Việt Nam có tự do báo chí?

Luật sư Lê Công Định, tù nhân tư tưởng

VRNs (02.05.2014) – Sài Gòn – Chiều hôm qua, tại hội trường Giêrađô, nhà mục vụ DCCT, bài tham luận Việt Nam có tự do báo chí? của luật sư Lê Công Định, tù nhân tư tưởng, đã được linh mục Hoàng Vũ công bố trong hội thảo Tự do thông tin ở Việt Nam dưới ánh sáng giáo huấn xã hội Công giáo. Bài tham luận được tất cả các tham dự viên tán thưởng và đồng tình.

—-

Thế nào là một nền báo chí tự do và độc lập?

clip_image001

Hình lấy từ trang facebook của tác giả

Một nền báo chí tự do và độc lập thực sự là thành tố quan trọng của một xã hội tự do. Sẽ không có xã hội tự do nếu báo chí chưa độc lập khỏi chính quyền.  Luật lệ về báo chí giúp thiết đặt những quy tắc bảo đảm sự tự do và độc lập đó, chứ không phải là phương tiện để chính quyền kiểm soát và áp đặt quan điểm của mình về nội dung thông tin, cũng như cách thức đưa tin và bình luận các sự kiện kinh tế, chính trị và xã hội.

Thông tin cung cấp cho công chúng không phải là những sản phẩm đã được nhào nặn và định hướng cách hiểu từ bất cứ ai và thế lực nào. Tất nhiên không tránh được sự thiên vị và suy nghĩ chủ quan của người cầm bút và chủ bút một tờ báo khi xử lý và đưa tin.  Vai trò của luật lệ về báo chí do vậy là thiết lập một hệ thống quy tắc đạo đức nghề nghiệp của nhà báo nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân và tổ chức trong xã hội.

Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo không đồng nghĩa với trách nhiệm đưa tin theo ý chí của chính quyền hoặc quan chức.  Một khi tuân thủ đạo đức nghề nghiệp, nhà báo không phải sợ hãi khi thông tin mình đã đưa trái với “định hướng” hoặc đụng chạm đến cơ quan công quyền dù ở cấp nào, bởi lẽ vai trò mặc nhiên của báo chí là đưa tin và chính quyền phải tôn trọng điều đó.

Sự thật là tiêu chí tối thượng của một nền báo chí tự do và độc lập cho dù nhà báo và tờ báo phải trả giá thế nào để bảo vệ sự thật mà mình biết. Nhà báo phải xác minh sự thật và đưa tin về điều đó.  Báo chí không bao giờ được phép đưa tin sai sự thật khi biết rõ đâu là sự thật.  Đấy chính là trách nhiệm quan trọng nhất của báo giới.

Vậy, với quan niệm phổ biến như vậy, liệu Việt Nam thực sự có tự do báo chí?  Hỏi tức là trả lời.

Ai giám sát báo chí?

Khác với cách hiểu lâu nay ở Việt Nam, việc giám sát báo chí không phải của chính quyền, mà của chính báo giới và độc giả.

Như đã nói trên, nhà báo phải tuân thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp được ấn định bởi luật pháp và quy tắc riêng của một tờ báo. Có thể nói, đạo đức nghề nghiệp là cơ chế giám sát tối cao hoạt động báo chí.  Cũng như nghề luật sư, những quy tắc đạo đức nghề nghiệp chủ yếu giúp giải quyết vấn đề xung đột lợi ích tài chính hay các phân tranh lợi ích khác.  Mọi thiên vị dưới áp lực của tiền bạc hay quyền lực đều bị cấm đoán.

Ngoài ra, độc giả sẽ dựa vào tiêu chí sự thật để đặt lòng tin vào một tờ báo, qua đó giám sát cách thức đưa tin và bình luận các sự kiện kinh tế, chính trị và xã hội của tờ báo.  Bình luận sự kiện có thể thế này thế kia, tùy thuộc vào kinh nghiệm và kiến thức của nhà báo, nhưng cố tình bỏ sót, bịa đặt hoặc bóp méo sự kiện thực tế sẽ bị độc giả xét đoán nghiêm khắc.

Sự tự do và độc lập của báo chí không cho phép bất kỳ sự kiểm duyệt vô lý nào từ phía chính quyền dù dưới danh nghĩa thiết lập và duy trì ổn định trật tự xã hội.  Mọi sự ngụy biện nhằm áp đặt sự kiểm soát tùy tiện như vậy trên thực tế sẽ thủ tiêu một nền báo chí tự do và độc lập như có thể thấy ở những thể chế độc tài và toàn trị.

Chính quyền thường lập luận rằng báo chí không bao giờ được phép đặt mình cao hơn pháp luật.  Có vẻ đúng, nhưng đó là “pháp luật” gì?  Xin thưa, đó là loại “pháp luật” được đặt ra theo hướng che đậy và cho phép sự can thiệp của nhà cầm quyền vào hoạt động báo chí.  Tất nhiên, mỗi nước có quy tắc pháp lý và đạo đức khác nhau, song điều đó không có nghĩa rằng nhà cầm quyền tại một nước có quyền phớt lờ những chuẩn mực văn minh chung được toàn thế giới công nhận để biện minh cho sự kiểm duyệt báo chí một cách võ đoán của mình nhân danh luật pháp và trật tự công.

Giáo sư Jane Kirtley (người Mỹ) đã viết: “Một nền báo chí tự do cũng có thể có khiếm khuyết và đôi khi không đáp ứng được hết những gì người ta kỳ vọng về nó. Nhưng những nền dân chủ đang phát triển khắp thế giới vẫn hàng ngày chứng tỏ rằng họ có đủ dũng khí và tự tin để chọn sự hiểu biết hơn là ngu dốt, chọn sự thật hơn là những thông tin tuyên truyền, bằng cách chấp nhận và áp dụng lý tưởng về báo chí tự do.  Sống với tự do báo chí không dễ. Nhưng tôi biết rằng tôi sẽ không thể sống nếu không có điều đó.”

Luật pháp quốc tế và quốc gia về tự do ngôn luận và tự do báo chí

Nền tảng của một nền báo chí tự do và độc lập là quyền tự do ngôn luận của công dân.  Quyền tự do ngôn luận là một quyền hiển nhiên của những ai có tư cách làm người, được hiến pháp quốc gia công nhận và ghi nhận, chứ không phải được ban phát.  Khác với Việt Nam, luật pháp các nước dân chủ nghiêm cấm quốc hội hay chính quyền thông qua các đạo luật hay đặt ra các quy định hạn chế hoặc vi phạm tự do ngôn luận và tự do báo chí, dù dưới hình thức công nhiên hay ngụy trang nào.

Tuyên ngôn Toàn cầu về Nhân quyền của Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1948 đã khẳng định như sau tại Điều 19: “Mọi người đều có quyền tự do có chính kiến và tự do ngôn luận; quyền này bao gồm tự do giữ các quan điểm mà không bị can thiệp, tự do tìm kiếm, tiếp nhận và chia sẻ thông tin và ý tưởng thông qua bất kỳ phương tiện truyền thông nào và không bị giới hạn.”

Điều 10 của Công ước Châu Âu về Nhân quyền ghi nhận: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm quyền tự do được giữ các quan điểm, tiếp nhận và chia sẻ thông tin mà không bị can thiệp bởi chính quyền và không bị giới hạn. […]”

Ngoài ra, Công ước Châu Âu về Nhân quyền còn nêu rõ: “Việc thực hiện các quyền tự do này, do chúng bao hàm cả quyền lợi và nghĩa vụ, có thể phải chịu sự chi phối của các thủ tục, điều kiện, hạn chế hoặc hình phạt do luật pháp quy định và là điều cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, hay an toàn xã hội, nhằm ngăn ngừa tội phạm, mất trật tự xã hội, nhằm bảo vệ sức khỏe, tinh thần, bảo vệ thanh danh hay quyền của những người khác, nhằm ngăn ngừa việc phát tán thông tin mật, bảo đảm thẩm quyền và tính không thiên vị của ngành tư pháp.”

Như vậy, luật pháp quốc tế bảo đảm quyền tự do ngôn luận dù cũng thừa nhận một số cơ sở pháp lý để nhà nước hạn chế tự do ngôn luận nhằm bảo vệ các lợi ích xã hội và cá nhân chính đáng.

Nhiều công ước, hiệp ước và tài liệu quốc tế khác đều công nhận tương tự về quyền tự do ngôn luận, đặc biệt là Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị.  Dù có thể khác nhau về ngôn ngữ cụ thể song tất cả đều thừa nhận tự do ngôn luận là quyền cơ bản của con người.

Hiến pháp của các quốc gia cũng công nhận quyền tự do ngôn luận.  Chẳng hạn, Điều 25 của Hiến pháp Vương quốc Bỉ năm 1831 ghi rõ: “Báo chí được tự do; không bao giờ được thiết lập sự kiểm duyệt nào; không được yêu cầu an ninh từ các tác giả, các nhà xuất bản và các nhà in. Khi tác giả của một tác phẩm báo chí được biết rõ và đang cư trú ở Bỉ, không được truy tố nhà xuất bản, nhà in hay nhà phát hành.”

Luật pháp quốc tế và quốc gia về tự do thông tin

Bên cạnh tự do ngôn luận, các công ước, hiệp ước và tài liệu quốc tế cũng công nhận tự do thông tin như là quyền cơ bản của con người.  Tự do thông tin là quyền hợp hiến tại khoảng 80 quốc gia trên thế giới. Tất nhiên, tại nhiều nước, đặc biệt là Việt Nam, các nhà báo vẫn gặp khó khăn trong việc thực hiện quyền tự do thông tin của mình.

Luật Báo chí Thụy Điển năm 1766 được xem là bộ luật đầu tiên về tự do thông tin.  Nhiều nền dân chủ đang phát triển ở Đông Âu và Mỹ châu La Tinh cũng đưa quyền tự do thông tin vào hiến pháp của mình. 

Cũng như ở hầu hết các nước trên thế giới, tại Mỹ mọi công dân đều có thể yêu cầu tiếp cận thông tin theo Đạo luật Tự do Thông tin năm 1966, theo đó mọi người trên thế giới đều có quyền truy cập thông tin tại Mỹ theo luật pháp Mỹ, mà không cần phải là công dân Mỹ hay thường trú nhân ở Mỹ. 

Tất nhiên, dù công nhận quyền tự do thông tin, luật về tự do thông tin tại các quốc gia đều ấn định các trường hợp ngoại lệ, theo đó một số loại thông tin mật không thể công bố rộng rãi. Chẳng hạn, những thông tin liên quan đến đời sống riêng tư của người khác thuộc loại mật mà báo chí phải tôn trọng.

Luật pháp Việt Nam về tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do thông tin

Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định tại Điều 25 rằng: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.” (Nhấn mạnh phần gạch chân)

Tuy nhiên, hành xử thực tế của chính quyền thường lệch lạc so với những tuyên bố hoa mỹ.  Nhà nước Việt Nam thường bào chữa cho việc áp dụng những nguyên tắc quốc tế theo cách riêng của mình nhằm hạn chế quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí. Tuy vẫn dẫn chiếu những điều khoản trong các công ước, hiệp ước và tài liệu quốc tế khác mà Việt Nam tham gia ký kết, nhưng họ luôn tìm cách giải thích theo ý riêng và tự đặt ra những quy định hạn chế và tước đoạt các quyền của người dân theo những điều ước quốc tế đó.

Quả thật, câu cuối của Điều 25 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 (ghi rằng “việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”) là minh chứng cho cách sử dụng những quy định luật pháp, dưới Hiến Pháp, để hạn chế và tước đoạt quyền tự do ngôn luận của công dân.

Tệ hại hơn, Bộ Luật Hình Sự Việt Nam, đặc biệt là các Điều 88 (quy định về “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam”), Điều 258 (quy định “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”), Điều 263 (quy định về “Tội cố ý làm lộ bí mật Nhà nước”) và Điều 264 (quy định về “Tội vô ý làm lộ bí mật Nhà nước”), từ nhiều năm nay được sử dụng làm công cụ pháp lý để chính quyền bắt giam những ai công khai thực thi quyền tự do ngôn luận của mình bằng cách đưa và bình luận các tin tức mà chính quyền không muốn công chúng biết.

Mặt khác, luật tiếp cận thông tin vẫn chưa có nên dự án luật đang được Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo và có thể được trình vào năm 2016.  Tuy nhiên, một văn kiện pháp quy là Nghị Định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 được Chính phủ ban hành năm vừa rồi đã bị chỉ trích kịch liệt bởi dư luận trong và ngoài nước, bởi đó là văn kiện pháp lý đầu tiên công khai ấn định những rào cản đối với quyền trao đổi và tiếp cận thông tin của mọi thành phần trong xã hội.

Kết luận

Bài xã luận mang tựa đề “Điều trần … một phía, làm sao khách quan?” đăng trên báo Quân đội Nhân dân Online số Chủ nhật, ngày 27/04/2014, có đoạn viết: “Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp tục khẳng định, mở rộng hơn quyền tự do báo chí. Xét cả về số lượng và chất lượng, Việt Nam đang có một nền báo chí phát triển và thực hiện tốt tự do báo chí.”

Quả thật, các bản Hiến pháp Việt Nam trải qua các thời kỳ đều ghi nhận quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí.  Tuy nhiên, điều đó chỉ có ý nghĩa nếu nhà cầm quyền thực tâm tôn trọng quyền hiến định này mà không cố tình tạo ra những giới hạn về phương diện pháp lý nhân danh “an ninh quốc gia” (mà kỳ thực là an ninh của đảng cầm quyền).

Số lượng tờ báo trên cả nước hoàn toàn không có giá trị gì khi tất cả đều chỉ đưa tìn theo định hướng của chính quyền.  Biện minh về tự do báo chí nếu chỉ dựa trên số lượng và chất lượng các tờ báo, thì đơn thuần là sự ngụy biện không hơn không kém.  Vấn đề chính của quyền tự do ngôn luận là người dân có được tự do “mở miệng” mà không bị bộ máy công an quấy nhiễu hay không mà thôi.

L.C.Đ.

Nguồn: http://www.chuacuuthe.com/2014/05/viet-nam-co-tu-do-bao-chi/

*************

Hội thảo Tự do Thông Tin: Gây ý thức và vượt lên sự sợ hãi để thực thi quyền của chính mình

Đức Thiện, VRNs

VRNs (02.5.2014) – Sài Gòn –  Lúc 15g00 ngày 1/5 vừa qua, tại lầu ba Trung tâm Mục vụ DCCT Sài Gòn đã diễn ra buổi hội thảo chuyên đề “Tự do thông tin ở Việt Nam dưới ánh sáng Giáo huấn Xã hội Công giáo”.

Hơn 100 người đã tham dự sự kiện trên, trong đó có đại diện của Hội Phụ nữ Nhân Quyền Bình Dương, ông Phạm Bá Hải, đại diện Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm Việt Nam, đại diện nhóm Con Đường Việt Nam, v.v.

Được biết, mục đích của buổi hội thảo nhằm “giúp anh chị em giáo dân và những ai quan tâm” nắm được tình hình tự do thông tin tại Việt Nam, trong thời điểm mà “thông tin đang trở nên nhu cầu quan trọng trong đời sống của mỗi người”.

Đây là một nỗ lực của Truyền thông dòng Chúa Cứu Thế trong việc phổ biến thông tin đến cộng đồng. Tiến sĩ Phạm Chí Dũng cũng nhận xét: ‘buổi hội thảo mang tính chất tư nhân’ này là một ‘dấu chỉ về tự do thông tin’ trong một thời gian dài ở Việt Nam.

Hai trong số ba ‘anh hùng thông tin’ góp mặt tại buổi hội thảo

Bên cạnh đó, buổi hội thảo, còn có sự hiện diện của hai trong số ba ‘Anh hùng Thông tin’ người Việt vừa được Tổ chức Phóng viên Không Biên giới vinh danh, là linh mục Antôn Lê Ngọc Thanh và Tiến sĩ Phạm Chí Dũng trong vai trò diễn giả.

Nội dung thuyết trình của buổi hội thảo ‘Tự do thông tin’ xoay quanh bốn đề tài với các diễn giả trực tiếp và gián tiếp (trình bày qua video hoặc gửi văn bản tham luận) như; linh mục Antôn Lê Ngọc Thanh, dòng Chúa Cứu Thế; Luật sư Lê Công Định; Tiến sĩ Phạm Chí Dũng và Giáo sư Phạm Minh Hoàng.

Luật sư Định và giáo sư Hoàng được dư luận biết đến là những nhân vật bất đồng chính kiến có tiếng ở Việt Nam. Hai ông đã từng bị cầm tù vì thực hiện quyền tự do ngôn luận. Tiến sĩ Dũng thì được biết đến trong vai trò một nhà báo tự do, một cây bút phản biện chuyên các vấn đề kinh tế-chính trị. Ông vừa công khai tuyên bố bỏ đảng Cộng sản hồi tháng 10 năm ngoái. Với linh mục Thanh, tổ chức Phóng viên Không Biên giới ghi nhận, ông là “nguồn cảm hứng” cho những ai khao khát tự do.

Ngoài bốn diễn giả trên, buổi hội thảo cũng lắng nghe phần chia sẻ của bà Judy Taning, phụ trách vùng Châu Á của tổ chức ARTICLE 19 (Tổ chức nhân quyền nhằm bảo vệ và thúc đẩy tự do ngôn luận và tự do thông tin trên toàn thế giới) và phần chia sẻ của ông Benjamin Ismail, Giám đốc phụ trách khu vực Châu Á – Thái Bình Dương của Tổ chức Phóng viên không biên giới (qua video clip và trực tiếp qua mạng xã hội).

clip_image003

Hơn 100 người đã tham dự buổi bội thảo chuyên đề “Tự do thông tin ở Việt Nam dưới ánh sáng Giáo huấn Xã hội Công giáo”

clip_image005

Cha Antôn Lê Ngọc Thanh, Phụ trách truyền thông Chúa Cứu Thế trình bày đề tài “Giáo lý Công giáo bàn về truyền thông xã hội”

clip_image007

Cha Giuse Trương Hoàng Vũ, DCCT đọc thay tham luận “Việt Nam có tự do báo chí không?” của Luật sư Lê Công Định, do Luật sư Định đang bị quản chế

clip_image009

Tiến sĩ Phạm Chí Dũng trình bày đề tài “Thực trạng và kiến nghị cho nền dự do báo chí Việt Nam”. Phần trình bày của Tiến sĩ Dũng được nhiều người yêu thích.

clip_image011

Các tham dự viên

Gây ý thức và vượt lên sự sợ hãi để thực thi quyền tự do thông tin

Sau phần thuyết trình, các tham dự viên được yêu cầu đóng góp ý kiến dựa trên câu hỏi ‘Làm thế nào để công dân Việt Nam thực hiện quyền tự do thông tin?’

Phần lớn các tham dự viên đều cho rằng, để công dân Việt Nam thực hiện được quyền tự do thông tin, trước tiên cần phải gây ý thức cho người dân về việc mình có quyền tự do thông tin, tức quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận và chia sẻ các ý tưởng và thông tin bằng bất kỳ phương tiện nào mà không có biên giới.

Kế đến, công dân Việt Nam cần phải vượt lên sự ‘sợ hãi’ để bảo vệ và đấu tranh cho quyền tự do thông tin của chính mình. Sau cùng các tham dự viên lưu ý và khuyến khích, Internet là một công cụ hỗ tuyệt để công dân Việt Nam có thể thực thi quyền tự do thông tin.

Buổi hội thảo kết thúc lúc 18g45. Trước đó, linh mục Vinhsơn Phạm Trung Thành, giám tỉnh dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam đã có đôi lời trước những người hiện diện. Ngài nhấn mạnh: người làm truyền thông phải đưa tin, phải ‘nói sự thật trong lòng mến’ Và sứ mạng truyền thông cũng là sứ mạng chữa lành, ‘chữa lành bằng sự thật là chình Chúa Kitô.’

clip_image013

Cha Vinhsơn Phạm Trung thành nhấn mạnh đến truyền thông sự thật và bác ái trong truyền thông khi chia sẻ với các tham dự viên

clip_image015

Ông Benjamin Ismail, Giám đốc phụ trách khu vực Châu Á – Thái Bình Dương của Tổ chức Phóng viên không biên giới chia sẻ trực tuyến qua mạng xã hội

clip_image017

Hơn 100 tham dự viên được chia thành 10 tổ để thảo luận câu hỏi: “Làm thế nào để mỗi công dân Việt Nam có thể thực thi quyền tự do thông tin của mình”

Quyền tự do thông tin gắn liền với quyền sống của con người

Cũng trong buổi hội thảo, đa số các tham dự viên đều bày tỏ ước muốn những sự kiện tương tự sẽ được tổ chức định kỳ hàng tháng.

Cô Nguyễn Thị Ngọc Lụa, đại diện Hội Phụ nữ Nhân Quyền cho biết: “Em hy vọng buổi hội thảo được diễn ra hàng tháng để cho các người trẻ như tụi em được học hỏi, được trau dồi kinh nghiệm, để mình làm cho đất nước Việt Nam ngày càng tiến bộ hơn”.

Cô nhận định thêm, việc tự do thông tin cho người dân “sẽ giúp họ hiểu biết nhiều hơn, sẽ giúp họ đứng lên để giúp đỡ cho đất nước, cho dân tộc Việt Nam”.

Một tham dự viên với nickname Jonathan Nguyễn cũng đề nghị nên tổ chức thường xuyên hơn những buổi hội thảo tương tự để “cho mọi người từ trẻ nhất đến già nhất có thể hiểu được xã hội Việt Nam ngày hôm nay như thế nào”.

Anh Nguyễn còn cho biết về tầm quan trọng của quyền tự do thông tin. Anh nói: “Quyền tự do thông tin nó đã gắn liền với trong Hiến pháp, trong tuyên ngôn nhân quyền của bất kể quốc gia nào. Quyền hiểu biết đã gắn liền với quyền sống của con người. Nếu không có sự tự do thông tin, tự do hiểu biết thì con người giống như thực vật, chỉ biết ăn ngủ và tứ khoái”.

“Việc bưng bít thông tin [giống như việc] người ta xỏ mũi một con lừa. Họ dắt mình đi dù cho con đường đó sai trái như thế nào. Mỗi một cá nhân gom lại sẽ thành xã hội. Khi mọi người bị bưng bít, bị che đậy {thông tin] thì trở nên một đàn lừa”.

Một blogger lớn tuổi khác cũng chia sẻ: “[nhờ buổi hội thảo] hôm nay, tầm nhìn của mình nó rộng hơn, hiểu biết hơn về vấn đề tự do thông tin ở Việt Nam… Việc bưng bít thông tin cũng giống như bị cầm tù. Thông tin được mở rộng thì có sự liên thông. Thế giới mạng, các trang mạng xã hội [đã biến] thế giới thành một ngôi nhà chung.” Bưng bít thông tin có thể làm cho thành viên của ‘ngôi nhà chung đó không biết nhau’.

Đ.T.

Nguồn: chuacuuthe.com

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn