quyền được bàn đến nhiều, nhưng phần lớn chỉ chung chung, chưa thấy có ý kiến nào bàn sâu về nhận thức và về những cải cách cụ thể, cần thiết. ĐCSVN nổi tiếng kịp thời ra các nghị quyết dài dòng về mọi việc nhưng chưa thấy ra nghị quyết liên quan đến ĐCQ.
Viết bài này tôi xin góp một tiếng nói để thảo luận.  
  1. Đảng trong lịch sử
Thời quân chủ độc quyền việc bí mật lập đảng là tội rất nặng. Thời đó không có đảng hợp pháp. Sự hình thành đảng phái  công khai có lẽ bắt đầu từ nước Anh, thế kỷ 16, do nhu cầu vận động đưa người của phe nhóm vào cơ quan quản lý xã hội. Các đảng được lập  chủ yếu để vận động bầu cử. Đó là các đảng chính trị. Đảng nào giành được đa số sẽ trở thành ĐCQ.Như vậy ĐCQ trước hết phải là đảng chính tri. Việc này dần mở rộng ra nhiều nước.
Đến thời kỳ Mác Lê Nin  xuất hiện đảng lãnh đạo cách mạng (ĐLĐ), một loại đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Vai trò chủ yếu của ĐLĐ  là tập hợp quần chúng đấu tranh giành chính quyền bằng bạo lực. Khi đã giành được chính quyền thì ĐLĐ nắm giữ chính quyền. Vậy phải chăng họ thành ĐCQ.
Nếu từ ĐLĐ trở thành ĐCQ thì như vậy nó có 2 loại. Một loại được chuyển giao chính quyền bằng bầu cử dân chủ, một loại giành được  bằng bạo lực cách mạng. Liệu về phương diện cầm quyền, giữa các đảng có gì giống và khác nhau. Phải chăng sự khác nhau cơ bản là do sự lựa chon thể chế  chính trị. Thể chế dân chủ đa nguyên với tam quyền phân lập hay thể chế độc quyền đảng trị.
Trên kia có trình bày ĐCQ phải là một đảng chính trị. Phải chăng đó là điều bắt buộc. Đúng, nếu như đất nước có ít nhất 2 đảng cạnh tranh nhau. Sai, nếu như chỉ có duy nhất 1 đảng độc quyền. Đảng đó không phải đảng chính trị, vậy là đảng loại gì? Chưa thấy ai nghiên cứu vấn đề này, theo tôi thì đó là đảng thống trị.
Trong bài ”Chính trị là gì” GS Lê Hữu Khóa đưa ra khẳng định rằng “ có độc đảng thì không có chính trị” ( Báo Tiếng Dân ngày 20/3/2019). Trong xã hội tồn tại một số tổ chức tự xưng là đảng nhưng không phải đảng chính trị.
Với ĐCSVN, trong điều lệ ghi rằng: Đảng là Đội tiên phong của giai cấp…, có tổ chức chặt chẽ…, là đảng cầm quyền. Tôi chưa tìm thấy văn bản nào ghi rằng ĐCSVN là một đảng chính trị hoặc là một tổ chức chính trị.

Án Junin 2 nhằm ‘đánh’ ai?

Phạm Chí Dũng

Junin 2 của VPN tại Venezuela.

Junin 2 của VPN tại Venezuela.

Tròn một năm sau hai phiên tòa xử ủy viên bộ chính trị Đinh La Thăng với tổng cộng 31 năm tù giam nhưng lại không dẫn ra được chứng cứ nào đủ thuyết phục về tội trạng của Thăng, cũng không làm hé lộ được cung đường nào dẫn thẳng tới cửa nhà Nguyễn Tấn Dũng, vào tháng Ba sau tết nguyên đán 2019 đã ồn ào bùng lên vụ Junin 2.
Phát pháo lệnh ‘đánh’ vụ Junin 2 - theo truyền thống - vẫn được bắn ra bởi Thanh Niên - tờ báo mà vào tháng 3 năm 2017 đã phát pháo hiệu về ‘đánh’ ngành dầu khí - vụ Đinh La Thăng và cho tới nay đã hoàn thành những chuẩn mực của một tờ báo ‘thân đảng’.
Lại là Mạnh ‘Mượt’ và ‘Ba X’
Chẵn một con giáp trước đó, vào năm 2007 Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) do Đinh La Thăng khi đó là chủ tịch hội đồng thành viên đã có một phi vụ đầu tư vào một công ty khai thác dầu khí tại Venezuela - chế độ được xem là ‘người anh em xã hội chủ nghĩa’ của Việt Nam với sự chứng kiến của Nông Đức Mạnh - tổng bí thư thời đó mà còn những biệt danh khác như ‘Gã Răng Chắc’, ‘Mạnh Mượt’... Phi vụ này cũng được cho phép bởi thủ tướng khi đó là Nguyễn Tấn Dũng, đồng thời được ‘tập thể Bộ Chính trị’ gật đầu nhưng không thèm hỏi ý kiến Quốc hội - cơ quan mà về mặt luật là có thẩm quyền xem xét những dự án đầu tư tỷ đô như Junin 2.
Tiếp đến, một tổ hợp liên doanh ra đời giữa PVN và Công ty Dầu khí quốc gia Venezuela với cái tên “Dự án khai thác và nâng cấp dầu nặng lô Junin 2”, có tổng vốn đầu tư 12,4 tỷ USD, trong đó liên doanh vay 60%, tương ứng 5,8 tỉ USD; 40% còn lại do các bên đóng góp, tương ứng 3,1 tỉ USD. Phía Việt Nam tham gia 40% với số vốn góp là 1,241 tỉ USD.
Lẽ ra sự việc trên đã hoàn toàn bình thường như nhiều dự án đầu tư ra nước ngoài khác, nếu Junin 2 không mang về một giọt dầu nào cho tới nay và không bị phát hiện một khoản chi quái lạ: “phí tham gia hợp đồng” (bonus), lên đến 584 triệu USD, khiến tổng vốn của phía VN phải bỏ ra lên đến 1,825 tỉ USD.
Con số 584 triệu USD bonus trên chi cho ai? Phải chăng PVN đã dùng nó để hối lộ những quan chức cao cấp của Venezuela?
Cộng hưởng với hậu quả Junin 2 trở thành dự án mà PVN đốt tiền ngân sách quốc gia và trơ khung trùm mền cho đến nay, số tiền ‘lại quả’ khủng khiếp trên đang khiến dự án này trở thành đầu đề nóng hổi trên mặt báo chí nhà nước vào những ngày này, lồng trong bầu không khí cực kỳ căng thẳng khi tổng giám đốc của PVN là Nguyễn Vũ Trường Sơn thình lình làm đơn xin từ chức, còn Bộ Công an thì đang ‘vào cuộc làm rõ’.
Trong khi đó, mạng xã hội vừa tung hứng vừa tung tóe nhiều thông tin và bình phẩm về vụ Junin 2. Nhưng những tin tức và bình luận này không chỉ xuất phát từ những cây bút độc lập mà còn hiện ra trên những trang facebook cá nhân của một số cây bút mang màu sắc ‘phe cánh chính trị’.

Nỗi đau MASAN

Phạm Đình Trọng

Theo dõi cuộc chiến trên truyền thông giữa nước mắm Việt và nước chấm hóa học Masan, tôi thấy các bài viết đã chỉ ra sự mờ ám, gian dối, bất lương của Dự thảo TCVN12607.2019 về quy phạm thực hành sản xuất nước mắm do Cục Chế biến và phát triển thị trường nông nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ngạo ngược trình ra và nhăm nhe thực hiện. Qua đó cũng thấy đươc sự man rợ, mất tính người của những kẻ mưu mô giết hại một nghề tinh của tài hoa Việt Nam, loại bỏ nước mắm Việt ra khỏi đời sống người Việt cho thứ nước chấm hóa học Masan lên ngôi, độc chiếm thị trường, độc quyền trong bữa ăn hàng ngày của người Việt.

Chỉ vậy thôi cũng đã thấy cơ quan nhà nước cộng sản hiện nay được đồng tiền thuế máu, mồ hôi, nước mắt của dân nuôi nấng nhưng đã đốn mạt phản lại dân và cũng cho thấy đội ngữ quan chức đã bị quyền lực đồng tiền của những con buôn bất lương sai kiến như thế nào. Dự thảo về quy phạm thực hành sản xuất nước mắm của Bộ Nông nghiệp cũng tanh tưởi nhức nhối như những BOT trấn lột móc túi người dân của bộ Giao thông mọc lên nhan nhản như phường lục lâm thảo khấu nổi lên thời xã hội nhiễu nhương, mục nát, quan tham là cướp cả đêm lẫn ngày – Thơ Nguyễn Duy.

Chỉ vậy thôi cũng thấy được sự hoành hành của tư bản hoang dã đã tàn phá đất nước Việt Nam, tàn phá lương tâm con người Việt Nam, tàn phá đạo lí xã hội Việt Nam, tàn phá cả những giá trị bền vững và sâu thẳm của nền văn minh lúa nước Việt Nam, nền văn minh từ hạt gạo tạo ra bánh chưng, bành dày, từ con cá biển tạo ra nước mắm. Nước mắm Việt chính là một giá trị đặc sắc của nền văn minh Việt Nam.

Nhưng không chỉ có vậy.

Giết chết nước mắm Việt còn góp công, góp sức vào mưu đồ làm hoang hóa biển Việt Nam, làm cho biển Việt Nam hoàn toàn không còn những cột mốc chủ quyền sống là những con tàu đánh cá của người Việt, không còn bóng một người dân Việt bám biển của cha ông, để biển Việt Nam cho Tàu Cộng làm chủ.

Bóp chết một nghề tinh, nghề chế biến nước mắm của người dân Việt, loại bỏ hương vị nước mắm Việt trong bữa ăn của người Việt bằng quy phạm thực hành sản xuất nước mắm mang số hiệu văn bản nhà nước TCVN 12067. 2019 là thêm một bằng chứng về nhà nước cộng sản ở Ba Đình, Hà Nội không còn là nhà nước của người dân Việt Nam, không còn là nhà nước của đất nước Việt Nam.

Không còn là nhà nước của đất nước Việt Nam, nhà nước đó đã rước giặc Tàu Cộng vào Nhân Cơ, Đắc Nông, vào Tân Rai, Lâm Đồng, rước giặc Tàu Cộng vào Vũng Áng, Hà Tĩnh tàn phá đất nước Việt Nam từ núi cao tới biển sâu.

Không còn là nhà nước của đất nước Việt Nam, nhà nước đó đã rước các nhà đầu tư Tàu Cộng đưa công nghệ lỗi thời, phế thải vào Việt Nam kìm hãm sự phát triển nền kinh tế Việt Nam, đầu độc sự sống trên đất nước Việt Nam, biến đất nước Việt Nam gấm vóc thành bãi rác thải công nghiệp, biến những làng quê thanh bình Việt Nam thành những làng ung thư, biến giống nòi Việt Nam khí phách kiên cường thành giống nòi bệnh tật ốm yếu, vật vờ chờ chết.

Không còn là nhà nước của đất nước Việt Nam, nhà nước đó đã cắt mười lăm ngàn ki lô mét vuông đất biên cương của tổ tiên người Việt, của lịch sử nước Việt dâng cho giặc Tàu Cộng. Nhà nước cộng sản Việt Nam không phải là nhà nước của đất nước Việt Nam đã được dân gian ghi nhận bằng câu thành ngữ mới: Quân đội bám bờ, dân chài bám biển! Dân nuôi quân đội để bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng nhưng quân đội nhà nước cộng sản Việt Nam kiên trì bám bờ, lì lợm bám đất vàng sân bay, mê mải giành giật những mảnh đất vàng của những công trình phát triển đất nước để tướng tá mang những mảnh đất vàng đó ra kinh doanh kiếm lời riêng, bỏ mặc biển Đông của lịch sử Việt Nam cho Tàu Cộng làm chủ.

Dù tàu đánh cá của Tàu Cộng nhiều như lá tre tự do thả lưới buông câu ở biển Đông của tổ tiên người Việt cũng không có bất kì phản ứng nào của Bộ Ngoại giao Việt Nam. Dù tàu chiến của Tàu Cộng suốt hai mươi bốn giờ trong ngày, suốt ba trăm sáu nhăm ngày trong năm quần đảo trên biển Việt Nam, lùng sục đâm chìm tàu thuyền Việt Nam, giết hại dân đánh cá Việt Nam cũng không gặp bất kì sự ngăn chặn chống trả nào của quân đội Việt Nam.  Nhưng Tàu Cộng vẫn chưa thể thực sự làm chủ biển Đông vì vẫn còn những con tàu đánh cá của dân chài lưới Việt Nam không lúc nào vắng bóng trên biển Đông của tổ tiên người Việt.

Để thực sự làm chủ biển Đông trên thực tế và chứng minh với thế giới rằng biển Đông thực sự đã là của Tàu Cộng, Tàu Cộng đang ráo riết, quyết liệt xóa sạch bóng những con tàu cá Việt Nam trên biển Đông bằng hai đòn độc.

Một là, Tàu Cộng dùng sức mạnh tàu quân sự và tàu dân sự lớn, có vũ trang, có vỏ thép dày đâm chìm tàu cá của dân biển Việt Nam, chôn vùi mạng sống và cơ nghiệp người dân đánh cá Việt Nam xuống đáy biển, gây nỗi kinh hoàng để dân biển Việt Nam không dám ra biển. Tàu của Tàu Cộng đâm chìm tàu cá Việt Nam, giết hại dân biển Việt Nam suốt mấy chục năm nay không gặp bất kì sự ngăn chặn, chống trả nào của quân đội Việt Nam, không có bất cứ phản ứng nào của ngoại giao Việt Nam. Vì vậy trước đây Tàu Cộng chỉ đâm chìm tàu cá Việt Nam vào ban đêm, nay trên biển Đông tàu cá của dân biển Việt Nam dồn dập bị Tàu Cộng hung hãn đâm chìm giữa ban ngày.

Bàn về sự gia tăng mê tín

Nguyễn Đình Cống

Gần đây dân Việt gia tăng mê tín dị đoan đến chóng mặt. Các nhà nghiên cứu  tìm nguyên nhân để có hướng khắc phục. Có thể quy về 3 nguồn :1- Do người dân, 2-Do bộ phận quản lý đền chùa và người hành nghề mê tín, 3- Do sai lầm và yếu kém trong sự lãnh đạo và quản lý của chính quyền cộng sản.

Trong 3 nguồn, nguyên nhân  nào giữ vai trò cơ bản? Có 2 luồng ý kiến khác nhau. Luồng A cho rằng cơ bản là tại dân. Luồng B  quy trách nhiệm chính cho lãnh đạo. Tôi ủng hộ luồng B và tìm ra các nguyên nhân thuộc về tác dụng phụ của đường lối cộng sản.

Tác dụng phụ xẩy ra ngoài ý muốn của chủ thể. Một số thuốc chữa bệnh có tác dụng phụ không mong muốn. Nó dùng để chữa bệnh chỗ này nhưng lại làm hại chỗ khác. Chủ nghĩa cộng sản, ngoài những độc hại thuộc bản chất và những ảo tưởng về một xã hội tốt đẹp nó cũng gây ra lắm tai họa thuộc loại tác dụng  phụ. Gọi là phụ vì các tai họa đó không nằm trong phạm vi mục tiêu, những người CS vẫn rất muốn tránh nhưng không cách gì tránh được, nó cứ tự động xẩy ra. Gọi là phụ nhưng tác dụng lắm khi rất nguy hiểm. Vào tháng 10/2016 tôi đã đăng bài “Tác dụng phụ hay tai họa tất yếu sinh ra từ cộng sản”, vạch ra một số tai họa  như vậy. Tôi cho rằng sự gia tăng mê tín của dân Việt có nguyên nhân trực tiếp chủ yếu  nhất (trong 3 nguồn nguyên nhân) là “Tác dụng phụ của cộng sản”. Và như vậy Đảng và chính quyền phải chịu trách nhiệm chính.

Cộng sản theo duy vật, không công nhận Tâm linh, bài bác tôn giáo, mặc dầu tuyên bố chấp nhận tự do tín ngưỡng. Thế nhưng dưới sự thống trị của CS VN thì mê tín dị đoan lại ngày càng tăng. Phải chăng đó là một nghịch lý.

Tôi đã nhiều lần phân tích nguyên nhân gốc gác, sâu xa  của mọi tai họa. Bài này chỉ đề cập đến 5 nguyên nhân gần, là tác dụng phụ do CS gây ra trong việc phát triển nhanh của mê tín dị đoan (mà chưa bàn đến các nguyên nhân  từ 2 nguồn khác).

  1. Sự bật lại của cấm và phá.

Việc cấm lễ bái, phá đình chùa mà CS thực hiện trước đây  đã đụng chạm đến tâm hồn người Việt. Người ta phát hiện thấy một vài người phá chùa gặp tai họa liền gán cho việc bị báo ứng. Điều đó lan truyền nhanh và rộng làm cho niềm tin vào thần thánh không mất đi mà tăng cao. Về kinh tế, trói buộc mãi không được đành phải mở vào năm 1986. Nhân đà đó dân các nơi khôi phục lại đình chùa, mở lại các lễ hội. Mà thói thường, những  thứ đàn hối, bị uốn càng cong, đến khi được thả nhanh ra nó bật trở lại càng mạnh. Những thứ bị cấm càng gắt, đến khi được tháo cũi sổ lồng thì nó càng phát triển nhanh, nhiều khi lệch lạc mà không cách gì kìm lại được.

Muốn nói gian hãy làm báo Đồng Nai!

Ngô Thị Hồng Lâm

Ngày 21/3/2017 Vừa qua Viện kiểm sát cùng hai cấp toà án tỉnh Đồng Nai đưa ra xét xử vụ án 20 bị cáo can tội: “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức”. Trong đó có cựu chiến binh Gạc Ma Nguyễn Văn Đống.

Vụ án đã khép lại, nhưng phán quyết của 2 cấp toà án tỉnh Đồng Nai đã không nhận được sự đồng tình, tâm phục, khẩu phục của tất cả  20 “bị cáo” và của cộng đồng.

Các đương sự có đơn khiếu nại lên Toà án Tối cao xin xét xử Giám đốc thẩm và họ quyết tâm đi tới tận cùng sự thật của vụ án, để đòi lại danh dự của mình đã bị các cơ quan tố tụng ngồi xổm lên luật xét xử không công bằng, vi phạm nghiêm trọng luật tố tụng hình sự của các bên tham gia tố tụng như:

  • Cố tình bỏ lọt tội phạm.

  • Cố tình không cho đối chất giữa các bên liên quan để xác định trách nhiệm hình sự thuộc về bên nào.?

Sau khi nghiên cứu bản án của ông Nguyễn Văn Đống thấy có nhiều điểm vi phạm nghiêm trọng với luật tố tụng hình sự. Đài CHTV tháng 6/2018 do nhà báo tự do Lê Dũng Vova đã phát sóng nêu ra những điểm trái với luật tố tụng hình sự trong quá trình điều tra và xét xử của vụ án tại địa chỉ:

https://www.youtube.com/watch?v=Xpn2RXXUbAw&feature=share

và sau đó Bloger Ngô Thị Hồng Lâm đã có một bài điều tra thực tế về ông Nguyễn Văn Đống đăng trên báo Bauxite Việt Nam ngày 21/9/2018. Xin đọc tại địa chỉ:

https://zend2.com/open19.php?u=IrWKGElQAXrD757KXb1OoRkeS7HtUsL7gOKAP1fyUO%2BTB6Zw9euI1qX0DyA6H22wqIWcWnIIJeFuC3X5KpKNkt2wmc1sP3hkOC0%3D&b=29

Sau khi bị cộng đồng mạng vạch trần sự sai trái của các cơ quan tham gia tố tụng, nhằm đánh lừa công luận, che lấp đi tội ác và trách nhiệm thuộc về  cơ quan cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát cùng hai cấp toà tỉnh Đồng Nai, báo Điện tử Đồng Nai - cơ quan ngôn luận, tiếng nói của đảng bộ tỉnh Đồng Nai ngày 30/6/2018 đã đăng bài “Vải thưa không che được mắt thánh” và đài truyền thanh thị xã Long Khánh cùng một số báo khác đưa lại tin từ báo Đồng Nai đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín và danh dự của anh Nguyễn Văn Đống.

Đọc tại địa chỉ:

http://baodongnai.com.vn/phapluat/201806/vai-thua-khong-che-duoc-mat-thanh-2900.

Chiến lược bí mật của Trung Cộng để thay thế Mỹ trong vai trò Siêu Cường lãnh đạo thế giới

(The Hundred -Year Marathon: China's secret Strategy to Replace America as the Global Superpower)

Michael  Pillsbury

Lê Quốc

***

Cuộc chiến giữa Hoa Kỳ và Trung Cộọng đã âm ỉ từ lâu trong não trạng của các lãnh tụ CS Trung Cộng, khởi sự từ Mao Trạch Đông và bùng nổ đời thứ V của vương triều đỏ: Tập Cận Bình.

Phía Trung Cộng: Lợi dụng chánh sách sai lầm của nhiều trào Tổng thống Hoa Kỳ, Trung Cộng đã cài một mạng lưới gián điệp khắp các cơ quan trọng yếu của Mỹ: Từ Ngũ Giác Đài, các Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế đến các cơ quan hành pháp, lập pháp, cả đến cơ quan tối cao về chiến lược CSIS (Center for strategic and International studies) hoặc NSA (National Strategic Agency) của Hoa Kỳ.

Giám đốc FBI Christopher Wray cảnh báo: Nguy cơ gián điệp TQ trên khắp 50 tiểu bang của Mỹ - từ lãnh vực nông nghiệp, đến lãnh vực công nghiệp cao, tạo ra mối đe dọa lớn nhứt cho Hoa Kỳ (Báo Business Insider).

Phía Hoa Kỳ: Áp dụng một chánh sách sai lầm là nuôi dưỡng Trung Cộng cho giàu mạnh lên, với hy vọng là khi dân chúng có đời sống khá giả hơn sẽ áp lực làm thay đổi thể chế CS thành chế độ Tự Do Dân Chủ, gia nhập Cộng đồng thế giới. Và TQ sẽ là một thị trường lớn lao 1 tỷ 4 trăm triệu người cho Hoa Kỳ. Nhưng kết quả ngày nay chứng minh Hoa Kỳ đã sai lầm. Hoa Kỳ cũng như các nước Tây phương đã không hiều tường tận người CS - nhứt là Cộng sản Tàu, Cộng sản Á Châu.

Nhân vật khám phá ra đường đi nước bước, chiến lược bí mật kéo dài cả trăm năm của Trung Cộng chính là Tiến sĩ Michael Pillsbury - Giám đốc Viện nghiên cứu Chiến lược Quốc tế Hudson Institute -  cũng là tác giả quyển sách nổi tiếng "The Hundred - Year  Marathon" do Nhà xuất bản Henry Holt and Co. phát hành năm 2015.

Chiến tranh Mỹ - Trung  đã phát khởi từ não  trạng các lãnh tụ cộng sản

Bản chất của dân du mục Hán tộc là bành trướng lãnh thổ, xâm chiếm nước người. Bản chất  này lại nẩy mầm, sinh sôi nẩy nở trên đất CS, sẽ là một cái họa lớn cho nhân loại. Đức Đạt Lại Lạt Ma nhận xét: "Cộng sản là loài cỏ dại mọc trên hoang tàn của chiến tranh, là loài trùng độc sinh sôi nẩy nở trên rác rưởi của cuộc đời".

Hai khuynh hướng bành trướng của nòi Hán và chiến tranh của  chủ nghĩa CS, sáp nhập với nhau, dưới sự lãnh đạo hiện nay của Đại đế Đỏ Tập cân Bình, đang gây sóng gió khắp thế giới - đặc biệt là muốn soán ngôi Hoa Kỳ. Thử xem lịch sử cận đại của dòng Hán tộc Cộng sản Trung Hoa:

Nhìn lại lịch sử cận đại của Hoa Lục  - dù là thể chế Dân chủ hay Cộng sản - các lãnh tụ đều nuôi mộng làm bá chủ thế giới: - Tôn trung Sơn: Lãnh tụ phát động cuộc Cách mạng Dân chủ, lật đổ vương triều Mãn Thanh, tuyên bố: "Trung Quốc phải chiếm vị trí siêu cường quốc đứng đầu  thế giới".

Mao trạch Đông: Thực hiện bước "Đại nhảy vọt, vượt Anh, đuổi kịp Mỹ":

"Trong vòng 75 năm nữa, TQ có thể bắt kịp và vượt qua Mỹ" (Lưu Minh Phúc (Liu Ming Fu) dẫn từ sách "Giấc mộng Trung Hoa").

Đặng tiểu Bình: "Ẩn mình chờ thời" (Thao quang dưỡng hối): Ẩn mình, che giấu thực lực, để chờ thời cơ chín muồi đứng lên giành vị trí đệ nhứt siêu cường làm bá chù thế giới.

Tập cận Bình - đời thứ năm, kể từ Mao trạch Đông thành lập CHNDTH (1949) theo chủ trương trỗi dậy của Hồ An Cương - Giáo sư Đại học Thanh Hoa (Bắc Kinh) và "Giấc mộng Trung Hoa" của Lưu Minh Phúc. Ông Tập - tại Đại hội ĐCSTH 19 ngày 18-10-2017 - đọc bài diễn văn 3000 từ, dài  3 tiếng, 23 phút, nhắc lại 26 lần từ siêu cường hoặc cường quốc, nhấn mạnh "Giấc mộng Trung Hoa": "Sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa - giấc mơ lớn nhứt của Trung Quốc trong thời kỳ Cận đại là Trung Quốc sẽ trở thành cường quốc hàng đầu thế giới vào năm 2049".

Ông Tập cận Bình ôm giấc mộng Trung Hoa, với vũ khí "Nhất Đới Nhất Lộ" và chương trình "Made in China 2025" đi chinh phục thế giới.

Bằng chứng rõ ràng và cụ thể: Những lời tuyên bố trên đây của Tôn Dật Tiên và 5 thế hệ CS - kể từ Mao Trạch Đông - chứng minh các ông con Trời - dù Dân chủ hay Cộng sản - đều muốn  xâm lấn các nước khác và đến Tập cận Bình - tham vọng càng lớn hơn gấp bội: Lớn hơn cả Mao, vượt qua Đặng, bỏ đàng sau Giang, Hồ, tàn bạo hơn cà Tần Thủy Hoàng, Ngô Khởi qua cuộc thanh trừng đẫm máu "Đả hổ diệt ruồi", tiếp tục tiêu diệt Pháp Luân Công để bán nội tạng, tàn sát và đồng hoá các sắc tộc Mông, Hồi, Mãn, Tạng và đặt quan Thái thú người Việt để cai trị Việt Nam. Không cần phải che giấu, Chủ Tịch Tập Cận Bình đã công khai ý đồ thực hiện "Giấc mộng Trung Hoa" trong buổi thăm viếng Viện bảo tàng Trung Hoa và trong bài diễn văn đọc tại ĐHĐCS 19 mơ làm bá chủ toàn cầu.

Một Đà Lạt “thơ mộng” - còn hay mất?

Mai Thái Lĩnh

Bài viết này được công bố lần đầu cách đây 8 năm trên trang Bauxite Vietnam và nhiều trang mạng khác, nhưng do bị “đánh phá” nên ngày nay chỉ còn tồn tại lác đác ở một vài chỗ. Vào lúc viết bài báo này, tôi chưa có điều kiện “nhìn tận mắt” thực tế tại các nước phát triển - vì bị tịch thu hộ chiếu, cấm xuất cảnh (tháng 7 năm 2009). Mãi đến cuối năm 2016, lệnh cấm xuất cảnh mới bị hủy bỏ. Nhờ sự giúp đỡ tận tình của thân nhân và bạn bè, tôi đã đặt chân đến 4 quốc gia (Úc, Hoa Kỳ, Canada, New Zealand) và Đài Loan - một hòn đảo xinh đẹp khao khát tự do nhưng luôn bị đe dọa “thu hồi bằng vũ lực”. Sau khi đã “mục sở thị” hàng chục thành phố ở các quốc gia “văn minh, hiện đại”, nay đọc lại những gì mình đã viết, xét thấy những ưu tư trăn trở ấy vẫn còn mang tính thời sự nóng hổi, tôi xin mạn phép công bố lại bài báo này…
 Mai Thái Lĩnh

Bản lưu bài báo cũ.png

Vào cuối thế kỷ XIX, khi người Pháp khám phá ra cao nguyên Lang Bian, một trong những điểm gây ấn tượng nhất chính là địa hình của vùng đất ngày nay mang tên Đà Lạt. Bác sĩ Etienne Tardif - người tham gia một đoàn khảo sát trong hai năm 1899-1900, đã mô tả hình dáng của cao nguyên như sau: “Toàn bộ diện tích rộng lớn ấy (…) bao gồm một chuỗi những quả đồi tròn kế tiếp nhau, đồi này nằm cạnh đồi kia, đồi này chế ngự đồi kia, đồi này thì sườn dốc đứng, đồi kia thì duỗi ra và nằm dài trên mặt đất. Những gợn sóng ấy bị chia tách bởi những thung lũng nông hay sâu, rộng hơn hay hẹp hơn. Con đường nối liền Đà Lạt với Dankia len lỏi giữa những quả đồi ấy. Tất cả những ngọn đồi ấy được bao phủ bởi một lớp cỏ ngắn vào mùa khô, mọc cao vào mùa mưa, rất dày và khá cứng. Trong những thung lũng nhỏ là những bụi cây đủ loại, những đám sậy, và trên một vài bờ dốc là những đám thông và dẻ[1]. Những dòng nước chảy qua những thung lũng theo nhiều cách khác nhau. Đôi khi người ta tìm thấy những dòng suối chảy siết, nhưng thường thì chỉ là những vũng nước tù hãm, rất sâu, bị che giấu dưới những thảm thực vật mọc rất dày và rất mạnh mẽ”.

Tardif đã leo lên một trong năm đỉnh của dãy núi Lang Bian. Từ cao độ 2.000m nhìn xuống, ông thấy toàn bộ bề mặt của cao nguyên là màu xanh lá của hàng trăm quả đồi (nguyên văn: 150 quả đồi), trông giống như một “giỏ cam” lớn (un vaste “panier d’oranges”)[2].

Dalat Tardif 3

Ảnh 1: Năm đỉnh của dãy núi Lang-Bian (tranh vẽ đăng trong sách của Tardif)

Chính là dựa trên cái nền địa hình đó mà các nhà quy hoạch đô thị người Pháp đã xây dựng nên diện mạo của Đà Lạt trong thế kỷ XX vừa qua. Đặc điểm của tất cả các đồ án được thiết kế trong các thập niên 1920-1940 là sự phối hợp hài hòa giữa kiến trúc và thiên nhiên. Một số quả đồi cao được dành cho những dinh thự hay các biệt thự hạng 1, với diện tích được cấp rất lớn nhưng chỉ được phép xây dựng trong một phạm vi rất nhỏ. Ví dụ: mỗi lô đất cấp cho tư nhân có diện tích từ 0,5 đến 2,5 hecta, trong đó phần được phép xây dựng không vượt quá 1/25 diện tích và không lớn hơn 800 m2, mỗi lô đất dùng cho lợi ích xã hội hay tập thể có diện tích từ 1,5 đến 3,5 hecta, trong đó phần được phép xây dựng không vượt quá 1/15 diện tích và không thể lớn hơn 2.000 m2; phần diện tích còn lại chỉ được dùng làm công viên, rừng, vườn hoa, vườn rau hay chăn nuôi theo quy định. Các khu biệt thự từ hạng 2 đến hạng 5 có diện tích từ 4.000 đến 600 m2, nhưng diện tích xây dựng được quy định cũng chỉ nằm trong khoảng từ 12 đến 25%[3].

p align="center">Ho Xuan Huong 1925-1930

Ảnh 2: Hồ Xuân Hương (khoảng 1925-1930)

Mặt khác, vì cao độ của các tòa nhà bị khống chế, hầu như tất cả các công trình kiến trúc, kể cả các dinh thự lớn (như Nhà thờ Lớn, Dinh Toàn quyền tức dinh II, Trường trung học Yersin,…) đều không vượt quá ngọn cây. Chỉ có một vài công trình đặc biệt - như tháp chuông của Nhà thờ Lớn hay tháp chuông của Trường trung học Yersin, là vượt lên trên những đám thông (xem ảnh 3).

Cách thức quy hoạch và thiết kế đô thị như thế đã tạo nên dáng vẻ đặc biệt của Đà Lạt: nhà xen lẫn giữa những cây thông; những cụm thông - thậm chí cả rừng thông, mọc xung quanh các dinh thự và xen lẫn vào giữa lòng thành phố. Chính điều đó làm nên một vẻ đẹp thơ mộng hiếm có: nhà thấp thoáng trong rừng, rừng tràn vào trong thành phố. Màu xanh của thiên nhiên tràn ngập khắp nơi, làm nên vẻ đẹp mê hồn say đắm lòng người. Vào thời đó, Đà Lạt có những đồi thông rất sạch, lá thông rụng trên thảm cỏ và người ta có thể nằm dài trên đó để ngửi thấy mùi của thiên nhiên. Vào thời đó, cuối tuần mỗi gia đình có thể lên Đồi Cù để cho trẻ con thả diều, người lớn có thể thư giãn sau những ngày lao động mệt nhọc. Mỗi người sinh ra ở Đà Lạt hay sống lâu năm ở Đà Lạt đều có ít nhiều kỷ niệm gắn liền với thiên nhiên: rừng thông, hồ và thác nước, đỉnh núi Lang Bian hay các đồi cỏ tương tự như Đồi Cù,…

Dalat 1968_Lac

Ảnh 3: Hồ Xuân Hương nhìn từ trường Yersin (không ảnh 1968 - vnafmamn.com)

Có thể nói vẻ đẹp của Đà Lạt không phải chỉ là vẻ đẹp của những công trình kiến trúc mà là sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố: nhân tạo và tự nhiên. Thiên nhiên ở đây không hoàn toàn hoang dã mà được chỉnh trang phần nào bởi bàn tay và khối óc của con người, dựa trên nguyên tắc tôn trọng, mô phỏng tự nhiên chứ không gán ghép, áp đặt sản phẩm nhân tạo vào thiên nhiên một cách khiên cưỡng, biến nhân tạo thành giả tạo.

Sau khi người Pháp rời Việt Nam, những nguyên tắc quy hoạch và kiến trúc của thời Pháp thuộc vẫn còn được giữ vững mãi cho đến giữa thập niên 1970.

Điều đáng buồn và đáng tiếc là từ cuối thập niên 1970, nhất là từ thời kỳ “đổi mới kinh tế”, cùng với áp lực của dân số, tác động của các quy luật kinh tế thị trường kiểu “hoang dã” cộng với một khả năng quản lý đô thị kém cỏi, những “tầm nhìn” thiển cận và luôn luôn thay đổi của các cấp thẩm quyền, Đà Lạt đã dần dần đánh mất vẻ đẹp hài hòa trước đây. Những người dân Đà Lạt ngày càng cảm thấy ngột ngạt trước cảnh ồn ào tấp nập, nhất là cảnh xe cộ chen chúc nhau một cách lộn xộn trên những đường phố “không có đèn xanh đèn đỏ”. Nhiều người dân Đà Lạt định cư ở nước ngoài trở về cảm thấy luyến tiếc vẻ đẹp của Đà Lạt ngày xưa. Mặc dù thành phố ngày nay có nhà cửa khang trang hơn, tiện nghi sinh hoạt hiện đại hơn nhưng người ta không thể tìm thấy dáng vẻ thơ mộng trước đây - vẻ đẹp mà không thành phố đồng bằng nào có thể sánh kịp cho dù ra sức đầu tư thật nhiều tiền của hay công sức. Những du khách đến Đà Lạt ngày nay dễ cảm thấy choáng ngợp trước các tòa nhà có kiến trúc hiện đại nhưng sắp xếp một cách hỗn độn, không dựa trên một ý tưởng quy hoạch nào rõ rệt.

Dalat Center 2010

Ảnh 4: Khu trung tâm thương mại Đà Lạt ngày nay (ảnh: NVP, 2011)

Người ta có cảm tưởng trong thời gian qua, các nhà quy hoạch có trách nhiệm đối với Đà Lạt chỉ chú ý đến từng công trình kiến trúc chứ không lưu ý đến toàn cảnh, cũng không mấy quan tâm đến phong cảnh và môi trường thiên nhiên. Trong khi khoa kiến trúc của thế giới đã phát triển thêm nhiều chuyên ngành như kiến trúc phong cảnh (landscape architecture), thiết kế đô thị (urban design), quy hoạch đô thị (urban planning), v,v… thì dường như các “chuyên gia” quy hoạch đô thị Đà Lạt chỉ dừng lại ở việc thiết kế từng tòa nhà, từng dinh thự, chỉ chú ý đến tiểu tiết mà quên đi cái toàn thể.

Một thành phố đẹp cần có sự hài hòa, đòi hỏi khéo bố trí, sắp xếp các công trình kiến trúc. Một thành phố trên cao nguyên lại cần có sự hài hòa giữa kiến trúc và phong cảnh. Vì vậy, có thể nói: một thành phố đẹp không phải chỉ là những tòa nhà đẹp hay những đường phố đẹp. Nếu không biết cách quy hoạch một cách hợp lý, tổng số của các tòa nhà đẹp và các đường phố đẹp có thể làm nên một thành phố xấu xí.

Dalat center Aerial_view 1968


Ảnh 5: Khu trung tâm thương mại Đà Lạt 1968 (không ảnh - vnafmamn.com)

Tin tức báo chí gần đây cho biết các nhà lãnh đạo địa phương đang bật đèn xanh cho phép xây dựng những building (ngày nay thường gọi là “cao ốc”) ngay tại khu trung tâm, trước mắt là hai cao ốc có chiều cao 45m và 49m. Nhưng trong khi ban hành những quyết định táo bạo đó, vẫn chưa có ai xác định được những nguyên tắc căn bản: nơi nào được phép xây cao ốc và chiều cao cho phép là bao nhiêu? Bất cứ ai có chút kiến thức về Đà Lạt đều thấy rõ nơi đây không phải là một thành phố đồng bằng, cho nên khi nói cao nguyên Lang-Bian có cao độ trung bình là 1.500m thì điều đó không có nghĩa là tất cả các địa điểm ở vùng này đều cao bằng nhau. Do địa hình cao thấp khác nhau, một tòa nhà 49m xây phía sau chợ Đà Lạt (điểm A trong ảnh 6), nghĩa là trong một thung lũng có cao độ khoảng 1480m, sẽ đạt đến độ cao 1529m. Chiều cao này trong thực tế đã vượt hơn ngọn đồi Dinh Thị trưởng cũ ở phía bắc (điểm C) vì cao độ ở đây là 1525,3m. Trong khi đó, một cao ốc 45m đặt tại Khu Hòa Bình (điểm B, có cao độ 1494m) sẽ đạt đến độ cao 1539m, nghĩa là cao hơn 10m so với tòa cao ốc thứ nhất, cao hơn 13,7m so với ngọn đồi Dinh Thị trưởng cũ, thậm chí còn cao hơn cả ngọn đồi Dinh III (1535,8m). Chưa hết: người ta còn đang lăm le xây một cao ốc ngay trên đỉnh đồi phía sau lưng trường Đoàn Thị Điểm - có cao độ 1504,3m[4]. Như vậy, sự xuất hiện các tòa cao ốc sẽ làm cho “diện mạo Đà Lạt” thay đổi hoàn toàn chứ không phải chỉ là “thay áo mới” như lời phát biểu của một quan chức của tỉnh Lâm Đồng với phóng viên báo chí vào tháng 9 năm 2010[5].

Khu Hoa Binh 1968 edit

Ảnh 6: Khu Hòa Bình và Chợ Đà Lạt 1968 (không ảnh - vnafmamn.com)

Việc cho phép xây dựng cao ốc một cách tùy tiện sẽ tạo ra nguy cơ phá hỏng toàn bộ các nguyên tắc bao hàm trong các đồ án quy hoạch mà người Pháp đã dày công xây dựng từ năm 1923 cho đến đầu thập niên 1940. Chính vì vậy mà trong dư luận đang nảy sinh mối hoài nghi về động cơ cho phép xây dựng các tòa cao ốc: phải chăng cái gọi là “quỹ đất vàng” đã và đang hấp dẫn các nhà đầu tư nhưng cũng đồng thời gợi lên lòng tham nơi những người có thẩm quyền phê duyệt, cấp phép trong ngành xây dựng? Phải chăng quy luật thị trường “hoang dã” đã và đang làm phát sinh nguyên tắc “đồng tiền mua được chiều cao” bất chấp các quy định về quy hoạch - kiến trúc, về môi trường thiên nhiên?

Nếu chỉ xét thuần túy về mặt kinh tế, nhà đầu tư mua một mảnh đất luôn luôn có xu hướng muốn xây cao ốc. Do chỗ giá đất cao hơn nhiều so với vốn đầu tư để xây dựng công trình, cho nên tòa nhà càng cao thì diện tích sử dụng càng lớn, khả năng sinh lợi càng gia tăng. Trong trường hợp đó, “nhà tư bản” sẵn sàng bỏ tiền ra để mua chuộc những người có thẩm quyền nhằm có được chiều cao như ý muốn, coi như tính luôn trong số vốn đầu tư. Trong bộ Tư bản, Marx có trích dẫn một câu văn của một nhà hoạt động công đoàn người Anh tên là T.J. Dunning: “Với một lợi nhuận thích đáng thì tư bản trở nên can đảm. Được bảo đảm 10% lợi nhuận thì người ta có thể dùng tư bản vào đâu cũng được, được 20% thì nó hoạt bát hẳn lên, được 50% thì nó trở nên thật sự táo bạo, được 100% thì nó chà đạp lên mọi luật lệ của loài người, được 300% thì không còn tội ác nào là nó không dám phạm, dù có nguy cơ bị treo cổ”[6]. Nguyên lý này xem ra áp dụng đúng cả trong trường hợp của nền kinh tế nước ta hiện nay.

Điều mà lý thuyết của Marx không tiên liệu là: nhà tư bản chỉ sợ “bị treo cổ” trong hoàn cảnh của một quốc gia “tư bản phát triển”, nơi mà nền kinh tế thị trường bị quản lý, kiểm soát chặt chẽ, nơi mà quyền lực chính trị phải áp dụng nguyên tắc “tam quyền phân lập”, nơi mà báo chí tự do có thể phanh phui, phơi bày bất cứ chuyện gì. Còn trong hoàn cảnh của Việt Nam, khi mà quyền lực chính trị dựa trên nguyên tắc “tập trung dân chủ”, nền kinh tế thị trường lại được nhét vào cái khung của “chủ nghĩa xã hội” thì pháp luật hoàn toàn nằm trong tay của những người cầm quyền, mọi quy định pháp lý đều có thể bị uốn nắn cho phù hợp với túi tiền của nhà đầu tư và ý chí của các nhà lãnh đạo. Cộng với một nền báo chí chỉ chăm chăm “chạy theo lề phải”, quanh năm suốt tháng chỉ biết ngóng nhìn chiếc gậy chỉ huy thì một khi nhà đầu tư mua được chiều cao của công trình, họ hoàn toàn có thể yên chí chạy theo lợi nhuận, không sợ bị treo cổ, càng không lo ngại báo chí gây phiền nhiễu.

Trong những ngày cuối năm này, so sánh những tấm ảnh toàn cảnh chụp Đà Lạt ngày xưa với những tấm ảnh chụp hiện nay, người viết không thể không cảm thấy xót xa. Có lẽ đã đến lúc những người yêu Đà Lạt sẽ phải chào vĩnh biệt “thành phố mộng mơ” mà họ đã từng biết và đã từng dệt nên bao nhiêu kỷ niệm. Một Đà Lạt như đã từng được miêu tả trong thơ, trong nhạc, trong văn chương, sẽ vĩnh viễn đi vào dĩ vãng…

Một Đà Lạt khác sẽ ra đời: đó là một Đà Lạt “hiện đại” được hình thành từ những bộ óc “đi tắt đón đầu”, “dám nghĩ dám làm” (kể cả nghĩ sai, nghĩ bậy và làm ẩu, làm dối), được thúc đẩy bởi khẩu hiệu “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” và được điều khiển từ xa bởi những đòn bẩy của của kinh tế thị trường nhưng lại bị che đậy dưới cái vỏ đạo đức giả của chiêu bài “định hướng XHCN”. Những đòn bẩy đó, cộng với một quyền lực chính trị vô biên (không ai có thể kiểm soát, cũng không ai dám phê bình) sẽ đem lại cho Đà Lạt một diện mạo mới - đẹp như thế nào thì chưa ai có thể nhìn thấy, nhưng những đường nét xấu xí thì ngày càng bộc lộ, không một ai có thể che đậy.

Dalat Panorama_1966

Ảnh 7: Toàn cảnh Đà Lạt năm 1966 (ảnh Trần Văn Châu)

Mai đây, cho dù diện mạo Đà Lạt có hiện đại hơn, thành phố có tráng lệ hơn do những tòa cao ốc nguy nga mọc lên như nấm sau cơn mưa rào, điều mà ai ai cũng có thể dễ dàng nhận thấy là: thiên nhiên sẽ ngày càng biến mất để nhường chỗ cho những khối bê tông khổng lồ chen chúc nhau giữa lòng một thành phố từng làm say đắm lòng người do những rặng thông xen vào giữa lòng phố thị, do những ngôi biệt thự thấp thoáng giữa những tán lá xanh, do những dinh thự ẩn hiện trên đỉnh những ngọn đồi…

Nếu chức năng chủ yếu của Đà Lạt là một thành phố du lịch - nghỉ dưỡng, thì điều đầu tiên cần phải bảo tồn, nâng cấp chính là môi trường thiên nhiên và các thắng cảnh. Trong vài thập niên qua, Đà Lạt sở dĩ còn hấp dẫn được du khách là nhờ đã “ăn bám” vào thanh danh của ngày xưa, nhờ vào những hình tượng mà các văn nghệ sĩ lớn của Việt Nam đã ghi lại trong các tác phẩm của mình. Nếu vẻ đẹp thơ mộng của Đà Lạt bị hủy hoại để thay vào đó là những khối bê tông chồng chất trong các thung lũng hay trên các ngọn đồi, nếu du khách đến đây để nhìn thấy hồ Than Thở chỉ còn như một cái “ao nuôi vịt”, thác Cam Ly trở thành nơi chứa nước thải thì liệu các hình tượng văn học nghệ thuật “vang bóng một thời” ấy có cứu vãn nổi cái tiếng thơm của Đà Lạt hay chỉ đem lại cho khách phương xa cái cảm giác bị lừa dối và sự thất vọng khi nhìn thấy một thực tế hoàn toàn khác xa với truyền thuyết?

Ngày nay, giữa lòng một thành phố Đà Lạt vàng thau lẫn lộn, nơi mà những kẻ lớn tiếng tự xưng là “người yêu Đà Lạt” lại có thể chính là kẻ đang từng ngày từng giờ phá hoại vẻ đẹp của Đà Lạt, những người thật sự yêu Đà Lạt đang có nguy cơ trở thành những con người cô đơn ngay trên mảnh đất quê hương của mình…

Dù sao thì Đà Lạt không phải chỉ là “tài sản” của riêng người Đà Lạt, lại càng không phải là tài sản riêng của một số vị có chức có quyền. Nếu chỉ nói một cách khiêm tốn, không phô trương, Đà Lạt ít nhất cũng là một “tài sản quốc gia” cần phải bảo tồn, trân trọng. Không lẽ tất cả những người dân Việt trong cả nước, và cả những người Việt hiện đang cư trú ở khắp nơi trên toàn thế giới, lại chịu im lặng, bó tay để “Đà Lạt thơ mộng” chết dần chết mòn như thế sao?

Đà Lạt, những ngày tất niên âm lịch năm Canh Dần, 26.1.2011

(công bố lần thứ hai ngày 23.3.2919)

M.T.L.

________

[1] Nguyên văn: chênes (cây sồi). Theo bộ sách Cây cỏ Việt Nam của GS Phạm Hoàng Hộ, ở vùng Đà Lạt – Langbian, người ta tìm thấy rất nhiều loại cây thuộc các chi: Castanopsis, Lithocarpus, Quercus, tất cả được xếp vào họ Dẻ (Fagacae, còn gọi là họ Sồi).

[2] Etienne Tardif, La mission du Lang-Bian 1899-1900, Ogeret & Martin, Vienne, 1902, pp. 35-36.

[3] Commune de Dalat – Voirie municipale, Plan d’aménagement et d’extension de Dalat – Programme des servitudes, 27 Avril 1943 (dactylographié)

[4] Cao độ của một số địa điểm trên đây dựa trên bản đồ Đà Lạt tỷ lệ 1/10.000 do Nha Địa dư Quốc gia phát hành năm 1960.

[5] Khắc Lịch, Tính chuyện “thay áo” cho Đà Lạt, Bee.net 28/09/2010 (bài đã bị xóa): http://bee.net.vn/channel/1983/201009/Tinh-chuyen-thay-ao-cho-da-Lat-1769993/

[6] Các Mác, Tư bản, tập I, quyển I, phần 2, Chương XXIV, Nxb Tiến bộ - Mat-xcơ-va, Nxb Sự Thật – Hà nội, 1984, tr. 315, chú thích số 250.

Tác giả gửi BVN.

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn