Biển Đông – Cuộc tranh giành quyền lực ở châu Á (Kỳ 18)

Bill Hayton

Phan Văn Song dịch

Hoàng Việt hiệu đính

Chương 8

Định hình chiến trường:

Các vấn đề quân sự

(Shaping the Battlefield: Military Matters)

Trông giống như một cái hộp màu xám khổng lồ, tốc độ tối đa của nó chỉ là vài gút (nm/h) và giống như hầu hết các tàu dọ thám tốt nó che giấu phía sau tên một công việc tẻ nhạt. Là một tàu khảo sát đại dương, USNS Impeccable thường cố tránh bị thành tiêu điểm. Nó hoạt động một mình, xa xôi ngoài biển và ngay tại vùng rìa của luật pháp quốc tế. Mặc dù thuộc sở hữu của chính phủ Mỹ và do Bộ Quốc phòng kiểm soát, nó lại được điều hành bởi một công ty tư nhân, có cái tên quyến rũ hơn Special Mission Division (Ban Đặc Nhiệm) thuộc công ty vận chuyển khổng lồ Maersk. Công việc của Impeccable, và lý do để nó có dạng hình hộp, là kéo các sợi cáp đắt tiền qua dông bão. ‘Nhiệm vụ đặc biệt’ của nó là săn tàu ngầm của Trung Quốc với hệ thống bừa cảm biến thám thính (Surveillance Towed Array Sensor System SURTASS) dài 1500 mét mà nó kéo theo sau.

Ngày Thứ Năm 5 tháng 3 năm 2009, chiếc Impeccable đang bừa một luống đơn lẻ khoảng 140 km phía Đông Nam của căn cứ tàu ngầm Yulin [Du Lâm] ở đảo Hải Nam thì một tàu khu trục Trung Quốc bất ngờ chạy ngang qua mũi của nó. Hai giờ sau đó một máy bay trinh sát Trung Quốc đã lượn thấp bên trên 11 lần và tàu khu trục lại băng ngang mũi nó một lần nữa. Ngày Thứ Bảy ngày 7 tháng 3, một tàu hải quân khác của Trung Quốc, một loại Auxiliary General Intelligence (AGI, tên mỹ miều cho tàu do thám), ra lệnh cho tàu Impeccable rời khỏi khu vực nếu không sẽ phải chuốc lấy hậu quả. Tàu Impeccable không rời đi và ngày hôm sau hậu quả đã đến.

Chúng ta biết được một số trong những điều đã xảy ra vì Bộ Quốc phòng Mỹ đã công bố một video do một trong những thành viên trên tàu Impeccable, được đồng bạn gọi là ‘Bobby’, thu được. Chúng ta thấy một khung cảnh dưới bầu trời trong xanh và bên trên mặt biển phẳng lặng. Tàu Impeccable đã bị một đội tàu nhỏ loang lổ vây quanh. Hai tàu dân sự, dường như chán đánh cá chạy theo phía sau chiếc Impeccable. Nằm choáng chúng là một tàu Ngư Chính, một tàu Hải Giám và chiếc AGI ban đầu. Không chiếc nào trong hai tàu cá đang kéo lưới nhưng cả hai đều có treo các lá cờ Trung Quốc to ở mũi, thân và lái. Một chiếc, với thân móp méo nhưng mới được sơn đỏ, chạy đến gần húc nhiều lần vào cửa sổ của đài chỉ huy. Hai người đàn ông khác đứng ở mũi, một người vẩy cờ. Rồi chiếc tàu đánh cá thực hiện một chuyển động: phụt khói đen từ ống khói hình phễu khi nó băng thẳng qua phía đuôi tàu Impeccable, có vẻ để cố cắt đứt hệ thống SURTASS. Các thành viên tàu Impeccable đứng, sẵn sàng đẩy lùi các khách không mời, nhưng coi toàn bộ sự việc như là chút chuyện đùa. Bobby, người quay phim mô tả cảnh này: ‘Lou và Wilson đứng bảo vệ các ống trong khi bọn Trung Quốc chọc tức chúng tôi tới đổ nước mắt’.

Thất bại trong việc cắt cáp với sống tàu, một trong hai người đàn ông trên mũi chiếc tàu đánh cá đỏ dùng một sào dài thọc vào nước để cố dò và làm hỏng sợi cáp. Điều này thậm chí còn làm các thành viên trên Impeccable buồn cười hơn nữa vì SURTASS nặng những 155 tấn. ‘Hắn ta sẽ chẳng còn ở trên boong đâu nếu vớ trúng nó – hắn sẽ sục nước biển’, một người nói. Vào một lúc nào đó, mặc dù không cho thấy trên video, Lou và Wilson được lệnh phải bật vòi rồng của Impeccable để cố ngăn hai ‘ngư dân’ với sức nước. Hai người này không bị thuyết phục. Họ cởi chỉ còn đồ lót và tiếp tục dò với cây sào. Nhưng sau nhiều phút dò thử vô vọng, thuyền trưởng tàu đánh cá thay đổi chiến thuật. Với nhiều cụm khói đen lớn hơn phụt ra, chiếc tàu lảo đảo chạy lên mạn trái của tàu Impeccable và sau đó dừng lại ngay trước mặt. Chiếc tàu đánh cá màu xanh thực hiện giống như vậy ở bên mạn phải. Các tàu của chính phủ vẫn đang lảng vảng gần đó – giữ khoảng cách nhưng chắc hẳn đã sẵn sàng để bảo vệ các tàu đánh cá nếu chúng bị Impeccable ‘đe dọa’. Với tất cả mọi người đều đứng yên hai tàu đánh cá dần dần di chuyển thẳng hướng về phía nhau – chặn hoàn toàn đường tiến tới của Impeccable. Sau đó, tàu Ngư Chính sơn trắng tiến tới gần, ngay phía sau tàu đánh cá màu xanh. Không thể di chuyển tới trước và không thể quay xung quanh vì hệ thống SURTASS vẫn còn nối dài từ phía đuôi tàu, chỉ huy của Impeccable tham khảo ý kiến cấp trên.

Bên ngoài trên boong tàu, các thuyền viên vào lúc mới bắt đầu cuộc đối đầu đã đùa bỡn, bây giờ trở nên yên lặng. Trong vài giây cuối cùng của video, có thể nghe rõ ràng lời nói với một đồng nghiệp: ‘Chúng ta đã nhận lệnh hủy khẩn cấp’. Lầu Năm Góc không thể mạo hiểm để những cơ sở thu thập tình báo siêu tinh vi rơi vào tay Trung Quốc. Nếu xảy ra việc kẻ lạ leo lên tàu Impeccable thì một hoạt động dự kiến trước sẽ là phải phá hủy các tài liệu và trang thiết bị. Nhưng thủ tục này được giữ ở trạng thái chờ. Qua vô tuyến, thuyền trưởng Impeccable thông báo rằng ông sẽ rời đi và yêu cầu dành một lối an toàn ra khỏi khu vực. Các tàu Trung Quốc tuân thủ và Impeccable chầm chậm rút lui về phía chân trời.

Trong trách cứ công khai sau đó, mỗi bên chính phủ đều lớn tiếng cáo buộc bên kia đã vi phạm luật pháp quốc tế. Người phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Mã Triêu Húc (Ma Zhaoxu), khẳng định rằng ‘Hoa Kỳ đã tiến hành các hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc ở Biển Đông mà không có sự cho phép của Trung Quốc’ và yêu cầu Hoa Kỳ ‘phải có các biện pháp hiệu quả để ngăn chặn các hành vi tương tự xảy ra’. Tuy nhiên, người phát ngôn Nhà Trắng Robert Gibbs đã quả quyết: ‘Chúng tôi sẽ tiếp tục hoạt động ở những vùng biển quốc tế đó, và chúng tôi hi vọng Trung Quốc sẽ tuân thủ pháp luật quốc tế xung quanh đó’. Nhưng việc Gibbs sử dụng lỏng lẻo cụm từ ‘vùng biển quốc tế’ đã đi thẳng vào trọng tâm của vấn đề. Có thể có vẻ phức tạp nhưng cuộc tranh luận pháp lý về việc các tàu quân sự của một nước có thể làm điều gì ở vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) ngoài khơi một nước khác đã đưa Hoa Kỳ và Trung Quốc đến tận vùng biên của cuộc xung đột. Đó là một trận chiến giữa việc Mỹ đòi hỏi được đi vào các ‘vùng biển chung của toàn cầu’ (global common) và việc Trung Quốc tìm kiếm an ninh. Đó là một cuộc đấu tranh vốn sẽ xác định tương lai của Châu Á, và có thể rộng lớn hơn.

**********

Các quy định về EEZ được vạch ra trong Công ước về Luật Biển của Liên Hiệp Quốc (UNCLOS) thoả thuận vào năm 1982, như chúng ta đã thấy trong Chương 4. Trung Quốc là một trong 163 nước thành viên của Liên Hiệp Quốc đã phê chuẩn UNCLOS. Hoa Kỳ là một trong 30 nước chưa phê chuẩn (trong đó 16 nước không có biển). Thượng viện Hoa Kỳ sẽ không phê chuẩn thỏa thuận này bởi có khá nhiều thượng nghị sĩ tin rằng UNCLOS sẽ làm suy yếu chủ quyền của Mỹ – mặc dù các ngành có liên quan của chính phủ Mỹ lập luận rằng sẽ không như vậy. Việc chưa phê chuẩn rõ ràng làm thiệt hại uy tín của Washington khi họ thúc giục những nước khác phải hành động phù hợp với UNCLOS. Tuy nhiên, các chính phủ Mỹ kế tiếp nhau dù vậy vẫn cho rằng tất cả các nước đều bị ràng buộc bởi công ước này vì bây giờ nó tạo thành một phần của ‘luật tập tục quốc tế’ [customary international law]. Về phần mình, Hải quân Mỹ cho biết rằng họ luôn luôn hoạt động theo UNCLOS, bất chấp việc chưa phê chuẩn.

Trong số hàng trăm điều trong UNCLOS là một số điều quy định những việc có thể và không thể thực hiện trong vùng đặc quyền kinh tế của nước khác. Đặc biệt, nhà chức trách Trung Quốc đã dựa trên trên ba điều để lập luận rằng công việc của tàu USNS Impeccable là bất hợp pháp: Điều 56 – cho quốc gia ven biển thẩm quyền đối với việc nghiên cứu khoa học biển trong EEZ; Điều 58 – buộc các nước khác ‘phải quan tâm thích đáng các quyền và nghĩa vụ của các nước ven biển và ... tuân thủ pháp luật và các quy định của các nước ven biển’; và Điều 246 – nói rằng ‘nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được tiến hành với sự đồng ý của quốc gia ven biển’. Vì Hoa Kỳ không hề yêu cầu cũng không được cấp phép cho các hoạt động nghiên cứu của mình nên theo Bắc Kinh, Hoa Kỳ phải là bất hợp pháp.

Tuy nhiên, theo Washington tất cả điều này là hoàn toàn không liên quan. Tàu Impeccable và các tàu anh em của nó không tham gia vào nghiên cứu khoa học biển – chúng chỉ đơn giản là dọ thám. Nếu như Impeccable tham gia vào nghiên cứu hòa bình – chẳng hạn như thăm dò dầu – thì các hoạt động của nó sẽ là bất hợp pháp theo UNCLOS. Nhưng vì công việc của nó không dính tới tính thương mại hay khoa học nên tàu Impeccable có thể sử dụng các quyền đã được thiết lập của bất kỳ tàu nào đi qua biển bên ngoài giới hạn lãnh hải 12 hải lý. Và vì, theo UNCLOS, các quốc gia không có chủ quyền ngoài lãnh hải 12 hải lý nên tất cả các luật mà Trung Quốc đã thông qua trong cố gắng để điều chỉnh những việc có thể thực hiện được trong EEZ 200 hải lý của họ, theo quan điểm của Washington, chính các luật đó mới là bất hợp pháp.

UNCLOS là kết quả của chín năm tranh luận pháp lý giữa một bên là các quốc gia ven biển muốn kiểm soát tất cả mọi thứ xảy ra ngoài khơi bờ biển của họ và một bên là các quốc gia biển muốn tự do đi lại. Người chủ trì các cuộc tranh luận cuối cùng, Tommy Koh của Singapore, sau đó có tổng kết những thỏa hiệp: ‘Các giải pháp trong các văn bản Công ước rất phức tạp. Không có chỗ nào nó nêu rõ liệu một nước thứ ba có thể hoặc không thể tiến hành các hoạt động quân sự trong vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia ven biển. Nhưng, chính cách hiểu chung rằng các câu chữ chúng tôi đàm phán và thỏa thuận với nhau sẽ cho phép các hoạt động như vậy được thực hiện’.[1] Nhưng một số quốc gia không đồng ý với cách hiểu chung đó và đang tích cực tìm cách thay đổi nó. Trung Quốc là nổi bật nhất nhưng Brazil, Ấn Độ, Malaysia, Maldives, Việt Nam và một vài nước khác đều đòi hỏi rằng tàu chiến nước ngoài phải xin phép trước khi chạy qua EEZ của họ. Vấn đề – đối với Trung Quốc và thế giới – là việc thay đổi bản chất của EEZ theo cách này sẽ làm thay đổi một cách cơ bản các quy tắc của hệ thống toàn cầu. Nó cũng sẽ tạo thành một thách thức toàn diện đối với vị trí đứng đầu về quân sự của Hoa Kỳ qua việc cắt mất lối đi lại trực tiếp của họ giữa Thái Bình Dương và Trung Đông.

Di chuyển tàu chiến và lực lượng giữa Tây Hoa Kỳ và Châu Á đòi hỏi việc tự do đi lại trên Thái Bình Dương, Biển Đông, eo biển Malacca và Ấn Độ Dương. Đi xuyên qua vùng nội thuỷ của Indonesia, hay giữa Indonesia và Australia, là thách thức về mặt hàng hải và về mặt chính trị, còn hướng về phía Nam, đi vòng quanh nước Úc, thì phải cộng thêm nhiều tuần vào cho chuyến đi đến vịnh Ba Tư, và đối với một hạm đội lớn, phải tốn thêm hàng chục triệu đô la chi phí cho nhiên liệu tốn thêm. Nếu các EEZ là đóng với tàu quân sự thì Mỹ sẽ mất quyền hải hành tới các căn cứ của họ và các đồng minh quanh Châu Á. Với Hải quân Mỹ nằm yên trong trong bãi, vị thế phòng thủ của Đài Loan sẽ bị suy yếu nghiêm trọng. Các nước Đông Á và Đông Nam Á khác có thể cũng cảm thấy bị thiệt hại tương tự. Ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực Đông Nam Á có thể cạn đi. Thậm chí đáng lo ngại hơn, theo cái nhìn của Lầu Năm Góc, nếu không đảm bảo tiếp cận quân sự thì cũng không đảm bảo tiếp cận dân sự. Một sức mạnh thù địch có thể cắt đứt dòng chảy hàng hóa, đồ tiêu dùng và năng lượng mà nền kinh tế Mỹ phụ thuộc vào đó. Chính vì vậy, từ năm 1979, Hoa Kỳ đã theo đuổi Chương trình Tự do Hàng hải [Freedom of Navigation hay FON] ít được biết đến chủ động thách thức bất kỳ nỗ lực tìm cách đóng các EEZ.[2] FON kết hợp ngoại giao và vũ lực. Đôi khi Bộ Ngoại giao chỉ gửi thư phản đối. Tuy nhiên, lúc này lúc khác, Hải quân Mỹ chỉ đơn giản xuất hiện trong EEZ của nước khác để cho thấy rằng họ có thể làm điều đó. Đó là kiểu ngoại giao pháo hạm hiện đại, và Washington sẽ nói rằng mọi nước đều có lợi từ việc họ ra sức đảm bảo cho các vùng biển đều để mở cho thương mại và an ninh toàn cầu.

Washington cũng không kém phần mạnh mẽ trong việc gạt bỏ tính hiệu lực của Điều 301 UNCLOS. Điều này nói rằng: ‘các quốc gia thành viên phải tránh bất kỳ việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào’. Mỹ lập luận rằng việc chỉ đơn thuần thu thập thông tin không dẫn tới một mối đe dọa vũ lực. Trung Quốc, trái lại, rất kiên quyết. Họ tin rằng các dữ liệu được thu thập là để chuẩn bị cho một cuộc xung đột có thể xảy ra trong tương lai và rằng hoạt động quân sự của Mỹ gần bờ biển của họ tới mức 12 hải lý là một mối đe dọa sống còn.

Từ Đảo Hải Nam nhìn ra, nan đề của Trung Quốc có vẻ rất gay go. Từ khi Đặng Tiểu Bình ra lệnh thành lập đặc khu kinh tế đầu tiên của đất nước mình ở Thẩm Quyến vào năm 1980, sự thịnh vượng quốc gia đã phụ thuộc vào vòng cung các thành phố ven biển, và các chuyển động xuất và nhập khẩu làm chúng được duy trì. Trung Quốc là một nước thuần nhập khẩu lương thực từ năm 2007 và tháng 9 năm 2013 Trung Quốc đã vượt Mỹ để trở thành nước thuần nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới ngay vào lúc sự bùng nổ kỹ thuật khai thác dầu từ đá phiến [shale-fracking] đã bắt đầu chuyển Mỹ theo hướng tự túc năng lượng.[3] Giao thương với nước ngoài chiếm đến hơn một nửa giá trị GDP của Trung Quốc (so với ít hơn một phần ba ở Hoa Kỳ) nhưng nước này không có cách truy cập rõ ràng tới vùng biển mở. Các lực địa vật lý đã đẩy các đảo trồi lên xung quanh bờ biển của họ và các lực địa chính trị đã biến tất cả chúng thành các nước láng giềng thù địch tiềm tàng. Theo quan điểm của Wu Shicun [Ngô Sĩ Tồn], viện trưởng Viện Nghiên cứu Biển Đông của Trung Quốc, lý do số một cho lập trường của Trung Quốc đối với Biển Đông là thông qua nó đảm bảo việc tiếp cận chiến lược tới các đại dương trên thế giới. Và một quốc gia nghiêm túc về việc giữ vững việc tiếp cận đó – và lo sợ về những ý định của Hoa Kỳ – nhất thiết phải phát triển các khả năng để bảo vệ nó. Logic này hướng tới xung đột ở Biển Đông.

Tháng 4 năm 2013, Bộ Quốc phòng ở Bắc Kinh đã phát hành một Sách Trắng làm rõ các mục tiêu của họ. Sách này nêu ‘Với việc nền kinh tế Trung Quốc hội nhập dần dần của vào hệ thống kinh tế thế giới, lợi ích ở nước ngoài đã trở thành một phần không thể thiếu trong các lợi ích quốc gia của Trung Quốc. Vấn đề an ninh đang ngày càng nổi bật liên quan đến năng lượng và các nguồn tài nguyên ở nước ngoài, các tuyến đường giao thông biển chiến lược (SLOC), và các công dân và pháp nhân Trung Quốc ở nước ngoài. Bảo vệ tàu trên biển, di tản công dân Trung Quốc ở nước ngoài, và cứu hộ khẩn cấp đã trở thành cách thức và phương pháp quan trọng để PLA bảo vệ lợi ích quốc gia và thực hiện các nghĩa vụ quốc tế của Trung Quốc.’[4] Mâu thuẫn sẽ định hình tương lai của châu Á là: Nếu Trung Quốc chọn việc bảo vệ các thành phố ven biển và các tuyến đường cung cấp dài thông qua phương tiện quân sự thì chắc chắn họ sẽ phát triển khả năng để đối đầu với thế lực hải quân đứng đầu hiện nay. Nhưng Mỹ – thế lực hải quân đang đứng đầu – lo ngại rằng chính sách này không phải được thúc đẩy bởi việc tự vệ mà bởi một quyết tâm để đạt được quyền đứng đầu trong khu vực và do đó sẽ phản đối nó. Đối với Mỹ, ‘quyền tiếp cận’ củng cố tất cả mọi thứ. Chính vì vậy rất nhiều nỗ lực – và tiền bạc – đang được bỏ ra ở các nhóm chuyên gia tư vấn của Washington và các bộ chỉ huy quân đội để đảm bảo cho Mỹ tiếp tục ‘truy cập’ vào mọi phần của đại dương – nhưng đặc biệt là Biển Đông.

**********

Tháng 1 năm 2012, Bộ Quốc phòng Mỹ phát hành tài liệu ‘Joint Operational Access Concept’ [Khái niệm truy cập tác chiến hỗn hợp] vạch ra những nhiệm vụ với từ ngữ thẳng thừng: ‘Là một cường quốc toàn cầu với lợi ích toàn cầu, Hoa Kỳ phải duy trì khả năng đáng tin cậy trong việc triển khai lực lượng quân sự vào bất kỳ khu vực nào của thế giới để bảo vệ những lợi ích của mình’.[5] Khái niệm ‘truy cập tác chiến hỗn hợp’ nằm ngay ở giữa hệ thống tầng bậc các tài liệu chiến lược. Bên dưới nó là các kế hoạch chi tiết hơn vạch ra ‘tiếp cận’ thế nào sẽ thắng lợi, quan trọng nhất trong số đó là ‘Khái niệm Hải Không chiến’ [Air-Sea Battle Concept]. ‘Khái niệm Hải Không chiến’ thật ra đã được vạch ra trước những thứ khác: chiến lược đương đại của Mỹ đối với Trung Quốc đã được viết ít nhiều xung quanh nó.

Nguồn gốc của Khái niệm Hải Không chiến có thể được truy từ cuộc ‘khủng hoảng Đài Loan’ tháng 3 năm 1996 khi mà Tổng thống Bill Clinton triển khai hai nhóm tàu sân bay Mỹ đã buộc quân đội Trung Quốc ngưng lại một loạt các cuộc tập trận đe doạ được dàn dựng trong thời gian sắp tới cuộc tổng tuyển cử của Đài Loan. Triển khai đó đã châm ngòi cho Hải quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLAN) bắt đầu phát triển các phương tiện để ngăn chặn việc đó xảy đến lần nữa. Trong những năm sau năm 1996 chi tiêu quân sự Trung Quốc dịch chuyển đáng kể vào hải quân, không quân và các đơn vị tên lửa và một cụm từ mới, shashoujian [杀手锏: sát thủ giản (chuỳ giết người) đã bắt đầu đi vào các tài liệu quân sự. Shashoujian mô tả một chiến lược sử dụng vũ khí tương đối rẻ đến bất ngờ và có thể vô hiệu hóa một vũ khi tinh vi hơn nhiều của đối phương.[6] Khi khả năng của PLAN tăng lên, nó được giao một nhiệm vụ mới. Năm 2001, Chủ tịch Giang Trạch Dân đã kêu gọi hải quân tăng cường khả năng ‘bảo vệ các vùng biển xa’ và thông điệp này đã được người kế nhiệm Hồ Cẩm Đào tăng cường năm sau đó.[7] Sau đó, vào tháng 1 năm 2007, quân đội Trung Quốc đã thử nghiệm thành công một loại tên lửa có thể phá hủy một vệ tinh bay vòng trên quỹ đạo. Sát thủ giản có vẻ trở nên sắc bén hơn. Các tác động đối với quân đội Mỹ, với thông tin liên lạc vệ tinh và vũ khí điều khiển từ xa, rất rõ ràng.

Nói đơn giản, sát thủ giản là khả năng ngăn ngừa các căn cứ không quân Mỹ và tàu sân bay ở Tây Thái Bình Dương và Biển Đông tung ra máy bay và tên lửa nhắm vào các mục tiêu của Trung Quốc. Lý do chính cho nó, theo các nhà phân tích phương Tây, sẽ là để ngăn chặn hoặc làm chậm lại sự can thiệp của Hoa Kỳ trong tương lai trong việc yểm trợ cho Đài Loan. Nếu một chính phủ Đài Loan trong tương lai thực hiện bất kỳ động thái nào hướng tới độc lập thì dự kiến Hải quân Trung Quốc sẽ thực hiện một loại phong tỏa nào đó hay xâm lược và ngăn Hải quân Mỹ lại. Sát thủ giản không nhất thiết phải được sử dụng; nó sẽ chỉ phải tạo đủ sự thiếu chắc chắn trong đầu của các đô đốc Mỹ để ngăn họ triển khai các khí tài mạnh nhất của mình. Quân đội Mỹ có một cái tên rất tầm thường cho các chiến thuật này: ‘Anti-Access’ [chống truy cập] hoặc ‘A2’. Khi một phương pháp tương tự được sử dụng gần với các khu vực mục tiêu của nó hơn thì được gọi là ‘Area Denial’ [từ chối khu vực] và cả hai kết hợp lại có tên là ‘A2 / AD.’ Chiến thuật A2 / AD của Trung Quốc có thể sử dụng mìn hay tàu ngầm trang bị ngư lôi và tên lửa hành trình hoặc các cuộc tấn công không gian mạng nhưng hầu hết sự chú ý đều được tập trung vào một loại vũ khí mới – tên lửa đạn đạo chống tàu Dong Feng-21D [Đông Phong 21D]. Với tầm bay xa hơn 1 500 km và có khả năng cơ động khi nó lao xuống, DongFeng-21D, ít ra về mặt lý thuyết, có thể đánh các tàu lớn từ các căn cứ trên đất liền.

Giữa năm 2007 thông tin về việc phát triển tên lửa mới bắt đầu tới tai công chúng và tháng 10 năm 2008 Không quân Thái Bình Dương của Mỹ đã chơi trò chơi chiến tranh về phản ứng của họ: ‘khái niệm tác chiến với các mối đe dọa quy ước tầm xa đối với tàu trên mặt nướcvà các căn cứ trên bờ’ là cách mà Trung tá Edward Thomas, người phát ngôn của Không Quân Mỹ ở Thái Bình Dương, mô tả.[8] Hai bài tập mô phỏng trên máy tính để bàn, có tựa đề ‘Pacific Vision’ 1 và 2, được thử nghiệm để xem Mỹ sẽ phản ứng như thế nào với một thách thức từ một ‘đối thủ cạnh tranh gần-ngang tầm’ giấu tên ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương vào năm 2028. Đến cuối của bài tập, phản ứng này được cho cái tên: Air-Sea Battle [Hải không chiến].

Pacific Vision được tài trợ một phần bởi nhóm nghiên cứu nội bộ của Lầu Năm Góc, Phòng đánh giá ròng [Office of Net Assessments]. Kể từ khi thành lập vào năm 1973, công việc phòng này là phải nghĩ ra các tình huống tồi tệ nhất đối với Hoa Kỳ và sau đó nghĩ cách để tránh chúng. Phòng này cho tới giờ chỉ có một giám đốc: Andrew Marshall, 92 tuổi tại thời điểm viết sách. Marshall sống trong một thế giới rất bí mật của những nguy hiểm tiềm tàng đối với an ninh nước Mỹ: một số thì rõ ràng và ở hiện tại, một số khác thì xa xôi và giả định. Không giống như hầu hết các nhà viết tiểu thuyết kinh dị ông có kinh phí hơn $13 triệu một năm để khuếch đại nỗi sợ của mình trong cộng đồng an ninh Washington.[9] Marshall thường được các nhà hoạch định chính sách cũng như chuyên gia mô tả như là có ảnh hưởng lớn. Những lời tuyên bố kiểu triết gia của ông đã khiến những người khác gọi ông là Jedi Master [tước hiệu cao nhất dành cho những người cống hiến và tài năng đặc biệt xuất sắc, trong phim Chiến tranh giữa các vì saoBVN].

Một trong những nhân viên hoàn chỉnh các bài tập này là Jan van Tol, cựu thuyền trưởng Hải quân Mỹ, người đã dành nhiều năm làm việc trong Office of Net Assessments trước khi chuyển sang nhóm chuyên gia tư vấn ưa thích của mình, Trung tâm đánh giá chiến lược và ngân sách. Ông nói rằng các bài tập minh họa một cách kịch tính cách công nghệ mới của Trung Quốc có thể làm thay đổi tận gốc rễ cán cân quyền lực ở Đông Nam Á: ‘Điều quan trọng về Pacific Vision là nó chỉ ra rằng nếu Trung Quốc chuyển sang tên lửa đạn đạo có tầm càng ngày càng xa hơn thì các các căn cứ cố định ở Tây Thái Bình Dương sẽ trở nên rất dễ thành mục tiêu. Và nền tảng đó là cơ sở cho tất cả các chiến lược của chúng ta về cách chúng ta sẽ chiến đấu trong một cuộc chiến. Đó là cú sốc thực sự hút sự chú ý ở cấp khá cao’.[10]

Trong những tuần sau Pacific Vision, kết quả đã được chuyển lên theo tầng bậc chỉ huy quân đội cho tới Tham Mưu Trưởng Không Quân, Tướng Norton Schwartz, và Chỉ Huy Trưởng Hải Quân, Đô đốc Gary Roughead. Cũng trong khoảng thời gian đó nhóm chuyên gia tư vấn chuyển giao khuyến nghị của mình tới các nhà hoạch định chính sách ở Washington. Và gần như đúng ngay thời điểm mà nhà chức trách về biển của Trung Quốc đã chọn để chặn tàu USNS Impeccable và cung cấp – như thể có tính trước – một ví dụ điển hình về mối đe dọa đối với tự do hàng hải ở Biển Đông. Với tất cả các nhà tư tưởng quốc phòng của Washington bây giờ đều cảnh giác về vấn đề này, Phòng Đánh giá thuần và Trung tâm Đánh giá Chiến lược và Ngân sách dễ dàng đạt được điều mình muốn. Vào lúc khái niệm Hải Không Chiến tới Lầu Năm Góc, đã có một cơn sóng thần hậu thuẫn phía sau nó. Tháng 7 năm 2009, Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates chỉ đạo hải quân và không quân phải tìm biện pháp giải quyết thách thức đó và tháng 9 Tướng Schwarz cùng Đô đốc Roughead đã ký một bản ghi nhớ vẫn còn bí mật về phát triển Hải Không Chiến thành một khái niệm tác chiến.

Các cuộc thảo luận tiếp tục đến tháng 12 năm 2010 khi Bryan Clark, một sĩ quan tàu ngầm hạt nhân về hưu chuyển thành Trợ lý đặc biệt của Chỉ Huy Trưởng Tác chiến Hải quân, được lệnh tổng hợp các ý tưởng thành một tài liệu thống nhất. ‘Khái niệm này nhằm hướng dẫn các hoạt động phát triển của lực lượng đang phục vụ’, ông nói. ‘Những gì chúng tôi mua, những gì chúng tôi huấn luyện để làm, học thuyết mà chúng tôi sử dụng, tất cả những điều mà cơ quan này làm là chuẩn bị sức mạnh để giao lại cho các chỉ huy chiến đấu vào một ngày nào đó trong tương lai’. Theo Clark, khái niệm mà ông là tác giả đã được thông báo trực tiếp qua công trình của Trung tâm Đánh giá Chiến lược và Ngân sách (CSBA): ‘Công việc mà Jan và tất cả mọi người ở CSBA làm là rất hữu ích và tôi đã đưa một phần lớn vào một khái niệm còn bí mật của DoD [Department of Defense: Bộ Quốc phòng]’. Tài liệu 44 trang của Clark được hoàn thành vào tháng 2 năm 2011 và được Trưởng cơ quan phê duyệt vào tháng 4. Theo lời của Clark, đến mùa thu năm đó Bộ Quốc phòng đã bắt đầu ‘áp dụng có chủ ý khái niệm này vào các đầu tư của chúng tôi… sử dụng nó để hướng dẫn việc phát triển ngân sách, phát triển bài tập, việc đào tạo mà họ làm và học thuyết của họ’.

Tuy nhiên, bên ngoài Lầu Năm Góc khái niệm về Hải Không Chiến đã gây rất nhiều tranh cãi. Cách giải thích công khai duy nhất của nó đã được CSBA đưa ra hồi tháng 5 năm 2010. Mặc dù các giải thích từ đầu khẳng định rằng Hoa Kỳ không tìm cách đối đầu hay kiềm chế Trung Quốc, toàn bộ tài liệu là một cảnh báo thẳng thừng về mối đe dọa do ‘sát thủ giản’ của Trung Quốc đặt ra. Tài liệu nêu ‘Hoa Kỳ sẽ thấy chính mình thực tế bị khóa kín đối với một khu vực được tuyên bố là lợi ích an ninh sống còn của mọi chính quyền [Mỹ] trong sáu mươi năm qua’. Chương 3 của tài liệu mô tả cách mà Mỹ có thể chống lại. Nó đòi hỏi các cuộc tấn công ‘động và không-động’ [kinetic and no-kinetic] (nói cách khác là vừa nổ vừa điện tử) vào các trung tâm chỉ huy nội địa, hệ thống radar và các cơ sở thu thập thông tin tình báo, đánh vào việc sản xuất tên lửa và các kho tàng trữ và các hoạt động ‘mù’ chống vệ tinh của Trung Quốc. Nó cũng nói rằng ‘các dòng chảy thương mại đường biển [của Trung Quốc] sẽ bị cắt đứt, với mục tiêu hướng tới việc gây căng thẳng lớn lên nền kinh tế Trung Quốc và, cuối cùng, làm căng thẳng nội bộ’. Tài liệu có ý định kích thích việc thảo luận. Nó đã thành công vượt xa sự mong đợi của tác giả, gây phẫn nộ thẳng một mạch tới Bắc Kinh.

Phải cho đến tháng 5 năm 2013 chính phủ Mỹ mới phát hành một bản tóm tắt không bí mật về Hải Không Chiến và chỉ còn 16 trong bản gốc 44 trang của Clark sống sót qua kiểm duyệt. Bản chất của Hải Không Chiến đã được cho một từ viết tắt vô duyên: NIA/D3 – lực lượng tích hợp, được tổ chức hệ thống có khả năng tấn công theo chiều sâu để gây rối, hủy diệt và đánh bại các lực lượng thù địch [networked, integrated forces capable of attack-in-depth to disrupt, destroy and defeat adversary forces]. Đó là phần sâu sa, nguyên nhân chính gây quan ngại. Từ ‘Trung Quốc’ không xuất hiện nhưng lại có trong những khía cạnh quan trọng khác trong bài viết của van Tol: để khắc phục những đe dọa của A2 / AD – chiến thuật ‘Chống truy cập’ và ‘Từ chối khu vực’ của ‘sát thủ giản’ hay tên lửa đạn đạo chống tàu của Trung Quốc – Mỹ sẽ phải tấn công các hệ thống chỉ huy và điều khiển nằm cách xa chiến trường. Như Clark giải thích, ‘ta phải đi vào và làm phẫu thuật để lấy ra các yếu tố cụ thể của hệ thống A2./ AD.’ Nhưng ông thích khẳng định rằng ‘tấn công’ không nhất thiết có nghĩa là chết chóc và hủy diệt: ‘nó cũng có thể là một cuộc tấn công không-động trong đó tôi vặn tắt một số phần của thiết bị hoặc từ chối cho nó khả năng nhìn thấy tôi hay làm cho việc thông tin liên lạc của nó không hoạt động, đó là tất cả một tấn công khá sâu.’

Ông cũng khẳng định rằng nó không nhằm vào Trung Quốc. Trong trong tuần làm việc cuối tại Lầu Năm góc, Clark thảo luận Hải Không Chiến với Đô đốc Wu Shengli [Ngô Thắng Lợi], người đứng đầu của Hải quân Trung Quốc, đang thăm Washington DC. ‘Chúng tôi đã giải thích rằng đó là về một tình huống kiểu Iran ... hay Syria nhiều hơn. Đó không chỉ là về Trung Quốc; chúng ta đã thấy các khả năng này đang triển khai ở đó như thế nào. Nhiều quốc gia khác muốn thế giới ngưng can thiệp vào những điều xấu họ làm’. Nhưng thông điệp rơi vào các tai điếc. Mọi thứ mà giàn lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc nghe về Hải Không Chiến đã xác nhận về nỗi sợ hãi tồi tệ nhất của họ và những thành kiến xấu xa nhất về ý định của Mỹ.

Vấn đề đối với khu vực này là cả hai cường quốc đều lấy sợ hãi và định kiến làm cơ sở cho các quyết định quan trọng. Không bên nào tin tưởng bên nào. Các nhà tiên tri tại Phòng Đánh giá ròng và nhóm chuyên gia tư vấn được ưa chuộng của nó đã làm những gì họ được trả lương để làm và tưởng tượng ra các mối đe dọa trong tương lai đối với vị trí đứng đầu toàn cầu của Hoa Kỳ. Dù đe dọa đó có khả năng xảy ra hay không, điều đó không thực sự quan trọng với họ; điểm quan trọng là nó có thể xảy ra. Jan van Tol đã nêu trong bài viết tháng 5 năm 2010 ‘Đối với những người lập luận rằng một cuộc xung đột Trung - Mỹ là “không thể tưởng tượng được”, cần phải nhấn mạnh một lần nữa rằng mục đích của “suy nghĩ về điều không nghĩ được” là qua cách làm như vậy, có thể tìm ra nhiều phương cách để duy trì và tăng cường sự cân bằng quân sự ổn định ở Tây Thái Bình Dương, do đó giữ xung đột ở miền của cái “không thể tưởng tượng được”’. Nói cách khác, sự thống trị quân sự của Hoa Kỳ ở Biển Đông và các vùng lân cận phải vẫn giữ áp đảo tới mức không có nước nào khác dám thách thức nó. Và nói đơn giản như thế này, một khi có một đe dọa có thể có đối với vị trí đứng đầu của Mỹ được đưa ra, cách phản ứng duy nhất chấp nhận được về mặt chính trị là cho phép thực hiện các chiến lược và các hệ thống vũ khí mới để đánh bại nó.

**********

‘Mối đe dọa Trung Quốc’ đối với việc Mỹ truy cập Biển Đông và xa hơn nữa có thật đến mức nào? Các con số trần trụi có vẻ rất ấn tượng. Trung Quốc hiện có hạm đội hải quân lớn thứ hai thế giới và ngân sách quân sự cũng lớn thứ hai. (Mỹ tất nhiên, đứng ở vị trí đầu bảng). Viện Nghiên cứu và Hòa bình Quốc tế Stockholm ước tính chi tiêu quốc phòng năm 2012 của Trung Quốc ở mức 166 tỷ đô la – tăng 12 % so với năm trước.[11] Chương trình hiện đại hóa hải quân do Đô đốc Liu Huaqing [Lưu Hoa Thanh] khởi xướng (xem Chương 3), bắt đầu với việc nhập khẩu tàu ngầm và tàu khu trục do Nga chế tạo vào đầu những năm 1990, hiện tại Trung Quốc đang ở giai đoạn mà họ có thể tự thiết kế và làm ra các tàu chiến và các hệ thống vũ khí cho chính mình. Đến năm 2014, theo báo cáo về quân đội Trung Quốc mà Lầu Năm Góc phải cung cấp cho Quốc hội mỗi năm, Hải quân Trung Quốc sở hữu ‘77 tàu chiến chính trên mặt nước, hơn 60 tàu ngầm, 55 tàu đổ bộ vừa và lớn, và khoảng 85 tên lửa trang bị đầu đạn nhỏ’, và từ tháng 9 năm 2012, có tàu sân bay đầu tiên, tàu Liêu Ninh.[12]

Con số tàu đó thậm chí còn có vẻ ấn tượng hơn khi so sánh với Hải quân Mỹ. Hải quân Mĩ có khoảng 96 tàu chiến lớn, 72 tàu ngầm, 30 tàu đổ bộ lớn, 26 tàu chiến nhỏ và 10 tàu sân bay.[13] Và không giống như tàu của Hải quân Trung Quốc vốn chỉ tập trung ở một khu vực, tàu hải quân Mỹ trải rộng trên toàn cầu. Nhưng những con số trơ trụi đó hầu như không nói lên điều gì về sức mạnh tương đối của mỗi bên. Gary Li là một trong những nhà quan sát độc lập biết nhiều thông tin nhất về Hải quân Trung Quốc. Trước đây vốn là chuyên gia phân tích cho Viện Quốc tế Nghiên cứu Chiến lược ở London, hiện đang làm việc cho phòng thông tin về vận chuyển trên biển thuộc IHS Maritime ở Bắc Kinh, ông theo dõi chặt chẽ khả năng của các tàu đang làm nhiệm vụ của hải quân Trung Quốc và ông không cảm thấy có ấn tượng. ‘Tàu Trung Quốc đi sau tàu Mỹ khoảng hai hoặc ba thế hệ. Tàu khu trục Mỹ lớp Arleigh Burke có thể tự cáng đáng một lực lượng hải quân nhỏ của chính nó. Vâng, người Trung Quốc đang đóng tàu như điên, nhưng họ khó đạt tới trình độ của Mỹ hồi năm 1990. Hải quân của họ có lẽ 20 năm nữa mới đạt tới tình trạng [hiện nay] của Mỹ và người Mỹ vẫn đang nhích về phía trước – ngay cả với tất cả các cắt giảm ngân sách.’[14]

Ngay cả chiếc tàu sân bay gây nhiều bàn luận, Liêu Ninh, chẳng có máy phóng để máy bay cất cánh mà sử dụng đường trượt để thay vào. Điều này có nghĩa là máy bay phản lực J–15 trên tàu chỉ có thể mang tên lửa nhẹ hơn, tầm ngắn hơn và không có ống chứa thiết bị điện tử chống radar khi cất cánh mang đầy nhiên liệu.[15] Một bài báo phê phán hiếm hoi trên báo chí Trung Quốc trong năm 2013 đã cảnh báo rằng tàu này và các máy bay của nó sẽ dễ bị tấn công thậm chí bởi quân đội Việt Nam. Như Gary Li nêu ‘Mỗi một thứ mới mà hải quân thêm vào làm cho nó có vẻ gần với một lực lượng hải quân hiện đại hơn một chút. Nhưng điều đó không có nghĩa là nó là hải quân hiện đại.’ Nhiều vấn đề cơ bản tiếp tục cản trở hạm đội. Một bài báo tháng 12 năm 2013 bằng tiếng Trung trên tờ Quân đội Giải phóng Nhân dân hàng ngày nhận xét rằng, ‘trong một cuộc tập trận gần đây, các thủy thủ trên bốn tàu tham gia đã có thể nghe thấy nhau nhưng không thể truyền dữ liệu chiến đấu vì các hệ thống thông tin của họ không tương thích nhau.’[16] Đội tàu cũng thiếu các tàu hậu cần tẻ nhạt nhưng thiết yếu trong việc giữ cho lực lượng hải quân hoạt động, và điều này ngăn trở tàu sân bay và các tàu khác hoạt động cách xa cảng.

Có nhiều vấn đề hơn nữa khi nói đến thực tế sử dụng trang thiết bị đó. Hầu hết các nhân viên quân sự đến đều kém học thức: cấp nhỏ chủ yếu là từ các gia đình nông dân và ít người được học lên sau tuổi 14; không tới một phần ba sĩ quan này có bằng đại học.[17] Việc tuyển quân vẫn còn theo hình thức nghĩa vụ quân sự và lính nghĩa vụ chỉ phục vụ hai năm, khiến họ ít có cơ hội để học những kỹ năng cao cấp. Tháng 5 năm 2013 Tham Mưu Trưởng PLA Fang Fenghui [Phương Phong Huy] nói với cử toạ tại Trường Huấn luyện Chỉ huy quân đội Nam Kinh rằng điều cần thiết đối với các học viện quân sự là ‘trau dồi tài năng phù hợp với thực tế chiến đấu, chiến trường và các yêu cầu chiến đấu,’ điều đó hàm ý rằng cho đến thời điểm đó họ chưa làm được như vậy.[18] Hải quân PLA thiếu kinh nghiệm trong mọi lĩnh vực của chiến tranh hiện đại. ‘Trận hải chiến lớn cuối cùng họ có được là ở quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974’, Li lưu ý. Anh và Mỹ đã có gần một thế kỷ kinh nghiệm với tàu sân bay. Trung Quốc chỉ có khoảng một năm. Họ không có kinh nghiệm với chiến tranh chống tàu ngầm hoặc các cuộc tấn công tên lửa tầm xa, họ thậm chí không có đủ các tàu chống mìn. Người Mỹ có thể kiềm giữ toàn bộ Hạm đội Bắc Hải của PLA chỉ bằng việc thả mìn Vịnh Bột Hải.’ Hơn nữa, trong bất kỳ cuộc đối đầu trực tiếp nào giữa hai nước, có khả năng là quân đội Mỹ sẽ được các lực lượng hải quân có khả năng cao của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và có thể những nước khác yểm trợ.

Thậm chí tác giả của khái niệm Hải Không chiến, Bryan Clark, cũng thừa nhận rằng Hải quân Trung Quốc hiện không đặt ra nhiều đe dọa đối với Hoa Kỳ: ‘Ngay bây giờ Mỹ có thể – thông qua chiến tranh điện tử hoặc tấn công động trực tiếp hoặc phuơng thức khác – đánh bại tất cả các khả năng A2/AD ở đó.’[19] Tại thời điểm viết bài, tên lửa đạn đạo Dong-Feng-chống tàu vẫn chưa được thử nghiệm với mục tiêu di động trên biển và cũng có nghi ngờ về việc liệu PLA có khả năng triển khai và tích hợp các cảm biến hết sức phức tạp và hệ thống điều khiển này – 'chuỗi tận diệt’ [kill chain] – mà họ sẽ phụ thuộc vào.[20] Lầu Năm Góc tự tin rằng họ có thể chống lại các hệ thống như vậy. ‘Chúng tôi đã tách các chuỗi tận diệt [của Trung Quốc] tới cấp độ "thứ n"’, Trung tướng Herbert Carlisle, lúc đó là Phó Tham mưu trưởng không quân Mỹ về tác chiến nói với Aerospace Daily tháng 9 năm 2011.[21] ‘Hồi tháng 1 năm 2014 nổi lên chuyện Trung Quốc bán một phiên bản khác của tên lửa này cho Saudi Arabia năm 2007 mà các nhà phân tích tình báo Mỹ đã tháo ra và xem xét toàn diện.’[22]

Vì vậy, trong khi câu chuyện chi phối ở các thủ đô nước ngoài là về sức mạnh ngày càng tăng của quân đội Trung Quốc, thì bên trong quân đội Trung Quốc câu chuyện lại xoay nhiều hơn về điểm yếu tương đối của nó. Như một trong những học giả Trung Quốc có tiếp cận với các nhà hoạch định chính sách nói với tôi ở Bắc Kinh, ‘Trung Quốc không muốn thấy Mỹ chắn đường vận tải biển của họ, nhưng họ không có một chiến lược rõ ràng về cách phản ứng. Họ không biết phải làm gì’. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng nhận thức rõ rằng họ rất may mắn. Quân đội chưa thật sẵn sàng của họ không phải đối mặt với các mối đe dọa chết người ngay lập tức và nước này có thời gian để xây dựng dần sức mạnh kinh tế và quân sự của mình đối mặt với những thách thức phía trước. Họ đang tận huởng cái các nhà tư tưởng của họ gọi là ‘thời cơ chiến lược’ – thời đại hiện nay của chúng ta tương đối hòa bình, ổn định và thịnh vượng.

Theo cái nhìn của các lãnh đạo Trung Quốc – dân sự và quân sự – toàn bộ sự phát triển của nước này phụ thuộc vào việc kéo dài giai đoạn này càng lâu càng tốt. Những gợi ý về điều đó xuất hiện lúc này lúc khác. Ngày 4 tháng 2 năm 2013, khi mà Trung Quốc và Nhật Bản tỏ ra trên bờ vực của cuộc xung đột về Quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, thông điệp đó đã được công khai nêu ra rành mạch ở một nơi đáng ngạc nhiên. Tờ Thời báo Hoàn Cầu thường đầy các cuộc tấn công bằng lời vào Hoa Kỳ, Nhật Bản, Philippines và Việt Nam, và đòi hỏi phải có hành động cứng rắn đối với những ai vi phạm chủ quyền của Trung Quốc. Vì vậy, khi Tướng Liu Yuan [Lưu Nguyên] sử dụng nó để bảo những kẻ hiếu chiến phải câm mồm, điều đó đã tạo ra một sự khuấy động. Ông viết ‘Phát triển kinh tế của Trung Quốc đã bị tan tác vì chiến tranh với Nhật Bản hai lần trước đây,và tuyệt đối không được để nó bị gián đoạn một lần nữa bởi một sự cố bất chợt nào đó’. Ông cũng đã cố nhấn mạnh lại quan điểm đó trong cuộc phỏng vấn truyền hình.

Tuớng Lưu Nguyên chẳng phải thuộc phe bồ câu. Ông là con trai của Lưu Thiếu Kỳ, Chủ tịch đầu tiên của Cộng sản Trung Quốc, anh hùng cách mạng (và nạn nhân chính trong Cách mạng Văn hóa của Mao). Được biết ông rất thân cận với Chủ tịch Tập Cận Bình và đã được gợi ý đề bạt vào Quân ủy Trung ương, cơ quan quân sự cao nhất của Trung Quốc. Theo lời lẽ trong một báo cáo của cơ quan thông tấn phương Tây ông đuợc biết nhiều hơn qua những ‘bài phát biểu và bài tiểu luận đẩy mạnh một hình thức của chủ nghĩa dân tộc chiến đấu Trung Quốc vốn bác bỏ quan niệm của phương Tây về cởi mở chính trị và tự do dân sự’. Nói cách khác, ông có vẻ đại diện cho tiếng nói đích thực của quân đội Cộng sản. Tại sao một người với thành tích diều hâu rõ ràng như vậy lại ủng hộ một cách tiếp cận ôn hoà như thế? Đầu mối nằm trong tiêu đề của bài viết của ông trên tờ Hoàn Cầu: ‘Bảo vệ Thời cơ Chiến lược, Chiến tranh là Giải pháp cuối cùng’'. Lập luận của Lưu Nguyên là kẻ thù của Trung Quốc có âm mưu thu hút họ vào cuộc xung đột để giữ họ mãi yếu kém. Có rất ít nghi ngờ, trong đầu các lãnh đạo quân sự của Trung Quốc, rằng nếu nước này phải đánh nhau với Mĩ trong một hoặc hai thập kỉ tới thì lực lượng vũ trang của họ sẽ bị làm nhục và nền kinh tế của họ sẽ bị bao vây và bóp nghẹt. Ngay cả một trở ngại nhỏ cũng có thể gây ra vấn đề lớn cho một chính phủ đang cố khắc sâu tính hợp pháp trong công chúng. Theo quan điểm của các học giả Bắc Kinh, ‘chính phủ Trung Quốc không thể kham nổi dù chỉ một thất bại nhỏ trong một cuộc đối đầu’.

Nhưng điều này lại mang tới một vấn đề lớn cho Trung Quốc. Nếu các nước láng giềng xung quanh Biển Đông tin rằng Bắc Kinh sẽ không bao giờ tiến hành chiến tranh thì ảnh hưởng chiến lược của họ sẽ suy giảm đáng kể. Bằng cách nào đó các bên tranh chấp lãnh thổ đối thủ phải được kích thích để tin rằng Trung Quốc có thể chọn việc đánh nhau bất kể điều đó dường như không hợp 1í như thế nào. Đây là vai trò chiến lược mà các ‘diều hâu’ của truyền thông của Trung Quốc đang đóng. Bên cạnh việc thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc trong nước (như chúng ta đã thấy trong Chương 6) họ phục vụ một chức năng rất tinh tế nhưng quan trọng trong mưu đồ chiến lược của Trung Quốc. Nhà nghiên cứu Úc Andrew Chubb đã phân tích sâu sắc ngôn ngữ hiếu chiến và việc định giờ đưa ra các phát biểu của các nhà phân tích quân sự nổi tiếng nhất của Trung Quốc, trong đó có Thiếu tướng Luo Yuan [La Viện], Chuẩn Đô đốc Zhang Zhaozhong [Trương Triệu Trung] và và Đại tá Không quân Dai Xu [Đái Húc]. Ông tin rằng những người này giúp khắc sâu nhận thức quốc phòng trong nhân dân (điều đã được luật định từ năm 2001) nhưng cũng quan trọng như làm tăng áp lực lên các đối thủ của Trung Quốc. Bằng cách tạo ra các ý tưởng về một phe cứng rắn đòi hỏi các nhà lãnh đạo dân sự phải có hành động mạnh mẽ hơn, họ giúp củng cố vị thế đàm phán của những người lãnh đạo. Đồng thời họ cũng có các lời lẽ phóng đại khả năng của Trung Quốc và cho ấn tượng rằng Trung Quốc sẵn sàng tấn công. Mục đích tổng thể xuất phát ngay từ lời của Sun Tzu [Tôn Tử]: ‘Thuật chiến tranh tuyệt đỉnh là khuất phục kẻ địch mà không cần phải đánh’ (战争的最高艺术是屈人之兵不战: chiến tranh đích tối cao nghệ thuật thị khuất nhân chi binh bất chiến).

Kết quả là một tam giác ma quỷ kết nối các diều hâu Trung Quốc đưa ra các trích dẫn đầy hăm dọa của họ như là một phần của chiến tranh chính trị của PLA, truyền thông quốc tế vốn biết rằng nói chuyện đối đầu hiếu chiến thu hút khán giả và các diều hâu Mỹ sẽ nắm từng mảnh bằng chứng mới về ‘mối đe dọa Trung Quốc’ để biện minh cho việc tăng thêm chi tiêu cho quân đội và việc trỏ mũi dùi Trung Quốc. Điều đó, đến lượt nó, lại cung cấp cho các diều hâu PLA thêm bằng chứng về các âm mưu của Hoa Kỳ và củng cố vị trí của họ với khán giả trong nước. Khi học giả Bắc Kinh tâm sự với một nụ cười thì có rất nhiều người tin vào thuyết âm mưu ở Trung Quốc đến mức chúng ta chỉ cho rằng họ đang cố ý hành động để lôi kéo chúng ta vào bẫy. Một học giảTrung Quốc khác, giáo sư Zha Daojiong [Tra Đạo Quýnh] thuộc Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược tại Đại học Bắc Kinh, nói với tôi rằng lo lắng lớn nhất của ông là quân đội Trung Quốc có thể tin vào những lời khoa truơng của Mỹ và bắt tay vào một cuộc chạy đua vũ và làm theo cách Liên Xô trong cùng mục đích. ‘Tôi cố gắng để khuyên họ đừng làm điều đó. Điều rủi ro là quân đội sẽ phát triển quá lớn, nhận ngân sách quá nhiều và có quyền lực quá to bên trong Trung Quốc’. Cuộc chiến giành quyền truy cập vào các EEZ của Biển Đông là nền tảng cho sự cân bằng quyền lực toàn cầu. Thế giới có thể cuối cùng đi đến với việc chính sách an ninh bị các thành phần hiếu chiến nhất của Mỹ và các tầng lớp chính trị của Trung Quốc quyết định trong một cuộc đấu tranh tự tồn và có khả năng tự hủy hoại giành quyền đứng đầu.

Hiện nay có rất ít nguy cơ rằng Trung Quốc sẽ cố ý tìm kiếm xung đột về quân sự: hậu quả sẽ là quá đắt cho chính họ. Một thất bại trước Mỹ có thể gây bất ổn không sửa chữa đuợc cho quyền lãnh đạo. Trung Quốc có thể có tham vọng đẩy lùi Mỹ ra xa, nhưng hiện giờ không có khả năng quân sự để làm như vậy. Tuy nhiên, dần dần, khoảng cách giữa hai bên sẽ thu hẹp và nguy cơ xảy ra xung đột sẽ lớn lên. Từ giờ tới đó, quân đội mỗi bên sẽ thổi phồng thêm các mối đe dọa từ bên khác và tận hưởng những lợi ích của việc gia tăng ngân sách đi theo. Mối nguy hiểm là có hai cuộc đối đầu diễn ra ở Biển Đông – một giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ về vấn đề truy cập và một giữa Trung Quốc và các nước láng giềng về lãnh thổ – sẽ tương tác theo những cách khó đoán trước được.

Ít có khả năng Trung Quốc sẽ chọn việc đánh nhau công khai với quân đội một nước Đông Nam Á. Ngay cả khi Trung Quốc chiếm ưu thế, tính hợp pháp ngoại giao của nước này sẽ bị hủy hoại: chính sách tồn tại hòa bình mà họ rêu rao sẽ được chứng tỏ là một lời nói dối. Nhưng tất cả các lựa chọn không có xung đột vẫn còn đuợc xem xét. Một số sự cố, như Philippines mất Scarborough Shoal hoặc cuộc đối đầu vào giữa năm 2014 khi Trung Quốc đặt giàn khoan dầu bên trong EEZ mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền gần quần đảo Hoàng Sa, được biết đến rộng rãi. Những sự cố khác, liên quan đến Indonesia và Malaysia chẳng hạn, được giữ im lặng. Trong mỗi trường hợp Trung Quốc đều dùng vũ lực nhưng không trực tiếp là lực lượng quân sự. Như Huang Jing, Giám đốc của Trung tâm về châu Á và toàn cầu hoá chính sách công tại Singapore, nói với tờ New York Times vào năm 2013, ‘Những gì Trung Quốc đang làm là đưa cả hai tay ra sau lưng và dùng cái bụng to của họ để đẩy bạn ra ngoài, thách bạn đánh trước’.[23] Nhưng kết quả cuối cùng là như nhau: Đông Nam Á không sẵn sàng để chấp nhận những từ nhẹ nhàng của Bắc Kinh về tin cậy. Họ đang chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất, chỉ để phòng trước.

B. H.

Dịch giả gửi BVN.


[1] Trích dẫn từ J.M. Van Dyke, ‘Military Ships and Planes Operating in the Exclusive Economic Zone of Another Country’, Marine Policy, vol. 28 (2004), 29–39, esp. 36.

[2] Dennis Mandsager, ‘The US Freedom of Navigation Program: Policy, Procedure, and Future’, International Law Studies, vol. 72, 1998, 11327.

[3] ‘Short Term Energy Outlook’, US Energy Information Administration, 8 October 2013. Có thể xem tại http://www.cia.gov/forecasts/steo/outlook.cfms.

[4] Xem http://eng.mod.gov.cn/DatabaseWhitePapers/2013–04/16/content_4442755.html.

[5] US Department of Defense. Joint Operational Access Concept. 17 January 2012. Có thể xem tại http://www.defense.gov/pubs/pdfs/ioac_jan%202012_signed.pdf.

[6] Jason E. Bruzdzinski, ‘Demystifying Shashoujian: China’s “Assassin’s Mace” Concept’, in Andrew Scobell and Larry Wortzel, Civil–Military Change in China: Elites, Institutions, and Ideas After the 16th Party Congress (report issued by the Strategic Studies Institute, US Army War College, 2004), 309–64. Có thể xem tại http://www.mitre.org/publications/technical–papers/demystifying–shashoujian–chinas–assassins–mace–concept.

[7] Nan Li, ‘The Evolution of Chinas Naval Strategy and Capabilities: From “Near Coast” and “Near Seas" to “Far Seas”, in The Chinese Navy: Expanding Capabilities, Evolving Roles (Washington, 2011), 109–40.

[8] Wendell Minnick, ‘PACAF Concludes 2nd Pacific Vision Exercise’, Defense News, 17 November 2008.

[9] Greg Jaffe, ‘US Model for a Future War Fans Tensions with China and Inside Pentagon’, Washington Post, 1 August 2012.

[10] Phỏng vấn cá nhân qua điện thoại ngày 29/10/2013.

[11] Information from the Stockholm International Peace Research Institute (SIPRI) Military Expenditure Database, released 15 April 2013. Có thể xem tại http://www.sipri.org/research/armaments/milex/milex_database.

[12] ‘Annual Report to Congress: Military and Security Developments Involving the People’s Republic of China 2014’, Office of the Secretary of Defense, May 2014.

[13] US Naval Vessel Register. . Có thể xem tại http://www..navy.mil/nyrships/FLEET.HTM (accessed 6 January 2014).

[14] Phỏng vấn cá nhân. Bắc Kinh 8/11/2013.

[15] Wendell Minnick, ‘Chinese Media Takes Aim at 15 Fighter’, Defense News, 28 September 2013.

[16] Ministry of National Defense of China, ‘Military Forces in Urgent Need of Standardization’, PLA Daily, 10 December 2013. Có thể xem tại http://news.mod.gov.cn/headlines/2013–12/10/content_4478350.htm, bản dịch (Tiếng Anh) tại http://chinascope.org/maincontent/view/105/.

[17] Roy Kamphausen, Andrew Scobell and Travis Tanner (eds), ‘The “People” in the PLA: Recruitment, Training, and Education in Chinas Military’ (report issued by the Strategic Studies Institute, US Army War College, 2008). Có thể xem tại http://www.strategicstudiesinstitute.army.mil/pdffiles/pub858.pdf.

[18] PLA Chief of General Staff Stresses on Cultivating [sic] High–quality Military Personnel’, Peoples Daily Online, 31 May 2013. Có thể xem tại http://english.peopledaily.com.cn/90786/8265768.html.

[19] Phỏng vấn cá nhân qua điện thoại. 31/10/2013.

[20] Barry D. Watts, ‘Precision Strike: An Evolution’, The National Interest, 2 November 2013.

[21] David A. Fulghum,’ USAF: Slash and Burn Defense Cuts Will Cost Missions, Capabilities’, Aerospace Daily Defense Report, 30 September 2011, 6.

[22] Jeff Stein, ‘CIA Helped Saudis Secret Chinese Missile Deal’, Newsweek, 29 January 2014. Có thể xem tại http://www.newsweek.com/exclusive–cia–helped–saudis–secret–chinese–missile–deal–227283.

[23] Jeff Himmelman, ‘A Game of Shark and Minnow’, New York Times, 27 October 2013.

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn