Đông Nam Á: Một khu vực, hai tiểu vùng

Susannah Patton Foreign Affairs ngày 25 tháng 9 năm 2025

Lê Bá Nhật Thắng biên dịch | Hương Nguyễn hiệu đính

Khoảng cách chiến lược ngày càng lớn giữa các quốc gia lục địa và quốc gia biển trong khu vực.

Thuỷ thủ đoàn một tàu Hải quân Singapore đã chào đón một tàu Hải quân Indonesia trong khuôn khổ sự kiện Duyệt binh Hạm đội Quốc tế năm 2023. Ảnh: Bộ Quốc phòng Singapore.

Các nhà hoạch định chính sách và giới học giả phương Tây thường nói về Đông Nam Á như một khu vực thống nhất, nhưng trên thực tế, khu vực này vốn luôn tồn tại sự phân hóa. Với khoảng 700 triệu dân, nơi đây có hàng trăm ngôn ngữ, nhiều tôn giáo khác nhau, và 11 quốc gia với thể chế chính trị, quy mô, địa lý và trình độ phát triển kinh tế rất đa dạng. Xuyên suốt Chiến tranh Lạnh, Đông Nam Á bị chia cắt giữa năm thành viên sáng lập Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) gắn kết với Hoa Kỳ – Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan – và ba quốc gia Đông Dương – Campuchia, Lào và Việt Nam – nghiêng về Trung Quốc hoặc Liên Xô.

Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, ASEAN đã mở rộng, kết nạp Campuchia, Lào và Việt Nam, cùng với tiểu vương quốc Brunei, qua đó nâng cao vị thế của Đông Nam Á như một thực thể địa chính trị. Tuy nhiên, bất chấp những thành tựu của ASEAN trong việc thúc đẩy hợp tác giữa các thành viên, một Đông Nam Á gắn kết vẫn mang tính huyền thoại nhiều hơn thực tế.

Thực tế cho thấy Đông Nam Á tồn tại như hai khu vực, chứ không phải một khối thống nhất. Theo Chỉ số Ảnh hưởng Đông Nam Á của Viện Lowy, một công cụ đo lường mức độ chi phối của các đối tác bên ngoài trong khu vực, hiện vẫn tồn tại hai mạng lưới riêng biệt giữa các quốc gia Đông Nam Á. Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam hợp thành một nhóm lục địa có xu hướng ngả về Trung Quốc. Indonesia, Malaysia và Singapore tạo thành một nhóm biển, trong đó các quốc gia này gắn kết chặt chẽ với nhau, hợp tác với nhiều chính phủ ngoài khu vực, đồng thời thực hiện chiến lược cân bằng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Philippines là một trường hợp ngoại lệ: nước này thiếu các đối tác thân cận trong ASEAN và phụ thuộc nhiều hơn vào các đối tác ngoài Châu Á, đặc biệt là Hoa Kỳ, so với bất kỳ láng giềng nào khác.

Khoảng cách giữa hai mạng lưới quốc gia Đông Nam Á này được dự báo sẽ gia tăng trong những thập niên tới, dẫn đến hình thành trên thực tế một phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc ở Đông Nam Á lục địa. Để ngăn chặn Bắc Kinh mở rộng ảnh hưởng sâu hơn nữa, Hoa Kỳ cần tăng cường quan hệ với các quốc gia nằm ở vị trí trung gian giữa hai tiểu vùng của Đông Nam Á: Thái Lan và Việt Nam.

Sân sau của Bắc Kinh

Những dãy núi rừng hiểm trở ngăn cách Trung Quốc với Lào, Myanmar và Việt Nam, và thông qua các quốc gia này, với cả Campuchia và Thái Lan. Nhà nhân học James Scott gọi vùng địa hình khó tiếp cận này là “Zomia” (thuật ngữ chỉ khu vực cao nguyên rộng lớn ở Châu Á lục địa, nơi các cộng đồng dân tộc thiểu số từ lâu tránh sự kiểm soát của nhà nước) và mô tả cách nó đã ngăn cản bất kỳ nhà nước nào kiểm soát hoàn toàn khu vực cao nguyên trong phần lớn lịch sử khu vực. Thực tế, các rào cản địa lý này đã giữ cho Đông Nam Á lục địa tách biệt khỏi Trung Quốc suốt hàng thiên niên kỷ và tạo nên một giới hạn tự nhiên đối với sự bành trướng của nhà nước Trung Hoa. Tuy nhiên, bước sang thế kỷ XXI, công nghệ đã vượt qua trở ngại địa hình: các tuyến đường bộ, đường sắt và khu kinh tế đặc biệt đã thúc đẩy mạnh mẽ hơn các hoạt động giao lưu về con người và hàng hóa giữa Trung Quốc và Đông Nam Á lục địa.

Thông qua Sáng kiến Vành đai và Con đường, Trung Quốc đã cung cấp tài chính cho các dự án hạ tầng quy mô lớn mới, đặc biệt là đường sắt, trên khắp khu vực. Nhiều dự án trong số này đã kết nối trực tiếp các quốc gia lục địa với Trung Quốc, qua đó làm thay đổi bản chất quan hệ của họ với Bắc Kinh theo cách không diễn ra ở các quốc gia biển. Chẳng hạn, vào năm 2021, miền nam Trung Quốc đã được nối bằng đường sắt tới thủ đô Viêng Chăn của Lào. Tầm nhìn cuối cùng của Trung Quốc là gắn tuyến đường này với các dự án đi qua Thái Lan và Malaysia để hình thành một tuyến đường sắt nối Singapore với thành phố Côn Minh của Trung Quốc. Tác động của tuyến đường sắt này đối với Lào rất sâu rộng: một quốc gia đang phát triển nhỏ bé nay đã rơi vào tình trạng nợ nần nặng nề với Trung Quốc. Giá trị thương mại song phương đã tăng vọt kể từ khi tuyến đường sắt đi vào hoạt động, phần lớn đến từ xuất khẩu nông sản do người Lào sản xuất trên những khu đất được cho các nhà đầu tư Trung Quốc thuê.

Quan hệ của Lào với Trung Quốc cũng có mặt tối. Trong những năm đầu thế kỷ, Lào đã thiết lập những đặc khu kinh tế với mục tiêu chính đáng là khuyến khích đầu tư nước ngoài. Nhưng ngày nay, những khu vực này trở thành “vùng vô pháp,” nơi các doanh nhân Trung Quốc, thậm chí cả lực lượng an ninh, có thể hoạt động ngoài khuôn khổ pháp luật. Tình trạng buôn bán ma túy, tội phạm về động vật hoang dã, dòng lao động di cư không kiểm soát từ Myanmar và các nước láng giềng khác, cùng các hoạt động lừa đảo trên mạng đã bùng phát tại đây. Trên thực tế, Lào không còn thực thi đầy đủ chủ quyền trên phần lớn lãnh thổ của mình. Ở Myanmar, nội chiến đã làm chậm tiến độ các dự án đường bộ và đường sắt nhằm kết nối Trung Quốc với Ấn Độ Dương. Tuy nhiên, một đường ống dẫn dầu và khí đốt vẫn tiếp tục vận hành bất chấp giao tranh ác liệt.

Ngay cả Việt Nam, vốn từ lâu thận trọng trước ảnh hưởng của Trung Quốc, cũng đã thu hút lượng lớn đầu tư tư nhân từ Trung Quốc do cuộc chiến thương mại giữa Washington và Bắc Kinh. Nhiều công ty đã chuyển chuỗi cung ứng từ Trung Quốc sang Việt Nam, đặc biệt là khu vực phía Bắc – một sự dịch chuyển so với thông lệ lịch sử khi miền Nam Việt Nam từng là trung tâm quan trọng hơn về thương mại và kinh tế. Thuế quan của Hoa Kỳ áp lên hàng hóa Việt Nam, ở mức 20 phần trăm, vẫn thấp hơn so với mức áp dụng đối với hàng hóa Trung Quốc, vì vậy Trung Quốc nhiều khả năng sẽ tiếp tục đầu tư vào Việt Nam.

Trung Quốc cũng đã tài trợ cho các dự án đường sắt tại Đông Nam Á biển. Năm 2023, chẳng hạn, một tuyến đường sắt cao tốc nội địa trị giá 7,3 tỷ USD đã được khánh thành, nối thủ đô Jakarta của Indonesia với Bandung. Hiện nay, một dự án khác đang được triển khai nhằm kết nối bờ Đông và bờ Tây của Malaysia bằng đường sắt, với chi phí khoảng 12 tỷ USD. Mặc dù những dự án này tại các quốc gia biển góp phần gia tăng ảnh hưởng của Bắc Kinh với tư cách là một đối tác kinh tế, chúng vẫn chưa tạo ra sự kết nối thực chất nào giữa Indonesia hay Malaysia với Trung Quốc.

Tự do và rộng mở

Trong khi Đông Nam Á lục địa, nhờ sự kết nối với Trung Quốc, đã biến đổi sâu sắc trong thập niên qua, thì điều này không đúng với Đông Nam Á biển, vốn từ lâu đã tiếp xúc với nhiều đối tác thương mại nhờ đặc điểm địa lý. Hai quốc gia biển lớn nhất khu vực, Indonesia và Philippines, là những quần đảo rộng lớn; cùng với Singapore và Malaysia, chúng án ngữ các tuyến hàng hải then chốt kết nối Châu Á với thế giới. Cũng như Scott gọi vùng cao nguyên Châu Á lục địa là “Zomia,” nhà báo Philip Bowring đã đặt ra thuật ngữ “Nusantaria” để mô tả không gian hàng hải mênh mông của Đông Nam Á.

Trung Quốc đã tìm cách khẳng định quyền kiểm soát đối với tuyến hàng hải trung tâm của khu vực là Biển Đông. Điều này đã khiến nhiều quốc gia trên toàn cầu lo ngại, bởi họ cần các tuyến hàng hải duy trì trạng thái tự do và rộng mở để phục vụ thương mại. Năm 2016, một tòa trọng tài của Liên Hợp Quốc đã bác bỏ các yêu sách của Trung Quốc đối với khu vực nằm trong “đường chín đoạn”, vốn bao trùm gần như toàn bộ Biển Đông. Kể từ đó, hàng chục quốc gia, kể cả những nước xa xôi như Vương quốc Anh và Bắc Ireland, đã ủng hộ phán quyết này, qua đó nhấn mạnh tầm quan trọng toàn cầu của các tuyến hàng hải này.

Do các quốc gia Đông Nam Á biển có quy mô lớn hơn và giữ vai trò quan trọng hơn đối với thương mại toàn cầu so với các quốc gia lục địa, họ thường nhận được đầu tư và tài chính phát triển từ một nhóm rộng hơn các nhà tài trợ nước ngoài. Họ cũng thu hút nhiều sự quan tâm hơn trong lĩnh vực quốc phòng. Trong số các sáng kiến hợp tác quốc phòng mới giữa các chính phủ phương Tây và Đông Nam Á kể từ năm 2017, phần lớn tập trung vào các quốc gia biển và Việt Nam. Các quốc gia biển, chịu sức ép lớn hơn từ những yêu sách hàng hải bao trùm và sự lấn lướt thường xuyên của Trung Quốc trong vùng đặc quyền kinh tế của họ, nhận thấy nhu cầu hợp tác với Hoa Kỳ và các nước phương Tây khác. Đồng thời, Hoa Kỳ và các đồng minh, đặc biệt là Úc và Nhật Bản, sử dụng các quốc gia Đông Nam Á biển để thúc đẩy mục tiêu của riêng mình trong quan hệ với Trung Quốc. Hoa Kỳ coi các cuộc tập trận quân sự chung với Philippines là cách duy trì khả năng tiếp cận bên trong cái gọi là “chuỗi đảo thứ nhất,” vốn ngăn cách Trung Quốc với Thái Bình Dương. Washington đã tăng cường bán vũ khí và hợp tác quân sự với Philippines – quốc gia gánh chịu phần lớn sự gây hấn trên biển của Trung Quốc – như một khoản đầu tư nhằm duy trì sự tôn trọng luật pháp quốc tế và ngăn chặn Trung Quốc ép buộc các quốc gia nhỏ hơn phải khuất phục ý chí của mình.

Khoảng cách ngày càng xa

Hai nhóm quốc gia ở Đông Nam Á sẽ tiếp tục phân kỳ. Các quốc gia biển trong khu vực sẽ duy trì cởi mở với nhiều đối tác. Trung Quốc sẽ vẫn là nguồn ảnh hưởng bên ngoài lớn nhất của họ, nhưng không vượt trội quá xa; nhiều quốc gia khác, bao gồm Hoa Kỳ, Úc, Ấn Độ và Nhật Bản, sẽ góp phần kiềm chế sức ảnh hưởng của Bắc Kinh. Ngược lại, Đông Nam Á lục địa nhiều khả năng sẽ trở thành một phần trong phạm vi ảnh hưởng trên thực tế của Bắc Kinh. Trung Quốc sẽ không nắm quyền lực tuyệt đối đối với những quốc gia này, nhưng sẽ có đòn bẩy lớn hơn nhiều so với bất kỳ quốc gia nào khác bên ngoài khu vực.

Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump dường như bị cuốn hút bởi ý tưởng về các phạm vi ảnh hưởng. Ông tìm cách khẳng định lại vị thế thống trị của Hoa Kỳ tại Tây Bán cầu, đồng thời thể hiện sự nhượng bộ lớn hơn đối với các lợi ích của Nga ở Châu Âu. Có lẽ cuối cùng Hoa Kỳ sẽ coi Đông Nam Á lục địa như một phần trong phạm vi ảnh hưởng tự nhiên của Trung Quốc. Đối với một Hoa Kỳ đang tìm cách cắt giảm các cam kết quốc tế, quyết định ngừng cạnh tranh với Trung Quốc tại khu vực này có thể được xem là hợp lý.

Tuy nhiên, Washington cần thận trọng trước những hệ quả của một sắp đặt như vậy. Và nếu không muốn làm suy yếu vị thế của chính mình tại Đông Nam Á, Hoa Kỳ cần củng cố quan hệ với các quốc gia nằm ở rìa phạm vi ảnh hưởng của Bắc Kinh: Việt Nam và Thái Lan. Việt Nam mang đặc trưng của một quốc gia lục địa: có hệ thống chính trị khép kín, từng gắn bó với Liên Xô, duy trì quan hệ sâu sắc với Campuchia và Lào, đồng thời ngày càng tăng cường liên kết với Trung Quốc. Tuy nhiên, Việt Nam đang dần mang tầm nhìn biển nhiều hơn. Chẳng hạn, năm 2023, Việt Nam đã nâng cấp quan hệ với Hoa Kỳ lên đối tác chiến lược toàn diện – một dấu hiệu cho thấy Hà Nội coi Washington là đối tác then chốt. Chính quyền Trump đã lãng phí thiện chí này khi đối xử với Hà Nội như một đối thủ trong các cuộc đàm phán thuế quan một chiều, một động thái có nguy cơ gây tổn hại lâu dài đến vị thế của Hoa Kỳ tại Việt Nam.

Hoa Kỳ cũng cần dành nhiều sự chú ý hơn cho Thái Lan. Quốc gia này, một đồng minh thời Chiến tranh Lạnh và là một nền kinh tế phát triển, vốn có truyền thống thân thiện với nhiều đối tác bên ngoài, bao gồm cả các nước phương Tây. Tuy nhiên, kể từ năm 2006, nền dân chủ của Thái Lan đã suy yếu, và Bangkok đã tăng cường cả quan hệ kinh tế lẫn quốc phòng với Bắc Kinh. Hoa Kỳ cần đầu tư nhiều hơn vào liên minh này và tránh những biện pháp trừng phạt có thể đẩy Thái Lan vào vòng tay của Bắc Kinh. Chẳng hạn, vào tháng Ba, Washington đã áp đặt lệnh trừng phạt đối với các quan chức Thái Lan vì đã trục xuất 40 người Duy Ngô Nhĩ xin tị nạn về Trung Quốc. Bằng cách củng cố quan hệ với Việt Nam và Thái Lan, Hoa Kỳ có thể góp phần bảo đảm rằng Đông Nam Á biển vẫn duy trì trạng thái rộng mở, qua đó đặt ra một giới hạn tự nhiên đối với khả năng Trung Quốc thống trị châu Á và bảo vệ lợi ích của Hoa Kỳ trong toàn bộ khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.

S.P.

---

Susannah Patton là Giám đốc Chương trình Đông Nam Á tại Viện Lowy. 

Lê Bá Nhật Thắng và Hương Nguyễn là cộng tác viên Dự án Đại Sự Ký Biển Đông. 

Có thể đọc bài viết gốc ở đây. Một bản PDF được lưu trữ ở đây. Vui lòng xem hướng dẫn truy cập ở đây.

Nguyên tắc hoạt động của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.

—————

Dự án Đại Sự Ký Biển Đông tồn tại dựa trên tài trợ của cộng đồng. Nếu quý độc giả muốn có một nguồn thông tin tri thức khách quan, đa chiều dựa trên chiều sâu chuyên môn và dữ liệu có hệ thống, Dự án Đại Sự Ký Biển Đông là một địa chỉ mà mọi người có thể tin tưởng. Hãy chung tay cùng với chúng tôi duy trì Dự án bằng cách tài trợ cho Dự án, và khuyến khích bạn bè, đồng nghiệp cùng tài trợ Dự án. Xem hướng dẫn tài trợ ở đây: https://dskbd.org/tai-tro-cho-du-an/. Báo cáo tài chính sẽ được tổng kết vào cuối năm. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn.

NguồnDự án Đại Sự Ký Biển Đông

 

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn