Đại tá, anh hùng phi công Nguyễn Thành Trung: Có một giờ G khác vào năm 1974

Một bài viết hay về một nhân vật lịch sử đã có sự lựa chọn dũng cảm: ném bom Dinh Độc lập rồi ra vùng giải phóng khi vợ và hai con còn quá nhỏ đang sống ở thành phố Biên Hoà(http://sgtt.vn/Loi-song/177101/Co-mot-gio-G-khac-vao-nam-1974.html). Nhưng điều làm mình suy nghĩ là: “thời gian sống trong đội ngũ không lực Sài Gòn cho tôi một niềm tin rằng vợ tôi, một người phụ nữ không liên quan gì đến công việc của tôi, con tôi còn quá nhỏ (đứa lớn mới 5 tuổi, đứa nhỏ chưa tròn năm) sẽ không bị đối xử một cách tàn nhẫn. Thực tế diễn ra đúng như tôi dự đoán... Đương nhiên, họ vẫn điều tra vợ tôi về những gì liên quan đến tôi, nhưng không bị đối xử vô nhân đạo. Có thể nói đó là những người có học và biết cách ứng xử một cách văn hoá với người thân của kẻ thù”.

Trong khi ở miền Bắc, biết bao gia đình khốn khổ chỉ vì có người thân vào Nam, bị truy bức, mất công ăn việc làm, thậm chí những đứa con không được đi học, trừ đi nghĩa vụ quân sự... Ngay cả bây giờ, có ai dám giữ niềm tin xa xỉ ấy không?

Faceboook Nguyen Hoang Anh

SGTT.VN - 35 năm hoạt động, trên vai áo ông từng đeo quân hàm không quân hai bên là đối thủ của nhau. 22.000 giờ bay với nhiều loại phi cơ chiến đấu và dân dụng hiện đại nhất từ Đông sang Tây, từ Á sang Âu. Những nếm trải cuộc đời, dường như Nguyễn Thành Trung chẳng thiếu thứ nào. Người ta thường nói vinh quang đi cùng cay đắng. Còn ông, sống chết, tù tội chẳng màng, nhưng những giây phút cô đơn trong cuộc sống hoà bình, ngay trong lòng đồng đội thì thật dài và khó quên. Tháng Tư đến rồi lại đi cùng ký ức…

clip_image001

Chặng đường lịch sử dài 38 năm có quá nhiều biến cố, sự kiện ném bom dinh Độc Lập ngày 8.4.1975 đối với ông có ý nghĩa gì? Bây giờ nghĩ về giây phút ấy ông cảm thấy thế nào?

Đối với cá nhân tôi, ngày 8.4.1975 là một bước ngoặt lịch sử quan trọng nhất trong cuộc đời. Lái chiếc máy bay F-5E ném hai trái bom xuống dinh Độc Lập, sau đó quay lại dùng súng phóng lựu vào kho xăng Nhà Bè, là hành động mà tôi ấp ủ trong một quá trình dài, ngay từ thời trai trẻ.

Đối với tôi, chấm dứt chiến tranh để người Việt Nam không còn đổ máu là một việc lớn phải làm. Đó không phải là cảm hứng nhất thời, hay bất chợt, liều lĩnh. Sự nỗ lực cá nhân suốt bao nhiêu năm ở khoa Toán – Lý Đại học Khoa học Sài Gòn, trong vỏ bọc sĩ quan không lực Việt Nam Cộng hoà, hay tại các trung tâm học lái máy bay chiến đấu ở Hoa Kỳ từ năm 1969 – 1972 tôi vẫn chuyên chú cho hành động ấy. Tôi âm thầm luyện tập hạ cánh ở cự ly gần 1.000 mét (trong khi máy bay F-5E phải đáp trên đường băng dài tối thiểu 3.000 mét) đến độ hư hai máy bay và phải chịu kỷ luật hạ lương, giáng chức, suýt nữa là bị lộ tại sân bay Biên Hòa. Nhờ vậy mà ngày 8.4 năm ấy tôi đã hành động chính xác, đáp xuống an toàn tại sân bay dã chiến Phước Long vừa giải phóng. Có thể gọi đó là sự chính xác của lý trí và khoa học. Bước ngoặt 180 độ đó cho tôi được chính danh là tôi – Nguyễn Thành Trung như ngày hôm nay.

Nhưng báo chí cả hai phía lúc đó chạy những dòng tít lớn gọi ông là “phi công phản chiến”?

Đúng vậy, cấp trên nói với tôi là cần tuyên truyền như vậy để kêu gọi những người trong lực lượng không quân Sài Gòn tiếp tục phản chiến. Tôi nghĩ nói sao cũng được, vấn đề là tôi có làm được nhiệm vụ không? Có còn sống để trở về không? Từ năm 1969, tôi đã là đảng viên.

Còn các đồng nghiệp của ông nói gì về hành động của ông?

Ngay lúc đó thì tôi không biết họ nói gì, nhưng sau này nhiều người cho là tôi hành động hơi dại dột, bởi trước mắt tôi là một hợp đồng với phía Mỹ, sẵn sàng bảo lãnh vợ con tôi sang sống ở Mỹ với điều kiện tốt nhất. Nhưng đó không là lựa chọn của tôi.

Vậy lựa chọn của ông bắt nguồn như thế nào, truyền thống cách mạng của gia đình hay sự tự giác của cá nhân ông?

Ba tôi là một người yêu nước, chống thực dân và hy sinh tại quê nhà. Các anh tôi cũng đi theo con đường yêu nước của ba tôi. Cái chết của ba tôi, càng làm cho tôi ý thức rõ ràng hơn là phải góp phần làm cho chiến tranh sớm chấm dứt, quê hương và dân tộc mình phải được sống trong cảnh thanh bình. Tôi là người biết rõ mình là ai, mình cần phải làm gì. Những việc quan trọng cần làm tôi luôn dự liệu trước hàng chục năm.

Thời khắc đó ông có nghĩ đến sự an toàn của vợ và hai con còn quá nhỏ đang sống ở thành phố Biên Hoà? Có khi nào ông cảm thấy khổ tâm hay hối hận về hành động của mình mang lại nỗi vất vả cho vợ con?

Trước khi ném bom dinh Độc Lập ngày 8.4.1975, lãnh đạo đề nghị đưa vợ con tôi ra vùng giải phóng để tôi yên tâm làm nhiệm vụ. Nhưng lúc đó, tôi bị nghi kỵ nhiều, nguy cơ bị lộ rất cao nên chuyện đó là không thể. An ninh quân đội theo sát gia đình tôi từng giờ, nếu vợ con tôi vắng nhà không rõ lý do thì tôi sẽ bị bắt ngay tức khắc. Cũng có thể trên đường ra vùng giải phóng, vợ con tôi cũng sẽ bị bắt, tình thế đó sẽ nghiêm trọng hơn. Rất lo lắng cho tính mạng vợ con, nhưng việc mà tôi đã tính trước 10 năm đến thời điểm này là không thể dừng. Mặt khác, thời gian sống trong đội ngũ không lực Sài Gòn cho tôi một niềm tin rằng vợ tôi, một người phụ nữ không liên quan gì đến công việc của tôi, con tôi còn quá nhỏ (đứa lớn mới 5 tuổi, đứa nhỏ chưa tròn năm) sẽ không bị đối xử một cách tàn nhẫn.

Thực tế diễn ra đúng như tôi dự đoán. Cánh an ninh không quân đưa xe đến nhà bắt vợ con tôi. Vợ tôi phản đối vì mình không biết gì về công việc của chồng. Họ từ tốn: “Thưa bà, chúng tôi không bắt bà (nếu bắt chúng tôi đã dùng còng số 8, trói bà chẳng hạn), chúng tôi tới đây mời bà vào Phòng An ninh Sư đoàn, với trách nhiệm bảo vệ sự an toàn tính mạng của bà và các con bà. Nếu bà có tài sản quý giá nào thì bà cứ mang theo”. Một tuần sau vợ và con tôi bị đưa từ Biên Hoà về số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm - Sài Gòn cho đến ngày 30.4.1975. Đương nhiên, họ vẫn điều tra vợ tôi về những gì liên quan đến tôi, nhưng không bị đối xử vô nhân đạo. Có thể đó là những người có học và biết cách ứng xử một cách văn hoá với người thân của kẻ thù. Trong thời gian vợ tôi bị giam ở số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trung tướng không quân Trần Văn Minh đến thăm với tư cách người chỉ huy có một người lính phản chiến. Ông ấy hỏi vợ tôi có cần bạn bè, người thân đến chuyện trò gì không hay cần mua sắm gì thì ông sẽ giúp đỡ.

Vậy đó, ngày 2.5.1975, tôi lái máy bay từ Phan Rang về sân bay Biên Hoà. Vợ con tôi cũng vừa được giải thoát khỏi số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng tôi gặp lại nhau trong ngôi nhà nhỏ của mình.

Sau ngày thống nhất đất nước, đối diện với bao khó khăn của cuộc sống thường ngày do nền kinh tế bao cấp áp đặt, những lúc ngột ngạt, mệt mỏi ông nghĩ gì?

Tôi là người được học hành tử tế trong những ngôi trường khá lý tưởng của Sài Gòn và tiếp cận nhiều nguồn tài liệu khác nhau, tôi biết rõ những sai lầm trong chính sách kinh tế của miền Bắc nước ta. Bi kịch cải cách ruộng đất còn nguyên đó, công nghiệp chẳng có gì. Khu gang thép Thái Nguyên còn thô sơ lắm, Dệt Nam Định, Sứ Hải Dương chỉ sản xuất được những mặt hàng tiêu dùng cấp thấp, đặc biệt là hạn chế về trình độ của cán bộ quản lý. Sự khác biệt về ý thức hệ giữa hai miền, nhất là do đặc thù của nền kinh tế tự cung tự cấp, cho tôi nhìn rõ sau khi Việt Nam thống nhất, kinh tế sẽ cực kỳ khó khăn ít nhất là mười năm. Tôi chuẩn bị tinh thần đối phó với những khó khăn chung, và cả những khó khăn về mặt cá nhân, nghi ngờ, hay có những phân biệt đối xử này nọ... Tôi chấp nhận đối diện thực tế đó và nghĩ điều quan trọng nhất mình có được là dân tộc Việt được sống trong hoà bình.

Thực tế mười năm khó khăn như ông nói cũng đã được tháo gỡ bởi bước chuyển đổi mới. Nhưng tới bây giờ, người ta lại tiếp tục đưa ra dự báo mình lại đang hụt hơi, tụt đà. Ông nghĩ thế nào?

Cải cách vì vậy là do dân. Cuộc cách mạng này do dân và do lịch sử thế giới tác động. Nếu muốn không tụt đà thì phải nương vào sức dân, dân giàu thì nước mới mạnh.

Thực ra đổi mới một phần vì khi mình tiếp xúc với thế giới mới ngộ ra một điều là đang bị co trong vòng luẩn quẩn, không tìm ra lối thoát trong khi thế giới ào ào tiến lên. Từ ảnh hưởng đó đồng thời tác động mạnh của cuộc khủng hoảng Đông Âu tới mình và cả Trung Quốc, bắt buộc phải một phần nào đó chấp nhận cách làm ăn mới, có sự tư hữu. Tư hữu của thế giới mình không chấp nhận, nhưng con người có quyền tư hữu từ hàng ngàn năm về trước. Mình luẩn quẩn trong khi thế giới đang tiến lên bởi mình không chấp nhận dân làm giàu. Cho nên bắt buộc mình phải công nhận, phải chấp nhận tư hữu ở một mức độ nào đó để dân thở được. Khi đó dân bắt đầu làm ăn được. Cải cách vì vậy là do dân. Cuộc cách mạng này do dân và do lịch sử thế giới tác động. Nếu muốn không tụt đà thì phải nương vào sức dân, dân giàu thì nước mới mạnh.

Sau ngày 30.4, ông có thường gặp lại đồng nghiệp trong những phi đội cũ? Tình cảnh và và tâm thế lúc gặp lại như thế nào?

clip_image003

Đại tá, anh hùng phi công Nguyễn Thành Trung. Ảnh: Trần Việt Đức

Bẵng mười năm sau giải phóng, tôi không gặp lại ai trong nhóm những đồng nghiệp cũ. Sau đổi mới, từ năm 1986 trở về sau này, các đồng nghiệp cũ của tôi lần lượt về mới có dịp gặp lại. Lớp tôi có 23 đứa, chết hết bốn, 18 đứa qua Mỹ, chỉ còn mình tôi ở lại. Những lần gặp cũng dễ nói chuyện vì họ đã hiểu rõ mọi chuyện. Tôi cũng hoàn toàn hiểu và tôn trọng họ. Đa phần những đồng nghiệp của tôi đều ở Mỹ. Lúc mới về, tâm lý chung mấy người bạn đều ngại gặp tôi. Tôi thì chả ngại gì, tôi vẫn xem họ là những người bạn. Khi gặp cũng tâm sự nhiều, cũng so sánh chuyện cũ, chuyện bây giờ. Ai cũng công nhận việc tôi làm là góp phần chấm dứt cuộc chiến tranh, chấm dứt cảnh chết chóc, đổ máu. Nhưng điều họ chia sẻ là họ không dám có những quyết định như vậy.

Những người bạn lựa chọn khác tôi lúc qua Mỹ còn trẻ nên ai hội nhập được, sống khá giả. Năm nào mấy ổng cũng ngồi lại với nhau, chuyện nói nhiều nhất là về tôi. Nhiều anh em bảo quyết định của tôi hơi dại dột, vì sau giải phóng sống kiểu gì cũng bị nghi ngờ, đói khổ… Tôi trả lời đó không phải là quyết định bậy bởi tôi ý thức được việc cần làm. Cái gì cũng vậy, làm thì phải trả giá nhưng tôi chấp nhận việc đó. Nhưng qua những thăng trầm của đất nước, nhiều kinh nghiệm cuộc đời đúc kết lại, tôi thấy việc tôi làm càng ngày càng đúng. Còn hỏi tôi có lăn tăn hay không, tôi trả lời thật là thánh mới không lăn tăn, nhưng những cái lớn nhất át những lăn tăn nhỏ đi, nên hàng đêm tôi ngủ yên vì biết tôi đang ngủ trên đất nước mình, chứ qua Mỹ sướng thật nhưng ngủ không yên bởi lúc nào cũng đau đáu một quê hương chỉ còn trong ký ức. Nhiều đứa bạn nói thẳng: “Đến bây giờ mới nghe được một người nói điều đó là mày”. Chúng tôi gặp nhau trao đổi thẳng thắn, không giấu giếm điều gì, nói đến tận cùng suy nghĩ của mỗi người.

Với ông, quê hương là thế nào?

Tôi có tới hai quê hương. Một Bến Tre nơi tôi sinh ra, nơi đó là dòng tộc máu mủ, nơi đó cha mẹ tôi đã nằm xuống cho chúng tôi trưởng thành. Vốn là xứ học, địa linh nhân kiệt, nhiều tên tuổi trí thức lớn Việt Nam xuất phát từ đây. Những Phan Thanh Giản, Võ Trường Toản, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Đình Chiểu… là những tấm gương của nhân – nghĩa – lễ – trí – tín mà tôi từng học được.

Còn một quê hương khác, Sài Gòn đối với tôi là máu thịt, là tình yêu, là gì đó không thể lay chuyển được dù cho năm tháng trôi qua, nhìn góc phố thay đổi, cũng nhiều lúc buồn vui hờn giận, tiếc nuối…

Ông từng thổ lộ về một người bạn rất thân, giữa ông với người đó hình như có một món nợ ân tình đến nay vẫn còn đau đáu?

Người bạn ấy đến giờ sau 38 năm vẫn chưa gặp lại mặc dù tôi nghe tin ảnh có quay về. Ảnh cùng ở phi đoàn phản lực không quân Sài Gòn với tôi nhưng không phải cùng lớp. Anh ấy là một người đặc biệt. Khi đó, lãnh đạo báo cho tôi biết có một cán bộ nội tuyến trong lực lượng pháo binh bị bắt khai có một phi công quê Bến Tre là nội tuyến của Việt cộng. Tôi nhẩm tính trong không quân có độ chục người gốc gác Bến Tre, riêng phi đoàn phản lực thì có tôi và người bạn mà tôi kể ở trên, người cùng xã, cùng học trường tiểu học nhưng trên tôi hai lớp. Khi thông tin bị lộ như thế thì tất cả những người gốc Bến Tre đều bị triệu tập điều tra. Anh bạn tôi bị ngưng bay, an ninh không quân gọi lên làm việc liên tục. Anh ấy không biết có chuyện gì, nhưng tôi thì biết rõ nguyên nhân. Tuy lý lịch anh ấy không có vấn đề gì nhưng anh có người chị học Đại học Sư phạm từng tham gia biểu tình chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Lúc đó, tôi cũng như ngồi trên lửa, nhiều chuyện không thể tâm sự, chia sẻ với ai được. Khoảng một tuần sau, tôi gặp ảnh và tôi nghĩ ảnh biết rõ về tôi, từ gia đình đến công việc của tôi. Ảnh nói: “Riêng mày thì tao “ba không”, ai hỏi tao về mày tao cũng không biết, không nghe, không thấy”. Khi nghe câu đó, tôi nhập tâm đến giờ, tới chết tôi sẽ mang theo lời nói và hình ảnh của anh ấy.

Tôi ngẫm nghĩ ở đời có nhiều người cực xấu nhưng cũng có nhiều người cực tốt. Cái tốt - xấu đó mong manh lắm, nhưng người ta không cần xác nhận. Là bạn thân nên anh ấy bảo vệ chứ không phải vì tôi là Việt cộng hay cán bộ mà anh ấy ứng xử như vậy. Trong thâm tâm tôi nhiều lần muốn gặp lại anh ấy, nhưng để làm gì, nói một lời cảm ơn liệu có ý nghĩa gì? Tôi động viên mình có lẽ trong tình cảnh ấy đến giờ chỉ cần hai tâm hồn bạn bè hiểu nhau là đủ. Tôi nguyện cho tới chết tôi sẽ mang điều ấy theo.

Ông đã bước ra khỏi vỏ bọc của một điệp viên, lái máy bay trên bầu trời hoà bình, và làm công việc đào tạo, hết lòng với một thế hệ phi công trẻ Việt Nam. Điều đọng lại trong ông sau thời gian dài gắn bó với công việc đào tạo, huấn luyện ấy là gì?

Một mảnh đất dù nhỏ cũng là tổ quốc mình, cha ông ta đã đắp xây nên bờ cõi, là con dân của đất nước ai cũng có nghĩa vụ thiêng liêng gìn giữ lấy.

Giã từ cuộc chiến, tôi thấy mình làm khá nhiều việc mà những việc đó chắc không phải ai cũng làm được. Hồi còn sống, anh Hai Trung (Tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn) nói nửa đùa nửa thật: “Việc ông ném bom dinh Độc Lập, Nhà nước phong ông anh hùng thì tôi không nói làm gì, còn công việc ông làm sau này nếu được, tôi phong ông hai lần anh hùng nữa”. Anh Hai Trung hiểu về công việc đặc thù của tôi. Khi giải phóng, cả một bề thế không quân chế độ cũ bỏ lại, tôi là người làm sống lại phi đội A37 sau này tham gia đánh Tân Sơn Nhất vào ngày 28.4 trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. F5 là máy bay chiến đấu hiện đại nhất của Sài Gòn lúc bấy giờ mà Mỹ bỏ lại mấy phi đoàn nhưng không có người bay. Giá trị vậy nhưng bỏ lại quá lâu bị hư hại nhiều, có chiếc bị bắn phá thủng lỗ chỗ. Nhiều chiếc còn bị bộ đội tiếp quản tháo đi những tiện nghi nội thất hay linh kiện quan trọng… Sau khi thành lập bộ phận tiếp quản, tôi nhận nhiệm vụ làm sống lại những chiếc máy bay này. Khi sửa xong, tôi là người bay thử. Phi công bay thử của người ta điều kiện bảo hiểm ngặt nghèo lắm, còn tôi thì như con thiêu thân. Gần 50 lần bay như thế, tôi luôn sẵn sàng tình huống nhảy dù khẩn cấp bởi máy bay có thể hư bất cứ lúc nào. Mỗi lần bay, nhiên liệu chỉ cung cấp đủ phân nửa cơ số. Vốn là người nhạy cảm trong cuộc sống, con ruồi bay qua tôi phân biệt ruồi đực hay ruồi cái, huống chi chuyện nhiên liệu chỉ đủ bay một vòng trong bán kính hẹp. Điều lăn tăn mà tôi kể trên là như vậy đó.

Tháng 8.1975 sau khi hồi phục xong rồi, tôi huấn luyện cả một phi đội, bay thành thục F5 để thành lập trung đoàn không quân 935, sau này trở thành trung đoàn anh hùng.

Đã quá cái tuổi lục thập nhi nhĩ thuận, còn điều gì ông thấy hối tiếc, hoặc món nợ nào ông chưa trả được?

Đến giờ này tôi vẫn ân hận, tiếc là không được chết vì Hoàng Sa. Ngày 18.1.1974, hải quân Trung Quốc đổ bộ lên chiếm đảo Hoàng Sa, phía Việt Nam Cộng hoà khi đó có một đại đội địa phương quân chốt trên đảo Phú Lâm. Hai bên đánh nhau, cùng có thương vong về con người nhưng quân số Trung Quốc đông quá, 51 lính địa phương quân của ta bị bắt đưa về Trung Quốc. Việt Nam Cộng hoà lên tiếng phản đối việc Trung Quốc dùng sức mạnh quân sự để chiếm đảo của Việt Nam một cách phi pháp. Đây là sự kiện lớn, dư luận thế giới cũng phản đối việc đó.

Lúc này hải quân của Việt Nam Cộng hoà không thể đổ bộ chiếm lại đảo được. Ngày 19.1.1974, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu điều năm phi đoàn F5, bốn ở sân bay Biên Hoà, một ở sân bay Đà Nẵng, mỗi phi đoàn có 24 máy bay và 120 phi công ra Đà Nẵng chuẩn bị đánh lấy lại Hoàng Sa. Mọi người rất phấn khởi, tụi tôi đi ra với tư thế là đi lấy lại một phần lãnh thổ đất nước. Sĩ quan cấp tá ở các phi đoàn 520 – Nguyễn Văn Dũng, 536 – Đàm Thượng Vũ, 540 – Nguyễn Văn Thanh, 544 – Đặng Văn Quang, 538 – Nguyễn Văn Giàu đều đã lên kế hoạch tác chiến kỹ lưỡng.

150 phi công thuộc sáu phi đoàn F5 của không lực Việt Nam Cộng hoà khi đó đều ký tên chung vào một lá đơn tình nguyện “Xin được chết vì Hoàng Sa”.

Hàng ngày, máy bay RF5 có nhiệm vụ bay và chụp ảnh các toạ độ từ nhỏ nhất ở Hoàng Sa, xem có thay đổi gì, tàu chiến Trung Quốc di chuyển ra sao, bố trí các cụm phòng thủ thế nào… đưa về chiếu ra cho tất cả phi công theo dõi. Tụi tôi đếm từng tàu một, thậm chí đếm được cả số ghi trên tàu, chia bản đồ ra làm bốn, mỗi góc tư giao cho một phi đoàn, phi đoàn thứ năm bay bảo vệ trên không. Họ có 43 tàu tất cả và quyết tâm của tụi tôi là đánh chìm tất cả 43 tàu đó trong vài giờ.

Về không quân, vào thời điểm đó chúng tôi có nhiều lợi thế hơn Trung Quốc. Bay từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa bằng cự ly từ đảo Hải Nam ra. Ưu thế của phi đội tụi tôi là máy bay bay ra, đánh nửa tiếng vẫn thừa dầu bay về còn Trung Quốc chỉ có Mig 21, bay ra đến Hoàng Sa thì không đủ dầu bay về. Khí thế phi công lúc đó hừng hực, mấy anh chỉ huy trưởng từ đại tá trở xuống đòi đi đánh trước. Tất cả háo hức chờ đến giờ G là xuất kích. Nhưng giờ G ấy đã không đến. Hạm đội 7 của Mỹ trên biển không cứu các hạm đội của đồng minh Việt Nam Cộng hoà bị bắn chìm và bị thương trên đảo. Dường như vì lợi ích của mình, các quốc gia lớn có quyền mặc cả và thương lượng bất chấp sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia khác.

Một mảnh đất dù nhỏ cũng là tổ quốc mình, cha ông ta đã đắp xây nên bờ cõi, là con dân của đất nước ai cũng có nghĩa vụ thiêng liêng gìn giữ lấy. Tụi tôi háo hức sẵn sàng tất cả nhưng cuối cùng không được chết cho Hoàng Sa. Tới bây giờ tôi vẫn ân hận. Sau này bạn bè tôi gặp lại nhau cũng cùng một tâm trạng: đáng lẽ tụi mình chết cho Hoàng Sa thì vinh dự hơn!

Là người đi nhiều nơi, có điều kiện tiếp cận với chuyện làm ăn, ông thấy phẩm chất, tư cách của người Việt Nam có đứng được ở những thị trường minh bạch?

Cũng tuỳ người. Thí dụ như thị trường Lào, nhiều nhà đầu tư của mình không dám qua đó nữa bởi vì làm kiểu nói dóc, hứa nhiều nhưng làm chẳng bao nhiêu. Họ nói thẳng là mấy ổng đó qua họ không tiếp. Cách làm ăn của người Việt mình cũng có nhiều cái người ta không chấp nhận, chỉ chụp giật, bốc hốt ở đây thôi chứ ra ngoài người ta không chấp nhận.

Hiện nay ông có bằng lòng với cuộc sống của mình?

Thời nào tôi cũng bằng lòng với hiện tại. Thời khó khăn nhất cũng như khi đất nước đổi mới đến nay, tôi bằng lòng với những cái mình hiện có. Đó là hạnh phúc tự tạo. Nếu để làm giàu tôi sẽ đi đường khác và tôi biết cách làm giàu, nhưng tôi đã không lựa chọn như vậy. Tôi vẫn nghĩ “tri túc tiện túc hà thời túc”, mình biết đủ thì lúc nào cũng đủ, còn ham muốn, lúc nào cũng thấy thiếu thì không bao giờ đủ cả. Tôi bằng lòng với cuộc sống con cái học hành đàng hoàng, lễ phép với cha mẹ. Hiện tôi vẫn chưa nhàn được, tôi vẫn đi làm thuê, nhưng làm để vui, chứ làm để buồn thì tôi không bao giờ làm.

Để giải toả những mệt mỏi trong công việc, ông có chơi thú giải trí gì khác?

Tôi cũng thích nhiều nhưng tự thấy mình không có điều kiện, chẳng hạn như đánh golf , làm sao đủ sức, đủ tiền mà vác cái gậy mấy chục ngàn đô. Đối với tôi bây giờ sức khoẻ là trên hết, liệu sức để làm việc thôi. Tôi sống trên không nhiều quá rồi, giờ ngồi dưới đất thú thực là thấy tay chân tù túng, bay một tí cho vui nên đến nay tôi vẫn bay đều.

Cảm ơn về cuộc trò chuyện chân tình và thẳng thắn của ông.

THỰC HIỆN: TRUNG DŨNG – MINH NGUYỄN

CHÂN DUNG HỘI HOẠ: HOÀNG TƯỜNG

Anh hùng Nguyễn Thành Trung tên thật Đinh Khắc Chung, sinh ngày 9.10.1947 tại xã An Khánh, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Năm 1965, ông được ban Binh vận T2 (khu 8) đưa lên Sài Gòn với một bản lý lịch thay đổi bằng tên mới là Nguyễn Thành Trung. Năm 1969, sau khi được kết nạp Đảng, ông được bố trí vào cơ sở nội tuyến trong lực lượng không quân Sài Gòn. Được sự chỉ đạo trực tiếp bí mật của cơ sở nội tuyến, ông có nhiệm vụ phải ẩn mình chờ giờ G ném bom dinh Độc Lập.

Ông hiện là đại tá không quân Việt Nam, được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang ngày 20.12.1994.

Nguồn: http://sgtt.vn/Loi-song/177101/Co-mot-gio-G-khac-vao-nam-1974.html

***

NHÂN KỶ NIỆM 32 NĂM NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM (30.4.1975-30.4.2007)

Nguyễn Thành Trung - Phía sau ánh hào quang

Thứ Năm, 26/04/2007 01:06

Lê Thành Chơn

Nguyễn Thành Trung trở thành nhân vật lịch sử bởi trận ném 4 quả bom MK-81 xuống Dinh Độc Lập và chỉ huy phi đội Quyết Thắng tấn công vào sân bay Tân Sơn Nhất trong Chiến dịch Hồ Chí Minh cách đây 32 năm. Song, ít người biết phía sau ánh hào quang đó, ông đã gặp những thời điểm khó khăn, nghiệt ngã.

Tôi quen biết Nguyễn Thành Trung đã lâu, do nghề nghiệp và cũng vì ngưỡng mộ. Sĩ quan không quân - phi công, tự nó đã có sức hút với nhiều người, hơn nữa khi Nguyễn Thành Trung gắn với những chiến công lịch sử của dân tộc. Tôi muốn dành những dòng này để nói về những điều làm nên phẩm chất anh hùng của ông.

Thử thách nghiệt ngã

Sau khi Sài Gòn giải phóng, Nguyễn Thành Trung chưa kịp tìm lại gia đình thì quân Pol Pot chiếm nhiều đảo của ta, trong đó có đảo Ông. Hải quân liền xin chi viện. Được lệnh, cùng các phi công đã được bay tập trên A-37, Nguyễn Thành Trung xuất kích liên tục. Chỉ trong 1 ngày, nhờ sự chi viện hiệu quả của không quân, quân ta giải phóng được đảo Ông, đánh bật bọn Pol Pot ra khỏi đảo Bà.

Những ngày sau giải phóng, máy bay ngổn ngang. Các sân bay có A-37 đều được sửa chữa và Nguyễn Thành Trung bay thử hàng chục chiếc. Ông đã góp phần rất lớn cho sự ra đời Trung đoàn 937 không quân.

Lúc này, tại căn cứ Biên Hòa, những chiếc F-5 quân ngụy bỏ lại khá nhiều, hầu hết không có lý lịch, hư hỏng, phải sửa chữa và bay thử. Phi công bay được F-5 duy nhất chỉ có Nguyễn Thành Trung và ông được điều về phi trường Biên Hòa bay thử. Việc bay thử những máy bay hư hỏng, mới sửa chữa là vô cùng nguy hiểm. Ở các nước tiên tiến, đối với máy bay mới, có kỹ thuật hoàn chỉnh, phi công bay thử là những người có bảo hiểm cao nhất. Họ chỉ bay một lần trên một chiếc vừa sản xuất trong điều kiện bảo đảm tốt nhất. Còn ở ta, không ai bảo đảm hàng chục chiếc máy bay kia an toàn hay không.

Nguyễn Thành Trung đứng trước thử thách nghiệt ngã. Ông nhớ rất rõ hôm Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm sân bay Biên Hòa. Đại tướng chỉ thị: “Phải làm chủ máy bay F-5 của Mỹ. Chiến trường của các đồng chí sắp tới là ở phía Tây Nam. Chúng ta phải sử dụng F-5 để bảo vệ Tổ quốc”. Đầy quyết tâm, Nguyễn Thành Trung bước lên máy bay, cất cánh. Những ngày căng thẳng rồi cũng qua, tất cả 47 lần bay thử đều thành công. Tiếp đó là những chuyến bay giáo viên, bay kèm cho trên chục phi công của trung đoàn, bay vòng kín xung quanh sân bay, bay tập ném bom... Những phi công do ông đào tạo đã có đủ số lượng, đủ sức để xây dựng thêm một trung đoàn F-5 của không quân nhân dân VN - Trung đoàn 935 anh hùng trong chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam.

Nghịch cảnh éo le

Nếu cuộc đời cứ bình lặng thì với những chiến công, thời gian hoạt động trong lòng địch, lấy máy bay địch đánh Dinh Độc Lập của ngụy quyền, chỉ huy phi đội A-37 tấn công vào sân bay Tân Sơn Nhất làm rúng động Sài Gòn, góp phần làm tan rã mau chóng ngụy quân..., Nguyễn Thành Trung đã xứng đáng nhận danh hiệu anh hùng. Nhưng, người sĩ quan tình báo thường gặp những nghịch cảnh éo le. Có điều, nghịch cảnh lần này lại không phải do địch gây ra.

Đó là vào những ngày cuối năm 1977, đầu năm 1978, bọn Pol Pot đêm đêm tàn sát đồng bào ta ở vùng biên giới Tây Nam rất dã man. Một hôm, Chính ủy Trung đoàn gọi Nguyễn Thành Trung, nói: “Tình hình biên giới Tây Nam đang rất căng thẳng, chiến tranh có thể xảy ra. Chúng ta phải chuẩn bị để đánh”. Với trách nhiệm của một sĩ quan không quân, Nguyễn Thành Trung đề nghị: “Nếu phải xuất kích, cho phép tôi đánh trận đầu”. Cả trung đoàn lao vào chuẩn bị cho những trận chiến đấu sắp tới. Mờ sáng hôm sau, ông cùng đồng đội ra phi đạo, đang chuẩn bị cho một ngày huấn luyện thì có lệnh: “Không cho Nguyễn Thành Trung cất cánh, chờ lệnh”... Những ngày sau đó, ông tiếp tục đi cùng với các phi công của trung đoàn ra tuyến hạ cất cánh, nhưng không được bay.

Sau này tôi biết được, một chiếc C-47 của Trung đoàn Không quân Vận tải trong khi bay huấn luyện tuyến Tân Sơn Nhất - Cà Mau - Rạch Giá - Tân Sơn Nhất đã trốn chạy sang Singapore, sau đó qua Mỹ, đã khiến Nguyễn Thành Trung bị nghi ngờ. Trên chiếc C-47 này, phi công Đinh Công Giểng - một đảng viên, được một Trung tá phi công chế độ cũ bay kèm. Giểng bị viên Trung tá mua chuộc và phản bội, đào ngũ cùng với ông ta, sau khi hạ cánh ở Cà Mau.

clip_image004 clip_image005

 

Anh hùng không quân Nguyễn Thành Trung (giữa) và Anh hùng không quân Trần Hanh (trái). Ảnh: T.CHÂU

 
Sáng tỏ quá khứ

Nguyễn Thành Trung nhớ lại, hồi sống trong lòng địch, có người đến báo cho ông biết, địch nghi ngờ trong không quân có người của ta và đang theo dõi gắt gao. Chẳng hiểu sao ông không hề lo lắng. Đời người sĩ quan tình báo, một khi đã dấn thân tự nguyện phụng sự cho Tổ quốc thì xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. Còn bây giờ, đang sống trong lòng đồng đội, sự nghi ngờ làm ông đau đớn. Ông quyết định viết thư về TP HCM...

Nhiều ngày đêm một mình nằm trong căn phòng không tiện nghi, đến bữa cơm ngồi ăn như nhai cỏ khô, sức khỏe giảm sút..., Nguyễn Thành Trung vẫn không hề nao núng. Ông tin ở sự thật, tin chính mình, tin cấp trên và tin vào sự sáng suốt của Đảng. Lòng tin trong ông mạnh mẽ và trong sáng đến độ, có người khuyên trở về Nam, song ông kiên quyết ở lại. Ông phải chứng minh sự trong sáng của mình.

Những lá thư Nguyễn Thành Trung gởi về TP HCM đều được trả lời. Những người kết nạp ông vào Đảng vẫn còn sống. Tổ công tác của Trung ương Cục liên lạc với ông trước đây vẫn còn. Đặc biệt, ông nhận được thư động viên của Bí thư Thành ủy TP HCM Võ Văn Kiệt, Phó Bí thư Thành ủy TP HCM Nguyễn Võ Danh, Bí thư Quận ủy quận Tân Bình Tư Chí... Nhưng, cho dù quá khứ được sáng tỏ, bóng đen nghi ngờ vẫn còn...

Bị nghi ngờ, cô lập

Một thời gian dài, Nguyễn Thành Trung phải rời sân bay đi học chính trị. Người ta khơi lại thời gian đi học ở Mỹ của ông và cho rằng ông không thể trung thành. Điều đau khổ nhất của Nguyễn Thành Trung chính là bị nghi ngờ không phải là đảng viên Đảng Cộng sản... Nhiều sĩ quan thông cảm nhưng không dám liên hệ với ông. Nguyễn Thành Trung bị cô lập trong lòng đồng đội. Ông đã chịu đựng một áp lực ghê gớm. Cứ thế, mãi đến khi chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra...

L.T.C.

Nguồn: nld.com.vn

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn