Người làm được cần được làm!

Mai Quốc Ấn 

Tôi là một người không đảng phái. Góp ý cho Văn kiện Đại hội Đảng XIV thuần túy là góp ý kèm giải pháp trong lĩnh vực của mình là điều nên làm của một công dân thấy rằng trách nhiệm lên tiếng vì đất nước là cần thiết.

Có người nhắn hỏi tôi về góp ý “người làm được cần được làm” trong phần góp ý Văn kiện Đại hội Đảng XIV, nên tôi nêu phần ý kiến góp ý này:

KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ÁP DỤNG NGAY CÁC SẢN PHẨM KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ ĐÃ CHỨNG MINH TIẾT KIỆM NGÂN SÁCH

Kính gửi: Ban Soạn thảo Văn kiện Đại hội XIV; Ban Chỉ đạo Trung ương về Khoa học công nghệ, Đổi mới sáng tạo và Chuyển đổi số, Ban Kinh tế Trung ương; Bộ Khoa học và Công nghệ.

Người đề xuất: Mai Quốc Ấn (đại diện doanh nghiệp khoa học công nghệ Minh Đức, đại diện doanh nghiệp khoa học công nghệ Châu Âu, đại diện doanh nghiệp khoa học công nghệ Ngôi Sao Bình Dương. Nhân sự quản trị phục trách các dự án đổi mới trong lĩnh vực vật liệu xây dựng, tái chế chất thải xây dựng/chất thải công nghiệp thành sản phẩm có ích và công nghệ/quy trình cho mô hình nông nghiệp tuần hoàn)

Mục tiêu: Thiết lập cơ chế hành chính - tài chính để đảm bảo mọi sản phẩm/ứng dụng khoa học - công nghệ trong nước khi có chứng cứ định lượng chứng minh tiết kiệm ngân sách sẽ được áp dụng ngay, được bảo vệ pháp lý và được nhân rộng kịp thời nhằm tiết kiệm chi tiêu công, thúc đẩy đổi mới và bảo vệ môi trường. Áp dụng khoa học công nghệ đúng cách là nâng cao nội lực quốc gia, tăng chất lượng thực chất cho GDP và GNP của Việt Nam.

I. Tóm tắt yêu cầu chính sách

1. “Làm được cần được làm!”

Đề nghị bổ sung vào văn kiện: “Nhà nước thiết lập cơ chế áp dụng ngay (fast-track) cho sản phẩm, giải pháp KH&CN trong nước đã được chứng minh bằng sáng chế, có số liệu có khả năng tiết kiệm ngân sách; đồng thời thiết lập cơ chế thử nghiệm có hỗ trợ (sandbox), mua sắm theo kết quả (outcome-based procurement), và bảo vệ pháp lý cho cán bộ/đơn vị dám áp dụng sáng kiến để khuyến khích nhanh việc nhân rộng các giải pháp hiệu quả”.

Giải pháp này đảm bảo thu hút mọi doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức ở mọi ngành nghề, độ tuổi có thể tham gia đóng góp ý kiến xây dựng và ứng dụng các giải pháp tiết kiệm ngân sách, hiệu quả về cả kinh tế, xã hội và môi trường để đưa đất nước phát triển trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên của người làm được chắc chắn sẽ được ủng hộ, được làm.

2. Áp dụng khoa học công nghệ để tăng chất lượng GNP và GDP, tự chủ sản xuất quốc gia

- Khái niệm GDP (Tổng sản phẩm quốc nội): Giá trị sản xuất trong lãnh thổ Việt Nam, bao gồm doanh nghiệp Việt + FDI.

- Khái niệm GNP (Tổng sản phẩm quốc dân): Giá trị tạo bởi người Việt và doanh nghiệp Việt trên toàn thế giới, trừ phần người nước ngoài kiếm được tại Việt Nam.

Báo chí và các chuyên gia đã nêu thực trạng doanh nghiệp FDI không chuyển giao công nghệ cho Việt Nam hoặc chỉ chuyển giao công nghệ cho công ty con của họ. Điều này dẫn đến Việt Nam cho thuê đất rẻ và cho thuê nhân công giá rẻ cho nước ngoài, thặng dư thực ở lại đất nước rất ít. 

Chỉ có phát triển khoa học công nghệ trong nước, tự chủ công nghệ nội sinh và phát triển sản xuất hàng chất lượng quốc tế mới đưa đất nước phát triển thực sự. Tỉ lệ khoa học công nghệ đóng góp vào GDP phải từ 50% và GNP phải từ 70% thì nội lực đất nước mới thực sự vững bền và cần có lộ trình cụ thể cho việc này.

II. Bối cảnh, lý do cần thiết

1. Nhiều giải pháp KH&CN — đặc biệt trong các lĩnh vực: xử lý chất thải, vật liệu xây dựng, năng lượng, nông nghiệp tuần hoàn — đã chứng minh khả năng giảm chi phí công và chi phí xã hội. Tuy nhiên, quy trình thẩm định, mua sắm và rủi ro trách nhiệm khiến việc áp dụng bị trì hoãn, làm mất cơ hội tiết kiệm ngân sách. Nội lực khoa học công nghệ Việt Nam đang rất thấp, số doanh nghiệp khoa học công nghệ được xác nhận tại Việt Nam có chỉ chiếm 0,1% (940/940.000 doanh nghiệp), trong đó doanh nghiệp khoa học công nghệ nội sinh chỉ khoảng 0,026% (250/940.000 doanh nghiệp).

2. Quốc tế đã áp dụng nhiều công cụ thành công để rút ngắn thời gian đưa sáng kiến vào thực tiễn: procurement for innovation, regulatory sandboxes, outcome-based payments và fast-track precertification. Những công cụ này đã được OECD+1, EU và nhiều chính phủ áp dụng, giúp tăng tốc đổi mới trong khu vực công và tiết kiệm ngân sách nhà nước.

III. Những cơ chế đề xuất

1. Cơ chế “Fast-track Procurement” (Mua sắm công rút gọn) dành cho sản phẩm khoa học công nghệ cam kết/chứng minh tiết kiệm ngân sách

- Định nghĩa: sản phẩm/giải pháp KH&CN trong nước được cấp sáng chế (bảo hộ độc quyền 20 năm) hay cấp giải pháp khoa học công nghệ (được bảo hộ độc quyền 10 năm) được xem là “đã chứng minh” khi cung cấp báo cáo thí điểm độc lập (Hội đồng KH&CN độc lập hay Hội đồng nước ngoài cho các đề tài cấp quốc tế) cho thấy giảm tối thiểu 20% chi phí trực tiếp hoặc tăng tối thiểu 30% hiệu suất so với phương pháp/trang thiết bị truyền thống trong điều kiện tương đương.

- Thủ tục: khi đáp ứng điều kiện trên, cơ quan đề xuất được rút ngắn 70-80% các bước đấu thầu thông thường; Hội đồng thẩm định cấp bộ hay liên bộ hoàn tất đánh giá trong 07-30 ngày làm việc; nếu đạt yêu cầu → cấp phép áp dụng ngay tại bộ/địa phương đề xuất và nhân rộng cả nước.

- Dẫn chứng quốc tế:

• Mô hình tiền chứng minh như “Procurement Precertification for Innovative Research (PPIR)” tại Hàn Quốc – mô tả cách chính phủ Hàn Quốc kết nối đầu tư R&D với mô hình mua sắm đổi mới để rút ngắn thời gian đưa công nghệ vào chính phủ. Cách làm của Hàn Quốc là một ví dụ tiêu biểu cho việc dùng procurement (chứng minh trước) làm công cụ thúc đẩy đổi mới. Ví dụ chứng minh giá doanh nghiệp đưa ra cam kết thấp hơn so với giá dự toán nhà nước thì nhà nước đưa và hợp đồng mua sắm công ngay lập tức.

• Singapore – Accelerated Procurement Framework (APF): Là cơ chế rút gọn mua sắm công nghệ trong chương trình Smart Nation. APF giúp rút thời gian mua sắm công từ 12 - 18 tháng xuống còn 4 - 8 tuần. Hiệu quả ứng dụng khoa học công nghệ: hệ thống quản lý giao thông thông minh ứng dụng AI giảm 20% thời gian ùn tắc trong giờ cao điểm và giảm 12% nhiên liệu tiêu thụ.

• Vương quốc Anh – NHS Artificial Intelligence Fast Track Programme (AIFTP): Chương trình rút gọn phê duyệt giải pháp AI trong hệ thống y tế quốc gia NHS. Hiệu quả ứng dụng khoa học công nghệ: công nghệ AI trong chẩn đoán ung thư vú giúp giảm 30% chi phí vận hành và rút ngắn thời gian phát hiện bệnh còn 14 ngày.

2. Cơ chế “Sandbox ngân sách” (Ngân sách thử nghiệm có bảo đảm)

Mỗi bộ/ngành trích 1 - 3% ngân sách thường xuyên hàng năm để thực hiện thử nghiệm có giám sát các sáng chế, giải pháp KH&CN. Thời gian thử nghiệm tối đa 03 - 18 tháng. Nếu trong thời hạn thử nghiệm, sáng chế hay giải pháp chứng minh tiết kiệm theo tiêu chí đã công bố → tự động nhân rộng trong phạm vi bộ/địa phương hoặc quốc gia theo lộ trình cụ thể của chính phủ ban hành.

Dẫn chứng quốc tế:

• UK, Singapore và nhiều nước OECD đã sử dụng regulatory sandboxes (tài chính, giao thông, năng lượng…) để thử nghiệm công nghệ thực tế mà không bị kìm lại bởi quy định cứng nhắc. UK Financial Conduct Authority (FCA) và Civil Aviation Authority đều có sandbox điển hình FCA+1.

• Hàn Quốc – Korean Regulatory Sandbox for Innovation (KRSI): Áp dụng từ 2019, cho phép thử nghiệm xe tự lái, drone logistics, công nghệ IoT mà không cần toàn bộ giấy phép. Hiệu quả ưng dụng khoa học công nghệ: tiết kiệm 150 triệu USD chi phí thử nghiệm và thương mại hóa xe tự lái sớm hơn 3 năm.

• Nhật Bản – Japan Fintech Proof-of-Concept Sandbox (PoC Sandbox): Cho thử nghiệm công nghệ tài chính theo giới hạn quy mô. Hiệu quả ứng dụng khoa học công nghệ: tăng 40% t lệ thanh toán điện tử trong 5 năm nhờ hàng loạt startup fintech được đưa vào thử nghiệm nhanh.

• Trung Quốc – Shanghai Free Trade Zone Innovation Pilot (SFTZ-IP): Cho phép triển khai ngay công nghệ logistics, tự động hóa cảng và tái chế vật liệu. Hiệu quả KH-CN: năng suất logistics tăng 28%, chi phí lưu kho giảm 22%.

• Trung Quốc – Shenzhen Special Economic Zone Innovation Programme (SEZ-IP): Tập trung công nghệ xây dựng mô-đun, vật liệu tái chế, robot công trường. Hiệu quả KH-CN: chi phí xây dựng công trình công giảm 15-35% và rút ngắn 25% thời gian thi công. Sandbox ngân sách

3. Cơ chế “Outcome-based Procurement / Pay-by-Result” (Thanh toán theo kết quả)

Nhà nước ký hợp đồng “chi trả theo kết quả” với nhà cung cấp: tiền (hoặc phần thưởng) chỉ được chi khi kết quả tiết kiệm thực tế được xác nhận. Tỷ lệ chi trả có thể là phần trăm của tiết kiệm (ví dụ 10 - 30% của khoản tiết kiệm ngân sách).

Dẫn chứng quốc tế:

• Úc – Australian Urban Waste Solutions Outcome-Based Contracting (UW-OBC): Hợp đồng xử lý rác đô thị dựa trên kết quả giảm chi phí chôn lấp. Hiệu quả KH-CN: một doanh nghiệp tái chế giúp giảm 25% chi phí ngân sách xử lý rác, được nhà nước thưởng 10% phần tiết kiệm.

• Chính phủ Vương quốc Anh đã triển khai nhiều hợp đồng Payment-by-Results với tổng ngân sách các chương trình PbR lớn lên đến khoảng £2,2 tỷ trong một số chuỗi chương trình (NAO khảo sát các chương trình PbR). Cách làm này giúp chuyển rủi ro phát triển sang nhà cung cấp và ưu tiên kết quả thực tế. National Audit Office (NAO)+1.

• Canada – Federal Energy Efficiency Outcome Procurement (FEEOP): Chính phủ chỉ trả tiền khi dự án tiết kiệm ít nhất 15% điện năng. Hiệu quả khi áp dụng khoa học công nghệ ứng dụng: tiết kiệm hơn 200 triệu CAD/năm nhờ hệ thống giám sát năng lượng thông minh.

4. Cơ chế “Một cửa KH&CN Quốc gia” và Tổ công tác thẩm định nhanh

Thành lập Tổ công tác KH&CN cấp Quốc gia (dưới Thủ tướng, phân theo ngành, có giám sát của thành viên Ban Chỉ đạo trung ương về Khoa học công nghệ, Đổi mới sáng tạo và Chuyển đổi số) thực hiện thẩm định một cửa, trả lời trong 07-10 ngày cho mọi đề xuất áp dụng sản phẩm khoa học công nghệ đã chứng minh qua bằng sáng chế, giải pháp khoa học công nghệ do nhà nước thẩm định và cấp.

Tổ công tác có quyền: phê duyệt áp dụng nhanh hoặc từ chối nhanh với lý do rõ ràng. Cơ sở cao nhất của việc đồng ý hay từ chối sáng kiến dựa trên việc ngân sách có thể tiết kiệm bao nhiêu và tác động tốt đến xã hội có nhiều hay không. Mô hình này có thể áp dụng công khai tại địa phương (cấp xã và cấp tỉnh/thành) với việc lấy ý kiến đống góp và giải pháp được công khai trên website của xã hay tỉnh/thành.

Lợi ích: tập trung thẩm định, tránh chồng chéo, bảo đảm tính nhất quán trên toàn quốc.

Dẫn chứng quốc tế:

• Israel – Israel Innovation Authority (IIA): Cơ quan một cửa xét duyệt mọi công nghệ áp dụng trong nhà nước, thời gian 30 - 45 ngày. Hiệu quả ứng dụng khoa học công nghệ: tốc độ thương mại hóa công nghệ nhanh nhất OECD; hơn 45% công nghệ sinh học và IoT được đưa vào ứng dụng công, giảm 18% chi phí quản lý.

• Estonia – e-Governance One-Stop System (EGOSS): Tích hợp toàn bộ quy trình lựa chọn giải pháp số. Hiệu quả ứng dụng khoa học công nghệ: tiết kiệm 1,2% GDP chi phí hành chính hàng năm nhờ áp dụng chữ ký số, quản trị dữ liệu tập trung và AI xử lý hồ sơ.

5. Bảo đảm pháp lý & bảo vệ người dám đổi mới

Miễn trách nhiệm hành chính/hình sự cho cán bộ ký quyết định áp dụng khi họ đã tuân thủ đúng quy trình fast-track / sandbox. Cơ chế tố cáo và bảo vệ whistleblower (liêm chính khoa học) đối với doanh nghiệp có sáng chế, giải pháp trường hợp cán bộ/doanh nghiệp bị cản trở trái pháp luật khi thực hiện giải pháp được thẩm định.

Dẫn chứng quốc tế: Các quốc gia phát triển có quy định bảo vệ người tố cáo hoặc cơ chế bảo hộ hành chính cho cán bộ đổi mới trong khuôn khổ thử nghiệm chính sách. Đây là xương sống của mọi chương trình đổi mới công của mọi quốc gia phát triển.

• Phần Lan – Government Experimentation Legal Protection Framework (GELPF, gọi tắt "Safe to Try Law"): Cán bộ được bảo vệ khi thực hiện các thí điểm đổi mới. Hiệu quả KH-CN: 40% đơn vị hành chính ứng dụng công nghệ mới (robot quy trình RPA, AI phân tích hồ sơ) chỉ trong 3 năm.

• New Zealand – Public Sector Decision Shield Programme (PSDSP): Bảo vệ pháp lý cho cán bộ khi triển khai sáng kiến đổi mới. Hiệu quả KH-CN: tốc độ thử nghiệm công nghệ mới tăng gấp 5, đặc biệt trong GIS, quản lý thiên tai và dữ liệu công.

IV. Các chỉ tiêu đánh giá, giám sát và mẫu số liệu bắt buộc

Mọi đề xuất áp dụng ngay phải kèm theo báo cáo đánh giá định lượng hiệu quả theo mẫu chuẩn quốc gia gồm tối thiểu các chỉ tiêu sau:

1. Chi phí đầu tư (CapEx) — VNĐ; thời hạn hoàn vốn dự kiến (năm).

2. Chi phí vận hành hàng năm (OpEx) — VNĐ/năm.

3. So sánh chi phí toàn vòng đời (Life-Cycle Costing) giữa giải pháp mới và giải pháp cũ (5, 10, 20 năm). (Ví dụ LCC cho vật liệu xây: chi phí mua + vận hành + bảo trì + xử lý cuối vòng đời). (EU khuyến nghị sử dụng LCC cho mua sắm công đổi mới. (Nguồn: European Commission.)

4. Tiết kiệm ngân sách trực tiếp hàng năm (VNĐ) — con số phải được kiểm chứng độc lập.

5. Phần trăm giảm phát thải/tiêu thụ tài nguyên (CO tấn/năm, nước m³/năm, đất chôn lấp tấn/năm).

6. Hệ số ROI công nghệ = (Tổng lợi ích tài chính trong N năm) / (Tổng chi phí đầu tư).

7. Khả năng nhân rộng (số địa phương/năm có thể triển khai) và thời gian nhân rộng.

8. Độ rủi ro kỹ thuật & pháp lý và kế hoạch giảm thiểu.

Yêu cầu thẩm định: tất cả báo cáo phải được kiểm chứng bởi Hội đồng KH&CN độc lập do Bộ KH&CN phối hợp với Kiểm toán Nhà nước hoặc Viện/Trung tâm thẩm định được công nhận. Nếu đơn vị/cá nhân có sáng chế, giải pháp yêu cầu được thẩm định quốc tế thì nhà nước hỗ trợ chi phí thẩm định để sáng chế, giải pháp có cơ sở pháp lý quốc tế để xuất khẩu, chuyển giao công nghệ ưu tiên thu ngoại tệ về cho quốc gia.

V. Dự toán ngân sách & mô hình chi trả (ví dụ mô phỏng)

Để đảm bảo khả năng triển khai, đề xuất mô hình chi trả kết hợp:

1. Quỹ Thử nghiệm Quốc gia (Innovation Trial Fund)

Trích 0.2% - 0.5% tổng chi thường xuyên của ngân sách trung ương giai đoạn đầu (dùng cho Sandbox, thẩm định độc lập, hỗ trợ dữ liệu). Đây là quỹ xoay vòng, ưu tiên cho giải pháp có khả năng tiết kiệm lớn. Kinh nghiệm các chương trình đổi mới tại EU và OECD dùng nguồn tương tự để hỗ trợ thử nghiệm. (Nguồn: OECD+1)

2. Thanh toán theo kết quả (Pay-by-Result)

Ví dụ mô phỏng: nếu giải pháp giúp tiết kiệm 100 tỷ VNĐ/năm, ngân sách trả thưởng cho nhà cung cấp 10% - 20% của khoản tiết kiệm (10-20 tỷ VNĐ) trong năm đầu tiên như khoản khuyến khích và phần còn lại được xem như tiết kiệm ròng. Mô hình tương tự có áp dụng trong chương trình PbR của Anh. (Nguồn: National Audit Office (NAO)).

3. Cơ chế hợp vốn công-tư (matching funds)

Nhà nước hỗ trợ một phần chi phí thử nghiệm (ví dụ 30-70%), phần còn lại do doanh nghiệp/nhà đầu tư góp, khi đạt kết quả → chia lợi ích theo hợp đồng. Nếu nhà khoa học hay doanh nghiệp khoa học công nghệ tìm được nguồn tài trợ mà không cần dùng ngân sách nhà nước tài trợ thì sau khi đạt kết quả tiết kiệm ngân sách thì t lệ chia trên mức tiết kiệm sẽ cao hơn (Ví dụ: Doanh nghiệp nhận tài trợ của nhà nước để áp dụng tiết kiệm điện cho công trình nhà nước 100 t/năm còn 80 t/năm thì thông thường nhà nước thưởng 10-30% cho 20 t tiết kiệm ấy cho doanh nghiệp, tương đương 2-6 t/năm. Nếu doanh nghiệp tự đầu tư hoàn toàn hoặc kêu gọi tài trợ ngoài nhà nước để tiết kiệm 20 t/năm thì mức thưởng 30-50%, tương đương 6-10 t/năm, cho mức tiết kiệm trên. Trong 2 trường hợp này thì nhà nước sẽ ưu tiên cho trường hợp 2).

VI. Dẫn chứng quốc tế (tóm tắt & dẫn nguồn)

1. Hàn Quốc — Procurement Precertification for Innovative Research (PPIR): mô hình nối R&D công với procurement, nhằm rút ngắn thời gian và nâng tỷ lệ ứng dụng kết quả nghiên cứu trong khu vực công. Korea chi gần 50% ngân sách R&D quốc gia qua các chương trình liên quan; các sáng kiến PPI/PPIR giúp khuếch đại ứng dụng. oecd-opsi.org+1.

2. Liên minh châu Âu (EU) — Hướng dẫn “Public procurement of innovation” & khuyến nghị LCC cho mua sắm công đổi mới; EU hỗ trợ PPI thông qua Horizon và các chương trình chuyên biệt để khuyến khích chính quyền làm “early adopter”. European Commission.

3. Vương quốc Anh (UK) — Sử dụng rộng rãi Payment-by-Results (PbR) trong nhiều chính sách công; NAO đã ghi nhận các chương trình PbR với tổng quy mô hàng tỷ bảng Anh; UK cũng là nước tiên phong trong sandbox (FCA) và regulatory sandboxes cho lĩnh vực tài chính, hàng không, giao thông v.v. National Audit Office (NAO)+2FCA+2.

4. Singapore — Hệ thống GovTech và mô hình “accelerated adoption” hỗ trợ chính phủ làm khách hàng đầu tiên cho công nghệ trong nước; GovTech phối hợp chặt chẽ với các bộ/ngành để triển khai thử nghiệm nhanh. Salesforce.

5. Australia, Canada, Ireland, các nước OECD — áp dụng các dạng outcome-based procurement, sandbox và PPI; chính phủ bố trí quỹ thử nghiệm và cung cấp hướng dẫn cho cơ quan mua sắm. ForGov+1.

Ghi chú 1:

Các nguồn quốc tế nêu trên là bằng chứng thực tiễn cho thấy cơ chế fast-track, sandbox và pay-by-result là công cụ hữu hiệu để rút ngắn thời gian ứng dụng và tối ưu ngân sách công. OECD+2European Commission+2.

 

Ghi chú 2

1- Tôi là một người không đảng phái. Góp ý cho Văn kiện Đại hội Đảng XIV thuần túy là góp ý kèm giải pháp trong lĩnh vực của mình là điều nên làm của một công dân thấy rằng trách nhiệm lên tiếng vì đất nước là cần thiết. Cũng là một ứng xử phù hợp khi nhận lời mời của một chính khách “có chữ” như ông Nguyễn Văn Nên và sự nhiệt tình kết nối của anh Lưu Trọng Văn.

2. Ngoài góp ý trực tiếp này tôi có gửi góp ý cho Ban Chỉ đạo trung ương về Khoa học công nghệ, Đổi mới sáng tạo và Chuyển đổi số về lĩnh vực áp dụng khoa học công nghệ xử lý chất thải thành sản phẩm có ích chuẩn quốc tế tiết kiệm ngân sách ít nhất 20% chi phí xử lý và ít nhất 30% chi phí mua sản phẩm khoa học công nghệ sau xử lý. 

Kiến nghị này được ghi nhận trên hệ thống đã được Ban Chỉ đạo chuyển cho Bộ Xây dựng.

M.Q.A.

Nguồn: FB Quốc Ấn Mai

 

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn