Vì sao Trung Quốc hầu như im lặng trước việc Việt Nam bồi đắp ở Biển Đông

Collin Koh Channel News Asia ngày 30 tháng 9 năm 2025

Lê Bá Nhật Thắng biên dịch | Hoàng Việt Hải hiệu đính

An aerial view of an island

AI-generated content may be incorrect.

Hình ảnh vệ tinh mới nhất toàn cảnh Bãi Thuyền Chài. Theo TS. Phạm Thanh Vân, dữ liệu khảo sát hàng hải cho thấy Bãi Thuyền Chài là thực thể nổi ở triều cao và bởi vậy chủ quyền thực thể không phụ thuộc vào vị trí có nằm trong EEZ hay không. Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) không quyết định vấn đề chủ quyền lãnh thổ đối với các thực thể nổi ở triều cao. Công ước chỉ quy định quy chế pháp lý của các vùng biển được xác lập theo nguyên tắc “đất thống trị biển”. Chủ quyền đối với thực thể nổi ở triều cao thuộc lĩnh vực khác của luật pháp quốc tế về thụ đắc lãnh thổ (bao gồm chiếm hữu thực sự, lịch sử thực thi chủ quyền, sự kế thừa, các thoả thuận có giá trị pháp lý, phán quyết của một toà án quốc tế…)

Khác với những va chạm ngày càng leo thang với Philippines, Trung Quốc lại chọn cách phản ứng khác trước hoạt động bồi đắp đảo của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa, theo nhận định của Collin Koh thuộc Trường Nghiên cứu Quốc tế S Rajaratnam.

Quy mô chương trình xây đảo của Việt Nam ở Biển Đông đã gây nhiều bất ngờ. Theo một tổ chức tư vấn chính sách ở Hoa Kỳ hồi tháng 8, hoạt động bồi đắp của Việt Nam sẽ có thể “tương đương – thậm chí vượt qua” quy mô của Trung Quốc. 

Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á (Asia Maritime Transparency Initiative) thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) báo cáo rằng Việt Nam đã tiến hành xây dựng tại tám thực thể trước đây chưa từng bị tác động, đồng nghĩa với việc Việt Nam nay đã bồi đắp đất tại tất cả các thực thể mà quốc gia kiểm soát ở Trường Sa.

Tuy vậy, xét hạn chế về nguồn lực, các bước đi của Việt Nam vẫn tương đối khiêm tốn. Song chúng được hoạch định như một bản thiết kế dài hạn trong tranh chấp lãnh thổ kéo dài với Trung Quốc.

Bắc Kinh không hề mù mờ trước những gì Hà Nội đang tiến hành. Hoạt động xây dựng của Việt Nam đã được ghi nhận rõ trong những năm gần đây. Nhưng chính quyền Trung Quốc vẫn giữ im lặng một cách đáng chú ý – cho đến gần đây.

Trái ngược với những va chạm ngày càng gay gắt với Philippines ở những khu vực khác trên Biển Đông, Trung Quốc và Việt Nam đang ở trong một trạng thái “chung sống hòa bình”.

“Quản lý đúng đắn” tranh chấp 

Quan hệ chiến lược giữa Việt Nam và Trung Quốc đã có chiều hướng cải thiện kể từ sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 năm 2014 ngoài Hoàng Sa và vụ đối đầu tại Bãi Tư Chính năm 2019. Kể từ đó, hai nước đã đồng ý “quản lý đúng đắn” tranh chấp, hàm ý sẽ kiềm chế việc “chỉ trích công khai” lẫn nhau.

Sự chú ý của quốc tế cũng chủ yếu tập trung vào các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông, từ những hành vi cưỡng ép đối với tàu thuyền Philippines từ đầu năm 2023 cho đến gần đây nhất là kế hoạch lập khu bảo tồn thiên nhiên tại bãi cạn Scarborough đang tranh chấp – một kế hoạch vấp phải nhiều hoài nghi.

Điều này đã tạo ra một khoảng trống khá thuận lợi – một “cửa sổ cơ hội chiến lược” chưa từng có, nếu có thể gọi như vậy – để Hà Nội thúc đẩy các kế hoạch bồi đắp đảo của riêng mình mà không thu hút nhiều chú ý.

Tại sao Việt Nam lại tiến hành một dự án quy mô lớn và xa xôi như vậy? Đáng lẽ nguồn vốn có thể được sử dụng cho hạ tầng trong nước, các chương trình phát triển, hoặc tăng cường sức mạnh hải quân và các lực lượng thực thi pháp luật trên biển chủ chốt, cụ thể là Cảnh sát biển và Kiểm ngư. 

Tóm lại, dự án xây đảo của Bắc Kinh đã, đang, và sẽ luôn là động lực chiến lược hàng đầu cho dự án của chính Việt Nam.

Cơ sở hạ tầng mở rộng được nêu bật trong báo cáo của tổ chức tư vấn có khả năng tạo điều kiện cho Việt Nam tăng cường hiện diện tại quần đảo Trường Sa, đặc biệt trong bối cảnh khoảng cách địa lý xa xôi có thể đặt ra thách thức cho hoạt động của các lực lượng quân sự và cảnh sát biển.

Với các tiền đồn nhân tạo được nâng cấp, Việt Nam có thể kéo dài thời gian hoạt động tại khu vực của các lực lượng với nguồn lực vẫn còn khiêm tốn, mà không nhất thiết phải quay về căn cứ đất liền sau mỗi chuyến tuần tra. Với hệ thống hạ tầng ít nhất tương xứng, thậm chí có thể so sánh thuận lợi với những gì Trung Quốc đã xây dựng, Việt Nam có thể kỳ vọng thiết lập một sự hiện diện vững chắc hơn tại quần đảo Trường Sa ở Trường Sa.

Tác động đối với hiện trạng ở Biển Đông

Thứ nhất, Việt Nam có yêu sách tại quần đảo Trường Sa rộng lớn hơn nhiều so với các bên khác ở Đông Nam Á, nhưng lại không có điều kiện địa lý thuận lợi nhất. Brunei, Malaysia và Philippines đưa ra yêu sách trong phạm vi gần bờ biển của họ, đặc biệt nằm gọn trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) 200 hải lý (khoảng 370 km).

Các yêu sách của Việt Nam ở Trường Sa lại cách bờ biển đất liền hơn 200 hải lý. Việc củng cố các thực thể mà Việt Nam kiểm soát sẽ cho phép quốc gia này khẳng định hiện diện mạnh mẽ hơn, đồng thời bù đắp bất lợi về địa lý.

Các bên yêu sách Đông Nam Á khác sẽ theo dõi những gì Hà Nội đang làm. Nhưng với quan hệ cải thiện qua nhiều thập kỷ, họ có nhiều khả năng kết luận rằng hành động của Hà Nội chủ yếu nhằm vào Bắc Kinh.

Thứ hai, việc xây dựng ngang bằng hoặc vượt qua Trung Quốc chưa chắc đã thay đổi cán cân quyền lực có lợi cho Việt Nam.

Các nhà phân tích Trung Quốc, bao gồm cả sĩ quan Quân Giải phóng Nhân dân mà tác giả trao đổi, thừa nhận rằng các tiền đồn nhân tạo của Bắc Kinh, do khoảng cách xa đất liền, sẽ rất dễ bị tổn thương trong xung đột. Những tiền đồn này được coi là gánh nặng hơn là tài sản khi chiến sự nổ ra, vì có thể bị cô lập và vô hiệu hóa hoặc phá hủy ngay trong những giờ đầu. Việt Nam có lẽ cũng nhận thức rõ nghịch lý này.

Các nhà phân tích Trung Quốc, bao gồm cả các sĩ quan Quân Giải phóng Nhân dân mà tôi đã trao đổi, đều thừa nhận rằng các tiền đồn đảo nhân tạo của Bắc Kinh, do khoảng cách địa lý xa đất liền, sẽ rất dễ bị tổn thương trong xung đột. Những tiền đồn này bị xem là gánh nặng hơn là nguồn lực chiến lược khi chiến tranh nổ ra, vì chúng có khả năng bị cắt đứt, vô hiệu hóa hoặc bị phá hủy ngay trong những giờ đầu tiên. Việt Nam có lẽ cũng nhận ra nghịch lý này.

Đối với cả hai bên, lợi ích chiến lược thực sự của những tiền đồn này nằm khả năng phô trương hiện diện thời bình. Hà Nội đã chứng kiến trực tiếp thành quả thực tế của những nỗ lực bồi đắp. Cuối năm 2019, khi tàu khảo sát địa chấn Trung Quốc Hải Dương Địa Chất 8 (Haiyang Dizhi 8) xâm nhập EEZ của Việt Nam gần Bãi Tư Chính giàu năng lượng, phía Trung Quốc chỉ cần rút lui về phía đông đến tiền đồn Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) để tiếp tế và nghỉ ngơi, trước khi quay lại đối đầu với Việt Nam.

Một hạn chế thực tế khác: các tiền đồn nhân tạo là hạ tầng tĩnh, trong khi Việt Nam vẫn còn hạn chế về phương tiện cơ động như tàu quân sự và cảnh sát biển cần thiết để khẳng định yêu sách.

Tóm lại, hiện trạng giữa Trung Quốc và Việt Nam ở Biển Đông vượt ra ngoài phạm vi các tiền đồn nhân tạo, mà nằm ở năng lực của mỗi bên trong việc triển khai hiện diện.

Phản ứng dè dặt của Bắc Kinh 

Trung Quốc đã cảm thấy cần phải phản ứng sau khi báo cáo được công bố, ít nhất để chứng tỏ rằng họ đang theo dõi sát sao, qua đó gửi một cảnh báo ngầm tới Hà Nội. Tại cuộc họp báo ngày 25 tháng 8, Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố “kiên quyết phản đối các hoạt động xây dựng của những quốc gia liên quan trên các đảo và bãi đá mà họ chiếm đóng bất hợp pháp”, đồng thời khẳng định sẽ “làm những gì cần thiết” để bảo vệ lợi ích ở vùng biển tranh chấp.

Bỏ qua lời lẽ ngoại giao, có hai lý do chính khiến Trung Quốc cho đến nay vẫn kiềm chế không phản ứng mạnh mẽ với Việt Nam.

Thứ nhất, Bắc Kinh có ưu thế tổng thể vượt trội so với Việt Nam. Thứ hai, và có lẽ quan trọng hơn, hiện nay phần lớn sự chú ý của Trung Quốc đang tập trung vào Philippines, và họ muốn duy trì thế ổn định với các đối thủ Đông Nam Á khác ở Biển Đông.

Gần đây, có những dấu hiệu cho thấy Việt Nam và Philippines đang nỗ lực thúc đẩy hợp tác an ninh hàng hải, như các cuộc trao đổi song phương và diễn tập chung giữa hai lực lượng cảnh sát biển. Đại sứ Việt Nam tại Philippines, ông Lại Thái Bình, cũng phát biểu tại nhiều sự kiện do chính phủ Philippines tổ chức nhằm thúc đẩy cách tiếp cận minh bạch quyết đoán của Manila hoặc kỷ niệm phán quyết trọng tài năm 2016 – một thắng lợi pháp lý mang tính bước ngoặt cho Philippines trước Bắc Kinh ở Biển Đông. Những động thái này nên được xem như một lời nhắc nhở kịp thời đối với Bắc Kinh rằng Hà Nội đang nắm trong tay “lá bài Manila” như một đòn bẩy.

Với mục tiêu cô lập Philippines, Bắc Kinh rõ ràng mong muốn duy trì quan hệ hữu hảo với Việt Nam và cho đến nay đã lựa chọn không phản ứng thái quá. Thực tế, việc tăng cường xây dựng của Việt Nam khó có khả năng đạt đến mức khiến Trung Quốc phải thay đổi lập trường – miễn là Hà Nội vẫn duy trì chính sách lâu dài, giữ quan hệ kinh tế và chính trị sôi động với Bắc Kinh.

C.K.

---

Collin Koh là Nghiên cứu viên cao cấp tại Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam, thuộc Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore. Ông chủ yếu nghiên cứu về an ninh hàng hải và các vấn đề hải quân ở Đông Nam Á, bao gồm cả các tranh chấp trên Biển Đông. Lê Bá Nhật Thắng và Hoàng Việt Hải là những cộng tác viên của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông. Có thể đọc bài viết gốc ở đây.

Nguyên tắc hoạt động của Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.

—————

Dự án Đại Sự Ký Biển Đông tồn tại dựa trên tài trợ của cộng đồng. Nếu quý độc giả muốn có một nguồn thông tin tri thức khách quan, đa chiều dựa trên chiều sâu chuyên môn và dữ liệu có hệ thống, Dự án Đại Sự Ký Biển Đông là một địa chỉ mà mọi người có thể tin tưởng. Hãy chung tay cùng với chúng tôi duy trì Dự án bằng cách tài trợ cho Dự án, và khuyến khích bạn bè, đồng nghiệp cùng tài trợ Dự án. Xem hướng dẫn tài trợ ở đây: https://dskbd.org/tai-tro-cho-du-an/. Báo cáo tài chính sẽ được tổng kết vào cuối năm. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn.

Nguồn: Dự án Đại Sự Ký Biển Đông

  

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn