Tranh cãi về tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh

Lưu Nhi Dũ 

Chuyện tưởng đã cũ kỹ nhưng khi tác phẩm này được vinh danh trong 50 tác phẩm văn học, nghệ thuật biểu diễn Việt Nam tiêu biểu, xuất sắc sau ngày đất nước thống nhất, lập tức có luồng dư luận phản ứng.

Tôi nhớ, tác phẩm được xuất bản năm 1990 và ngay lập tức được giới phê bình và người đọc đón nhận. Tôi mua ngay và thích thú, đọc ngấu nghiến, sau đó có viết bài điểm sách đăng trên Báo NLĐ (báo giấy, giờ tìm không ra vì chưa số hóa). Có lẽ đây là bài điểm sách đầu tiên của tôi trong nghề báo. Chủ yếu là khen và cảm nhận như một tác phẩm viết về chiến tranh mới mẻ, nhân văn. Bài được chính TBT Phan Hồng Chiến khi đó khen. 

Tác phẩm này cho đến nay được dịch ra ít nhất 26 thứ tiếng, được nhiều giải thưởng văn học quốc tế, trong đó có Giải thưởng Văn học châu Á năm 2018; năm 2022 được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube của Hội Văn học nghệ thuật Danube và Nhà xuất bản AB ART (Hungary).... Nỗi buồn chiến tranh cũng đoạt giải của Hội Nhà Văn năm 1991. Sau đó Tạp chí Cộng sản, Hà Nội, số 10 (tháng 10-1994) có bài phê phán khá dữ dội: “Bằng sự bôi nhọ sự nghiệp chống Mỹ của nhân dân ta, Bảo Ninh không chỉ xúc phạm đến những người đang sống… Tác giả Nỗi buồn chiến tranh còn muốn giết chết hẳn những người đã vĩnh viễn nằm xuống để cho “dân tộc quyết sinh”… Đó là sự khai tử của một ngòi bút quá nhẫn tâm đã coi họ là vật hy sinh mù quáng cho những cuồng vọng của con người”.

Trước sự phản đối đó, lãnh đạo Hội Nhà Văn Việt Nam khi đó đã phải tự phê bình bằng văn bản, đọc trước toàn Đại hội lần thứ V. Riêng Nhà văn Vũ Tú Nam, lãnh đạo cao nhất của Hội, khi trả lời phỏng vấn đã nói: “Trách nhiệm thuộc về toàn thể Ban Chấp hành, nhưng tôi là người chịu trách nhiệm trước nhất. Sự phê phán của công luận sau đó là chính đáng”.

Tôi nhớ một lần phỏng vấn Tố Hữu (tại Tòa soạn Báo NLĐ, khi ông vừa xuất bản thi phẩm “Một tiếng đờn”, sau khi về hưu), ông cũng kịch liệt phê phán cuốn tiểu thuyết này, ông nói Bảo Ninh là “bê quay”, phê phán cả Nguyễn Huy Thiệp dữ dội! Chi tiết này tôi rất nhớ, khó quên, và anh Phan Hồng Chiến cũng có mặt lúc tôi thực hiện phỏng vấn Tố Hữu.

Tôi nghĩ đó là quan điểm cá nhân. Thực chất đây là tiểu thuyết đáng đọc. Giáo sư văn chương kiêm dịch giả Đức Günter Giesenfeld nhận định sách "thuộc hàng kinh điển thế giới ở dòng văn học chiến tranh", cùng những tiểu thuyết nổi tiếng như Giã từ vũ khí (Ernest Hemingway), Phía Tây không có gì lạ (Erich Maria Remarque). Tiểu thuyết ra đời trong bối cảnh Việt Nam thời hậu chiến, phản ánh bản chất của chiến tranh, khắc họa nội tâm dằn vặt, những vết sẹo không lành trong tâm hồn người lính - khác biệt trong bút pháp nghệ thuật, cách tiếp cận đề tài so với những tác phẩm mang màu sắc anh hùng ca trước đó.

“Vết sẹo” - ai từng cầm súng, nếu may mắn còn sống sót, đều cảm nhận như vậy, vết sẹo trong ký ức chiến tranh. 

Việt Thanh Nguyễn - nhà văn Việt kiều ở Mỹ đã viết trong cuốn “Nothing Ever Dies: Vietnam and the Memory of War (Không gì chết hẳn: Việt Nam và Ký ức chiến tranh): “Hình như trong tất cả cuộc chiến tranh đều có hai cuộc chiến đấu khác nhau, một cuộc chiến tranh trên thực địa chiến trường và một cuộc chiến tranh trong ký ức”.

Đúng vậy. 

Nước Mỹ chỉ mất hơn 58.000 người lính trong chiến tranh Việt Nam, vậy mà hội chứng chiến tranh tồn tại dai dẳng và kinh khủng trong những người lính Mỹ trở về. Hàn Quốc đã đưa quân sang đánh thuê cho Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, số quân chết ở chiến trường chưa đến 5.000, vậy mà giờ đây hội chứng chiến tranh vẫn đè nặng trong lòng các cựu binh Đại Hàn. Đó chính những cuộc chiến tranh trong ký ức, đặc biệt nó càng nặng nề khi họ gây tội ác với người bản xứ.

Số lượng bộ đội Việt Nam hy sinh trên chiến trường Campuchia chắc chắn cao hơn số lính Mỹ chết ở Việt Nam. Tính chất cuộc chiến cũng khác nhau, khi bộ đội Việt Nam chiến đấu trên chiến trường Campuchia, được chính người dân Campuchia gọi là “đội quân nhà Phật”, vì đã cứu dân tộc họ thoát khỏi nạn diệt chủng. Dù vậy, như quy luật tâm lý, cho đến nay những cựu binh K vẫn có những cuộc chiến đấu trong ký ức, mà tôi muốn tạm gọi đó là “hội chứng K”, mà bản thân tôi từng trải qua. Những giấc mơ thấy mình cầm vũ khí chiến đấu, thấy mình đang hành quân trong lòng địch, thậm chí thấy mình bị thương, cho thấy hội chứng đó là có thật. 

Mấy lần về Quảng Nam dự các ngày họp mặt cựu chiến binh, tôi đã từng biết một số đồng đội tôi cũng bị hội chứng này (đồng đội Trung đoàn 812 Quảng Nam nhớ không), có đồng đội mình cứ nghêu ngao hát, thậm chí đi lang thang...

Trong Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh nhìn chiến tranh qua lăng kính "nỗi buồn". Nhân vật chính thất bại, chật vật trong cuộc sống hàng ngày, không thể vượt qua nỗi buồn tình yêu, thân phận, sáng tạo. Bước ra khỏi cuộc chiến, không bên nào được trở về vẹn nguyên. Họ đều bị những hội chứng chiến tranh ám ảnh.

Đó chính là sự mới mẻ, sáng tạo của Bảo Ninh, dữ dội hơn Cỏ lau, Mùa trái cóc ở miền Nam (Nguyễn Minh Châu), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Ba người trên sân ga (Hữu Phương), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh)…

Đó là thành công, không thể gọi là thất bại. 

Ở nước ta các nhà văn viết tiểu thuyết chiến tranh rất nhiều nhưng để thành công như Bảo Ninh là rất hiếm. Bảo Ninh viết được như vậy đã là sáng tạo, nó "thuộc hàng kinh điển thế giới ở dòng văn học chiến tranh". 

Việc vinh danh tác phẩm, tác giả này trong 50 tác phẩm văn học, nghệ thuật biểu diễn Việt Nam tiêu biểu, xuất sắc sau ngày đất nước thống nhất, cũng là chuyện bình thường. 

Thực tế, không có bình chọn nào thỏa mãn và làm hài lòng tất cả công chúng, nhưng đây cũng là một cách đánh giá, bình chọn. Mỗi người có thể chọn cho mình những tác phẩm yêu thích, và cũng chẳng ai hỏi bạn vì sao bạn thích tác phẩm đó…

 

L.N.D.

Nguồn: FB Nhi Dũ Lưu

 

 

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn