Cách tái cấu trúc hệ thống quốc tế trong thời kỳ của Trump

Mariana Mazzucato 

Foreign Affairs ngày 25 tháng 2 năm 2025

Lê Bá Nhật Thắng biên dịch

Xét trên nhiều phương diện, việc Donald Trump được bầu làm Tổng thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ thứ hai phản ánh một câu chuyện về sự bất mãn kinh tế. Lần đầu tiên trong nhiều thập niên, ứng cử viên Đảng Dân chủ nhận được nhiều sự ủng hộ hơn từ tầng lớp người Mỹ giàu có nhất so với nhóm nghèo nhất. Năm 2020, phần lớn cử tri thuộc các hộ gia đình có thu nhập dưới 50.000 đô la mỗi năm đã chọn ứng cử viên Đảng Dân chủ, Joe Biden; đến năm 2024, họ lại nghiêng về phía ứng cử viên Đảng Cộng hòa, Donald Trump. Trong khi đó, những người có thu nhập trên 100.000 đô la mỗi năm lại có xu hướng bỏ phiếu cho Kamala Harris nhiều hơn là cho Trump. Sự sụt giảm ủng hộ đối với Đảng Dân chủ trong giới cử tri thuộc tầng lớp lao động phản ánh sự vỡ mộng sâu sắc với hệ thống kinh tế — hệ thống mà dưới các chính quyền do tổng thống của cả hai đảng lãnh đạo, đã tập trung tài sản vào nhóm nhỏ ở đỉnh kim tự tháp, thúc đẩy tăng trưởng khu vực tài chính trong khi làm suy yếu các thành phần còn lại của nền kinh tế khiến nhiều người rơi vào vòng luẩn quẩn nợ nần, và xem nhẹ phúc lợi của hàng triệu người dân Hoa Kỳ.

Dù các cam kết về cứu trợ kinh tế của Trump đã thực sự chạm tới vấn đề chính, các giải pháp mà ông đưa ra lại sai lầm. Những chính sách mà Trump ủng hộ sẽ không tạo ra thay đổi đáng kể nào đối với mô hình kinh tế gây bất mãn sâu rộng mà ông đã khai thác để giành chiến thắng. Trái lại, các mức thuế quan mà ông đề xuất có khả năng sẽ làm chi phí sinh hoạt tăng lên mà chỉ mang lại lợi ích ít ỏi cho tầng lớp lao động Hoa Kỳ. Nếu chính quyền của ông thực thi các kế hoạch cắt giảm mạnh quy mô khu vực công, chính phủ Hoa Kỳ sẽ đánh mất phần lớn năng lực thực hiện các dự án quy mô lớn trong nhiều năm tới. Và các chính sách mang tính trọng thương của ông có thể vừa làm dấy lên bất ổn kinh tế ở nước ngoài, vừa thu hẹp khả năng lãnh đạo kinh tế của Hoa Kỳ trên trường quốc tế.

Tuy chủ nghĩa dân tộc kinh tế đang trỗi dậy tại Hoa Kỳ có thể khiến nhiều người lo ngại, điều đó không đồng nghĩa với việc thế giới phải từ bỏ mục tiêu phát triển toàn diện và bền vững. Nhiều quốc gia như Brazil, Nam Phi và Vương quốc Anh hiện đang thử nghiệm những chương trình kinh tế đầy tham vọng ngay tại chính quốc gia mình. Đồng thời, cũng đang có nhiều đề xuất nhằm cải tổ các thể chế đa phương theo hướng công bằng và hiệu quả hơn. Dù Hoa Kỳ có thể không còn ở vị thế dẫn dắt quá trình cải cách này, khoảng trống mà họ để lại hoàn toàn có thể được lấp đầy bởi những quốc gia khác. Những ý tưởng mới có cơ hội được lắng nghe, các mối quan hệ thương mại mới có thể hình thành, và những tương quan quyền lực mới có thể mở ra cơ hội tạo động lực cho sự thay đổi sâu rộng hơn trên phạm vi toàn cầu.

Không có gì đảm bảo rằng sự tái cân bằng sắp tới của trật tự toàn cầu sẽ dẫn đến một tương lai công bằng và bền vững hơn. Để hướng tới một hệ thống kinh tế bảo đảm khả năng tiếp cận tài chính với chi phí hợp lý, quản trị công bằng đối với thương mại toàn cầu, và hỗ trợ cho tất cả các quốc gia đầu tư cũng như thu được lợi ích từ sự phát triển của các ngành công nghiệp xanh, các chính phủ phải sẵn sàng thực hiện những bước đi táo bạo. Họ phải rút ra những bài học đúng đắn từ chiến thắng của Trump rằng mô hình kinh tế hiện tại đang thất bại và rằng những chính sách tiệm tiến mà Biden và Harris đưa ra sẽ không thể cứu vãn được mô hình ấy. Nhưng đồng thời, chương trình nghị sự bảo hộ mà Trump đề xuất cũng không phải là giải pháp. Sự thay đổi mang tính chuyển hóa đòi hỏi một tầm nhìn thay thế, một tầm nhìn đặt ưu tiên vào phúc lợi của con người và sức khỏe của hành tinh.

Đánh mất thời cơ

Việc Harris thất bại trước Trump phản ánh sự bất lực của Washington trong việc khắc phục các khiếm khuyết nghiêm trọng của mô hình kinh tế hiện hành. Hàng thập niên theo đuổi các chính sách kinh tế làm suy yếu luật lao động, thiếu đầu tư cho giáo dục và y tế, đồng thời củng cố khu vực dịch vụ tài chính đã duy trì tình trạng bất bình đẳng có tính cấu trúc tại Hoa Kỳ. Có thể lập luận rằng Biden đã hành động nhiều hơn phần lớn các vị tổng thống tiền nhiệm gần đây trong việc giải quyết tình trạng tiền lương trì trệ và chi phí sinh hoạt cao — bao gồm việc giảm lạm phát từ 9,1% vào tháng 6 năm 2022 xuống còn 2,4% vào tháng 9 năm 2024 và ký một sắc lệnh hành pháp bảo đảm mức lương tối thiểu 15 đô la mỗi giờ cho nhân viên và nhà thầu của chính phủ liên bang. Tuy nhiên, cũng như các vị tiền nhiệm, ông vẫn không giải quyết được nhiều vấn đề cốt lõi: bất bình đẳng về tài sản và thu nhập, tỷ lệ nợ cá nhân cao, khả năng tiếp cận không đồng đều đối với giáo dục và chăm sóc sức khỏe chất lượng cao, luật lao động không đầy đủ, cùng với tỷ trọng và ảnh hưởng ngày càng gia tăng của khu vực tài chính trong nền kinh tế.

Vấn đề không nằm ở hiệu suất kinh tế kém. Tốc độ tăng trưởng GDP trung bình dưới thời Biden xấp xỉ với mức đạt được trong nhiệm kỳ đầu tiên của Trump, và quá trình phục hồi sau đại dịch của Hoa Kỳ là mạnh mẽ nhất trong nhóm G7. Nền kinh tế Hoa Kỳ đã tạo thêm gần 15 triệu việc làm từ tháng Giêng năm 2021 đến tháng Giêng năm 2024; trong ba năm đầu nhiệm kỳ của Trump, con số này chưa đến bảy triệu việc làm.

Tuy nhiên, điều quan trọng là tăng trưởng kinh tế không đồng nghĩa với việc đời sống của nhiều người dân Mỹ được cải thiện. Theo dữ liệu điều tra dân số mới nhất, năm 2023 có tới 36,8 triệu người, tương đương 11% dân số Hoa Kỳ sống dưới mức nghèo. Tính đến tháng 6 năm 2023, có 43,6 triệu người Mỹ đang gánh khoản nợ vay sinh viên, với mức trung bình khoảng 38.000 USD mỗi người vay.

Sự bất mãn về kinh tế của người dân Mỹ càng trở nên trầm trọng bởi lạm phát tăng vọt trong hai năm đầu nhiệm kỳ của Tổng thống Biden, đạt đỉnh hơn 9% vào tháng 6 năm 2022. Khi chuỗi cung ứng bị tắc nghẽn do đại dịch và cuộc xâm lược Ukraina của Nga, các doanh nghiệp đã đồng loạt tăng giá lương thực, năng lượng và nhiều mặt hàng thiết yếu khác, khiến lạm phát càng trở nên tồi tệ. Vấn đề nghiêm trọng hơn cả có lẽ là thu nhập thực tế bị đình trệ: tiền lương trung bình hàng tuần có tăng trong nhiệm kỳ của Biden, nhưng không đủ để bắt kịp tốc độ lạm phát. Do đó, nhiều người Mỹ thuộc tầng lớp lao động không có lý do gì để tin rằng các chính sách của chính quyền Biden đã giúp cuộc sống của họ khá hơn và càng có ít niềm tin hơn vào những lời hứa của bà Kamala Harris về việc xây dựng một nền kinh tế phục vụ cho tất cả mọi người.

Sự tách rời giữa tăng trưởng và lợi ích vật chất đối với tầng lớp lao động này là hệ quả của hàng thập niên chính sách tại Hoa Kỳ. Trong nửa thế kỷ qua, Đảng Dân chủ đã ủng hộ các biện pháp làm gia tăng ảnh hưởng của khu vực tài chính trong nền kinh tế Hoa Kỳ, làm suy yếu quyền thương lượng của người lao động và kìm hãm tiền lương. Chính quyền Carter trong thập niên 1970 đã dỡ bỏ quy định đối với các ngành vận tải đường bộ và hàng không, và Tổng thống Bill Clinton đã ký Đạo luật Gramm-Leach-Bliley năm 1999 cùng với Đạo luật Hiện đại hóa Giao dịch Hàng hóa năm 2000, trong đó, ngoài những nội dung khác, tạo điều kiện cho việc tập trung hóa và dỡ bỏ quy định đối với khu vực tài chính Hoa Kỳ — một yếu tố góp phần vào cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Trong thập niên 1990, Đảng này cũng ủng hộ việc Hoa Kỳ gia nhập Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) và trao quy chế “quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn” cho Trung Quốc — cả hai động thái này có thể đã góp phần gây mất việc làm và tạo áp lực khiến tiền lương giảm sút.

Các chính trị gia Đảng Cộng hòa cũng đã ủng hộ những chính sách này và thường nhắm mục tiêu trực diện hơn vào việc hạn chế quyền của người lao động. Họ phản đối việc tăng mức lương tối thiểu liên bang, thực hiện cắt giảm ngân sách và bổ nhiệm nhân sự làm suy yếu Ủy ban Quan hệ Lao động Quốc gia (National Labor Relations Board), tìm cách bãi bỏ quyền thương lượng tập thể của công chức tại cấp bang, và thúc đẩy các luật gọi là “quyền làm việc” (right-to-work) ở cấp bang — những đạo luật cấm các hợp đồng giữa công đoàn và người sử dụng lao động yêu cầu nhân viên phải gia nhập công đoàn tại nơi làm việc. Một phần do những áp lực này, tỷ lệ người lao động gia nhập công đoàn tại Hoa Kỳ đã giảm đều đặn từ hơn 30% vào thập niên 1950 xuống còn khoảng 10% hiện nay. Tuy nhiên, theo một cuộc khảo sát của Gallup vào năm 2020, có tới 65% người dân Hoa Kỳ ủng hộ công đoàn, và theo một nghiên cứu năm 2017, gần 50% người lao động không thuộc công đoàn cho biết họ sẽ tham gia công đoàn nếu có cơ hội.

Trong khi đó, các yếu tố cấu trúc đặt lợi ích của cổ đông lên trên lợi ích công chúng tiếp tục làm xói mòn quyền lợi của tầng lớp lao động Hoa Kỳ. Việc mua lại cổ phiếu (trong đó các công ty mua lại cổ phiếu của chính mình nhằm làm tăng giá cổ phiếu) đã gia tăng tại Hoa Kỳ, với tổng giá trị vượt quá 4 nghìn tỷ đô la trong thập niên qua và đạt 795 tỷ đô la chỉ riêng trong năm 2023. Các công ty dược phẩm và sản xuất chi tiêu nhiều cho việc mua lại cổ phiếu hơn là cho đào tạo người lao động, nâng cấp cơ sở hạ tầng và công nghệ, hay nghiên cứu và phát triển. Các thị trường tài chính ngày càng tách rời khỏi nền kinh tế thực, với các khoản đầu tư chủ yếu tập trung vào các công ty tài chính, bảo hiểm và bất động sản. Chiến dịch tranh cử của Harris, nếu có khác biệt, thì lại còn thân thiện với Phố Wall hơn so với chiến dịch của Biden: mức thuế lợi tức vốn (capital gains tax) 28% mà Harris đề xuất đối với những người Mỹ có thu nhập trên 1 triệu đô la mỗi năm thấp hơn đáng kể so với mức gần 40% mà Biden đề xuất vào năm 2020.

Chính sách công nghiệp của chính quyền Biden thực tế đã đạt được một số thành tựu đáng kể, nhưng điều đó không bao giờ có thể trở thành giải pháp toàn diện cho những khó khăn kinh tế mà phần lớn tầng lớp lao động Hoa Kỳ đang phải đối mặt. Đạo luật Giảm lạm phát năm 2022 (Inflation Reduction Act – IRA), chẳng hạn, đã tạo ra hơn 330.000 việc làm trong lĩnh vực năng lượng sạch và thu hút hơn 265 tỷ đô la đầu tư mới vào năng lượng sạch chỉ trong vòng hai năm. Các quy định dành cho người lao động và cộng đồng cũng đã được lồng ghép vào chiến lược của Biden: Đạo luật CHIPS và Khoa học năm 2022 (CHIPS and Science Act, trong đó tôi từng là cố vấn) đã đặt ra các điều kiện để khu vực tư nhân được tiếp cận quỹ CHIPS, bao gồm yêu cầu về mức lương và đảm bảo quyền tiếp cận các phúc lợi như dịch vụ chăm sóc trẻ em với chi phí hợp lý. Tuy nhiên, phạm vi tác động của các chính sách này vẫn còn hạn chế. Chúng được thiết kế để thúc đẩy sản xuất và tạo ra việc làm mới có phúc lợi tốt hơn chỉ trong một số ngành cụ thể, chứ không phải trên toàn bộ nền kinh tế. Việc giới hạn phạm vi chương trình công nghiệp đã khiến chính quyền Biden bỏ lỡ cơ hội thúc đẩy nhanh hơn tiến trình cải cách và khắc phục các điểm yếu kinh tế mang tính cấu trúc.

Ngay cả trong các ngành được bao phủ bởi các chính sách này, chính quyền Biden cũng chưa thực hiện đầy đủ các biện pháp hỗ trợ cộng đồng và người lao động. Ví dụ, các tiêu chuẩn về lương tối thiểu được yêu cầu đối với các công ty nhận tài trợ từ quỹ CHIPS lẽ ra có thể áp dụng cho tất cả các nhóm lao động, chứ không chỉ giới hạn ở công nhân và thợ cơ khí. Thay vì chỉ yêu cầu các cam kết liên quan đến sự tham gia và đầu tư của cộng đồng như một tiêu chí trong quá trình đánh giá hồ sơ, chính phủ lẽ ra có thể bắt buộc các công ty nhận tài trợ phải ký thỏa thuận trao cho các bên liên quan trong cộng đồng một vị trí trên bàn đàm phán. Chính phủ cũng có thể yêu cầu các công ty đưa đại diện người lao động vào ban giám đốc và ký các thỏa thuận nhằm bảo vệ quyền thành lập công đoàn. Việc đầu tư vào năng lực quản lý của chính quyền bang và địa phương cũng có thể giúp giải ngân nguồn vốn nhanh hơn cho các dự án mới, như xây dựng các nhà máy sản xuất chất bán dẫn và triển khai các chương trình đào tạo, tuyển dụng lao động địa phương.

Một chiến lược công nghiệp hiệu quả cần hướng tới việc kiến tạo các cơ hội việc làm tốt cho người lao động không kém gì việc mở rộng cơ hội thị trường cho các doanh nghiệp. Các cuộc đình công của Công đoàn Công nhân ngành ô tô Hoa Kỳ (United Automobile Workers Union) vào năm 2023 đã làm nổi bật rủi ro của việc quá chú trọng vào mục tiêu thứ hai mà bỏ qua mục tiêu đầu tiên. Trước thềm cuộc đình công, cả ba hãng ô tô lớn của Hoa Kỳ đều tìm cách tận dụng các khoản tín dụng thuế và vay lãi suất thấp theo IRA, trong nhiều trường hợp là để xây dựng các cơ sở sản xuất pin không có công đoàn và trả lương thấp hơn nhiều so với tiêu chuẩn ngành. Dù đạo luật này có tạo ra việc làm mới, như các công nhân đình công đã nêu rõ, chất lượng của các việc làm đó vẫn chưa đạt mức có thể chấp nhận được đối với người lao động Hoa Kỳ. Cuối cùng, không đủ người nhận thấy chiến lược công nghiệp của chính quyền Biden mang lại các cơ hội việc làm hấp dẫn — hoặc đạt được các mục tiêu khác mà họ quan tâm. Ngoài việc hỗ trợ quá trình chuyển đổi xanh, chẳng hạn, chiến lược này có thể đã bao gồm các biện pháp nhằm cải thiện khả năng tiếp cận thực phẩm lành mạnh và giá cả phải chăng, hoặc giảm chi phí thuốc kê đơn và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe khác. Một phần nguyên nhân khiến Đảng Dân chủ thất bại đến từ cách họ truyền đạt thông điệp, nhưng quan trọng hơn, họ đã không thực hiện các bước đi đủ táo bạo để cải tổ mô hình kinh tế cơ bản vốn đang không phục vụ lợi ích của đa số người dân Hoa Kỳ.

Một bước tiến, hai bước lùi?

Trong nhiệm kỳ thứ hai, Trump khó có khả năng giải quyết các vấn đề đã làm dấy lên sự bất mãn của cử tri đối với chính quyền Biden và tạo điều kiện cho các thông điệp dân túy của ông nhận được sự hưởng ứng rộng rãi. Nhóm của ông không đưa ra một kế hoạch kinh tế toàn diện mà chỉ đề xuất một tập hợp rời rạc các biện pháp giảm thuế, áp thuế nhập khẩu và nới lỏng quy định tài chính. Họ cũng không xác định được một định hướng rõ ràng nào cho tương lai của chiến lược công nghiệp Hoa Kỳ. Hơn nữa, chủ nghĩa dân tộc kinh tế mà Trump dường như ủng hộ có thể làm trầm trọng thêm các vấn đề trong nước và gây ra bất ổn kinh tế trên toàn cầu.

Nếu tổng thống mới theo đuổi một chiến lược bảo hộ mạnh tay dựa trên các loại thuế quan, người tiêu dùng Hoa Kỳ nhiều khả năng sẽ gánh chịu hậu quả. 

Chính quyền Biden cũng đã tăng một số loại thuế nhập khẩu, bao gồm thuế áp lên hàng hóa Trung Quốc như xe điện, pin mặt trời, thép và nhôm. Tuy nhiên, chính sách theo hướng trọng thương toàn diện hơn của Trump bao gồm đề xuất áp thuế 60% đối với toàn bộ hàng hóa Trung Quốc  hiện chiếm hơn 16% tổng lượng hàng hóa nhập khẩu vào Hoa Kỳ  và mức thuế từ 10 đến 20% đối với tất cả hàng hóa ngoại nhập khác. Những rào cản thương mại như vậy có thể dễ dàng đẩy lạm phát và lãi suất ở Hoa Kỳ tăng vọt. Người tiêu dùng Hoa Kỳ sẽ phải gánh chịu chi phí gia tăng: một nghiên cứu của Trung tâm Hành động Tiến bộ Hoa Kỳ (Center for American Progress Action Fund) ước tính rằng một mức thuế phổ quát 10% sẽ khiến chi phí sinh hoạt tăng thêm 1.500 đô la mỗi người mỗi năm. Hơn nữa, hiện chỉ có bằng chứng hỗn hợp, và trong một số trường hợp còn thiếu thuyết phục, về việc thuế quan có thể thúc đẩy việc làm trong lĩnh vực sản xuất tại Hoa Kỳ. Nếu trong nước không có sẵn các lựa chọn thay thế cho nguyên liệu nhập khẩu, các doanh nghiệp Hoa Kỳ có thể sẽ chuyển chi phí tăng thêm từ hàng hóa nhập khẩu sang cho người tiêu dùng.

Một vài thành viên trong nhóm của Trump, chẳng hạn như Ngoại trưởng Marco Rubio và, ở mức độ thấp hơn, Phó Tổng thống JD Vance đã thúc đẩy mô hình tăng trưởng dựa trên đầu tư thay vì chỉ xây dựng các rào cản thương mại. Rubio ủng hộ một chiến lược dựa trên khuyến khích sản xuất trong nước. Ông chỉ trích Đạo luật CHIPS và Đạo luật IRA vì cho rằng chúng quá tốn kém, mang tính áp đặt từ trên xuống và có nguy cơ tạo ra các méo mó thị trường. Tuy nhiên, ông cũng kêu gọi chính phủ hỗ trợ toàn bộ chuỗi cung ứng, “từ mỏ khoáng sản đến nhà máy.” Nếu một cách tiếp cận như của Rubio chiếm ưu thế trong chính quyền Trump, chiến lược công nghiệp mới có thể vẫn nhấn mạnh đến đầu tư tương tự như chiến lược của Đảng Dân chủ trước đó, nhưng sẽ thiên về nới lỏng quy định và giảm vai trò của nhà nước trong việc định hướng tăng trưởng kinh tế.

Về một số yếu tố cụ thể trong chiến lược công nghiệp của Biden, khả năng duy trì sự liên tục dưới thời Trump là có thể xảy ra. Chính quyền mới có thể loại bỏ các yếu tố như ưu đãi thuế cho năng lượng sạch, nhưng khó có khả năng bãi bỏ hoàn toàn Đạo luật Giảm lạm phát (IRA), vì đạo luật này đã mang lại lợi ích cho các khu vực bầu cử của Đảng Cộng hòa. Việc tiếp tục ưu tiên phát triển ngành bán dẫn trong nước cũng phù hợp với chương trình nghị sự “Nước Mỹ trên hết” của Trump. 

Thực tế, sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế từ lâu đã là một đặc điểm bình thường trong cách tiếp cận chính sách của cả hai đảng. Nếu Trump quyết định cam kết theo đuổi chiến lược công nghiệp  một khả năng không nên bỏ qua thì ông nên tìm cách để chính sách đó phục vụ lợi ích của người lao động Mỹ. Dù việc liên kết chiến lược công nghiệp với các mục tiêu về khí hậu có thể không còn nằm trong chương trình nghị sự, chính quyền Trump vẫn có thể gắn trợ cấp và các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp với những mục tiêu đem lại lợi ích cho người dân, chẳng hạn như bảo đảm nguồn việc làm có thu nhập tốt và cải thiện khả năng tiếp cận thực phẩm cũng như dịch vụ chăm sóc sức khỏe với chi phí hợp lý trên toàn quốc.

Tuy nhiên, các biện pháp mà chính quyền Trump có thể thực hiện nhằm thu hẹp quy mô chính phủ liên bang có thể làm suy giảm năng lực của Washington trong việc theo đuổi các mục tiêu tham vọng không chỉ trong bốn năm tới mà còn về lâu dài. Ban đầu, Trump đã chọn các doanh nhân Elon Musk và Vivek Ramaswamy để lãnh đạo một cơ quan mới có tên là Bộ Hiệu quả Chính phủ (Department of Government Efficiency), mà theo ông sẽ có nhiệm vụ “xóa bỏ bộ máy quan liêu của chính phủ, cắt giảm các quy định dư thừa, loại bỏ chi tiêu lãng phí và tái cơ cấu các cơ quan liên bang.” Cách tiếp cận này sai lầm ở chỗ giả định rằng chính phủ nên được vận hành như một doanh nghiệp; nó không thừa nhận rằng vai trò của nhà nước không chỉ là cung cấp dịch vụ và sửa chữa các thất bại thị trường, mà còn là thiết kế và triển khai các chính sách định hình thị trường nhằm tạo ra lợi ích công cộng. Chính thành công của các công ty do Musk điều hành là kết quả từ sự hỗ trợ của nhà nước: Tesla đã nhận được ít nhất 4,9 tỷ đô la tiền trợ cấp từ chính phủ, còn SpaceX thì phụ thuộc rất nhiều vào các hợp đồng với NASA cũng như vào công nghệ và đội ngũ nhân sự được phát triển và đào tạo tại NASA. Về lâu dài, sức khỏe kinh tế của Hoa Kỳ và tiến trình hướng tới các mục tiêu táo bạo như chuyển đổi sang năng lượng sạch sẽ đòi hỏi một nhà nước có năng lực cao, có thể định hình thị trường, định hướng tăng trưởng và ký kết các thỏa thuận với khu vực tư nhân nhằm tạo ra giá trị công, chứ không chỉ là giá trị tư.

Để xây dựng một nền kinh tế phục vụ lợi ích của toàn dân, đầu tư công là yếu tố then chốt. Đầu tư tư nhân vào sản xuất trong nước sẽ không thể diễn ra nếu không có sự đầu tư của chính phủ, và các doanh nghiệp nếu được để mặc tự quyết định sẽ không nhất thiết đầu tư theo cách đem lại lợi ích cho người lao động. Chính sách công nghiệp theo định hướng sứ mệnh có thể hướng đầu tư tư nhân vào việc giải quyết các vấn đề thực tiễn, chẳng hạn như mở rộng khả năng tiếp cận thực phẩm lành mạnh hoặc giảm phát thải khí nhà kính, từ đó gắn kết các mục tiêu xã hội và môi trường với các cơ hội thị trường trong nước và toàn cầu. Chính phủ có thể thúc đẩy đầu tư và đổi mới sáng tạo trên nhiều lĩnh vực, qua đó thúc đẩy tăng trưởng bao trùm và bền vững. Cách tiếp cận này có thể mang lại kết quả vượt trội hơn nhiều so với chiến lược công nghiệp thông thường—vốn chỉ giới hạn trong việc lựa chọn một số ngành ưu tiên, dễ bị lợi ích tư nhân chi phối và khó tạo ra chuyển đổi kinh tế trên quy mô toàn diện. Chiến lược của chính quyền Biden đã chưa làm được điều đó, và dù chính quyền Trump có cơ hội làm tốt hơn, những tuyên bố ban đầu của họ cho thấy khả năng cao là họ cũng sẽ không đạt được điều đó.

Tìm kiếm những thủ lĩnh

Chủ nghĩa dân tộc kinh tế của Trump cũng có thể gây ra rắc rối cho thế giới. Mức thuế cao của Hoa Kỳ có thể làm dấy lên bất ổn giá cả và các cuộc chiến thương mại khi các quốc gia khác chịu tác động nặng nề trong một nền kinh tế toàn cầu vốn phụ thuộc vào xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Nhiều quốc gia hiện đang theo đuổi chiến lược công nghiệp của riêng mình, xuất phát từ động cơ bảo hộ, lợi ích địa chiến lược và nhận thức rằng quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế carbon thấp mang lại lợi thế tiên phong cho những quốc gia xây dựng được ngành công nghiệp xanh từ sớm. Nếu Trump bãi bỏ các biện pháp nhằm củng cố vị thế dẫn đầu của Hoa Kỳ trong thị trường công nghệ xanh, các quốc gia khác có thể tận dụng cơ hội để giành thị phần. Tuy nhiên, ít nhất trong ngắn hạn, các biện pháp thuế quan của Hoa Kỳ và các biện pháp trả đũa mà chúng gây ra nhiều khả năng sẽ tạo ra các vấn đề như gián đoạn chuỗi cung ứng và gia tăng giá cả, ảnh hưởng đến người dân không chỉ ở Hoa Kỳ mà còn tại nhiều nơi trên thế giới.

Nếu Trump tiếp tục rút lui khỏi việc tham gia các thể chế quốc tế, Hoa Kỳ sẽ để lại một khoảng trống trong hệ thống quản trị toàn cầu. Trong nhiệm kỳ đầu tiên, Trump đã cắt giảm nguồn tài trợ của Hoa Kỳ cho Liên Hợp Quốc, vốn chiếm 22% ngân sách của tổ chức này vào năm 2023. Ông cũng rút Hoa Kỳ khỏi Hội đồng Nhân quyền và UNESCO, đồng thời đe dọa rời khỏi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Chính quyền Biden cũng không có thành tích nổi bật trong lĩnh vực đa phương: Hoa Kỳ vẫn chậm trễ trong việc thanh toán các khoản đóng góp cho Liên Hợp Quốc và tiếp tục chính sách của Trump trong việc ngăn chặn các cuộc bổ nhiệm vào Cơ quan Phúc thẩm của WTO. Việc Hoa Kỳ rút lui đang diễn ra trong bối cảnh niềm tin toàn cầu đối với các thể chế quốc tế trong vai trò điều phối hợp tác thực chất về các vấn đề then chốt đang suy giảm mạnh.

Để ứng phó với biến đổi khí hậu, tình trạng khan hiếm nước và bất bình đẳng toàn cầu, xu hướng này cần phải đảo ngược. Tuy nhiên, các thể chế đa phương hiện nay cần được cải tổ trước. Các cải cách như Sáng kiến Bridgetown, do Thủ tướng Barbados Mia Mottley khởi xướng, là cần thiết để khắc phục một hệ thống tài chính quốc tế đang tước đi khả năng tiếp cận tài chính giá rẻ cho các dự án xanh ở nhiều quốc gia. Sáng kiến này bao gồm các biện pháp nhằm cung cấp thanh khoản khẩn cấp, giảm gánh nặng nợ và tăng cường tài chính phát triển, tất cả nhằm phục vụ cho tăng trưởng bền vững và xây dựng các xã hội có khả năng chống chịu. Các công ước môi trường hiện tại cũng cần coi tài nguyên thiên nhiên thiết yếu là tài sản chung toàn cầu, chẳng hạn trong trường hợp tài nguyên nước, cần áp dụng các mục tiêu định lượng nhằm ổn định chu trình nước.

Việc cải tổ các cấu trúc quản trị toàn cầu cũng là điều cần thiết nhằm tạo điều kiện cho tất cả các quốc gia, không chỉ những nước giàu, theo đuổi chiến lược công nghiệp xanh, phối hợp chính sách và giải quyết các tranh chấp thương mại liên quan. Các quy định của WTO, chẳng hạn, cần được cải cách để không cản trở chính sách xanh của các quốc gia thành viên hoặc gây bất lợi cho các quốc gia có thu nhập thấp hơn. Một cơ chế mới trong khuôn khổ WTO cũng có thể giúp bảo đảm rằng chiến lược công nghiệp của từng quốc gia thành viên không làm suy yếu các mục tiêu chính sách chung. Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon của Liên minh châu Âu (EU), chẳng hạn, là một chính sách có giá trị khi áp dụng thuế carbon đối với hàng hóa nhập khẩu nhằm ngăn chặn việc định giá carbon trong EU đẩy các hoạt động sản xuất thâm dụng carbon sang các quốc gia ngoài EU. Tuy nhiên, mức thuế này cũng đã gây tổn hại đến các nền kinh tế xuất khẩu vào EU. Một cơ chế chuyên biệt trong WTO có thể đóng vai trò là diễn đàn để giải quyết những lo ngại như vậy. Trong trường hợp này, các thỏa thuận để EU cung cấp hỗ trợ tài chính và kỹ thuật nhằm giúp các quốc gia thu nhập thấp và trung bình nâng cao tiêu chuẩn sản xuất có thể đã góp phần giảm thiểu các tác động tiêu cực từ chính sách của EU đối với nền kinh tế của các nước này.

Để hiện thực hóa các cải cách đó, cần có vai trò dẫn dắt. Một Hoa Kỳ từ bỏ chủ nghĩa đa phương khó có thể đảm nhận vai trò này, và Liên hiệp Châu Âu cũng vậy. Tăng trưởng và năng suất của Châu Âu đang chững lại, trong khi các nhà lãnh đạo dân túy ở Hungary, Ý, Hà Lan và các quốc gia khác đang làm suy yếu khả năng hành động tập thể của EU. Nền kinh tế Đức đã suy giảm trong năm nay, và các bất đồng chính trị nội bộ đã cản trở các hành động cần thiết để giải quyết tình hình. Các cuộc biểu tình tại Pháp cho thấy tầng lớp lao động tại quốc gia này  tương tự như ở Hoa Kỳ  không coi quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh là động lực mang lại việc làm tốt hơn. Tất cả những điều đó báo hiệu khó khăn đối với chiến lược công nghiệp xanh của EU, chưa kể đến ảnh hưởng kinh tế toàn cầu của khối. Tại khu vực Mỹ Latinh, chẳng hạn, EU đang chật vật để theo kịp Trung Quốc trong cuộc cạnh tranh về các thỏa thuận thương mại và đầu tư.

Tuy nhiên, trong bối cảnh ảnh hưởng quốc tế của Hoa Kỳ và EU suy giảm, khối BRICS  gồm các thành viên sáng lập là Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi, nay đã mở rộng thêm Ai Cập, Ethiopia, Indonesia, Iran và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất  nhiều khả năng sẽ gia tăng ảnh hưởng. BRICS đã mở rộng cả về quy mô và phạm vi trong hai thập niên qua, hiện chiếm hơn một phần ba nền kinh tế toàn cầu và một nửa dân số thế giới, và khối này đặt mục tiêu trở thành đối trọng với phương Tây trong các thể chế toàn cầu. Gần đây, vai trò chủ tịch G-20 cũng đã chuyển từ một thành viên sáng lập của BRICS là Brazil sang một thành viên sáng lập khác là Nam Phi.

Ngay cả trong bối cảnh bất ổn kinh tế mà chính quyền Trump có thể gây ra, khi trọng tâm của quản trị toàn cầu chuyển dịch, vẫn có thể xuất hiện những cơ hội để định hình lại các chuẩn mực toàn cầu và xây dựng những hình thức hợp tác mới. Chẳng hạn, Nam Phi đã công bố chủ đề nhiệm kỳ chủ tịch G-20 của mình là “đoàn kết, bình đẳng và phát triển bền vững”, và trên thực tế, nước này có thể tận dụng vai trò này để thúc đẩy các chính sách tài chính và quy tắc thương mại công bằng hơn. Với sự ủng hộ từ các thành viên khác của G-20 và BRICS, Nam Phi có thể thúc đẩy các cải cách đối với cấu trúc tài chính toàn cầu nhằm tạo điều kiện giải quyết cuộc khủng hoảng nợ đang bao trùm nhiều quốc gia có thu nhập thấp và trung bình. Nếu không có những cải cách như vậy, gánh nặng nợ nần không thể kiểm soát sẽ tiếp tục cản trở các quốc gia này đầu tư vào chiến lược công nghiệp xanh trong nước hoặc triển khai các biện pháp phòng ngừa và ứng phó với các tình trạng khẩn cấp về khí hậu, y tế và các lĩnh vực khác.

Những mối quan hệ thương mại mới, ít phụ thuộc hơn vào thị trường Hoa Kỳ, cũng có thể hình thành. Nếu các quốc gia có sức ảnh hưởng kinh tế  bao gồm Brazil và Nam Phi  quyết định coi xu hướng bảo hộ của Washington như một cơ hội không chỉ để bảo đảm khả năng tiếp cận thị trường và tăng cường khả năng chống chịu của chuỗi cung ứng mà còn để lồng ghép các tiêu chuẩn về khí hậu và quyền lợi người lao động vào các thỏa thuận mới, thì sự gia tăng của các hoạt động thương mại không xoay quanh Hoa Kỳ có thể định hình lại hệ thống thương mại toàn cầu. Hướng đi này chưa thể chắc chắn, nhưng khả năng toàn cầu rơi vào một cuộc rút lui tập thể theo chủ nghĩa dân tộc cũng không phải điều tất yếu. Nỗ lực tìm kiếm những hình thức hợp tác mới có thể đồng thời phục vụ các mục tiêu xã hội và môi trường, bên cạnh lợi ích kinh tế.

Một thành viên BRICS, Brazil, đang triển khai một chiến lược công nghiệp (mà tác giả có tham gia xây dựng) dựa trên định hướng theo sứ mệnh, và chiến lược này có thể mang lại bài học cho các quốc gia khác. Dựa trên sáu mục tiêu liên quan đến an ninh lương thực, y tế, phát triển đô thị bền vững và đáng sống, chuyển đổi số, chuyển dịch năng lượng và quốc phòng, chiến lược hướng đến việc thúc đẩy đầu tư, kích thích phát triển năng lực sản xuất và công nghệ, mở rộng khả năng tiếp cận thị trường toàn cầu, đồng thời cải thiện chất lượng cuộc sống hằng ngày của người dân. Cách tiếp cận này mang tính cải tiến so với chiến lược công nghiệp truyền thống vốn chỉ tập trung hỗ trợ một số ngành cụ thể – cách làm thường dễ bị lợi ích tư nhân thao túng. Tuy nhiên, vẫn còn phải chờ xem liệu chiến lược của Brazil, được khởi động vào tháng 01.2024 và dự kiến kéo dài đến năm 2033, có thực sự đạt được kỳ vọng về chuyển đổi kinh tế quốc gia hay không, và liệu có thể thành công ở những điểm mà chiến lược của Hoa Kỳ đã thất bại, đặc biệt trong việc phân phối lợi ích đến các nhóm dân cư yếu thế nhất.

Bên cạnh Luiz Inácio Lula da Silva tại Brazil, các nhà lãnh đạo như Keir Starmer tại Vương quốc Anh, Pedro Sánchez tại Tây Ban Nha và Cyril Ramaphosa tại Nam Phi đều đã cam kết đặt con người và hành tinh làm trung tâm trong chính sách kinh tế quốc gia. Giờ đây, các nhà lãnh đạo này cần rút ra bài học từ những thiếu sót trong chính sách của chính quyền Biden. Họ cần bác bỏ lối tư duy nhị nguyên sai lầm giữa thịnh vượng kinh tế và phát triển bền vững về môi trường; xây dựng các chính sách mạnh mẽ để ngăn chặn bất bình đẳng thay vì chỉ dựa vào các biện pháp phân phối lại sau khi vấn đề đã phát sinh; đồng thời hình thành các mối quan hệ hợp tác và tương hỗ với doanh nghiệp và công đoàn nhằm bảo đảm rằng nền kinh tế tăng trưởng một cách toàn diện và công bằng. Nếu họ thành công ở trong nước, họ có thể tạo đà cho các cải cách trong chính sách tài chính và thương mại toàn cầu, từ đó cho phép các quốc gia khác đi theo hướng tiếp cận tương tự.

Kỷ nguyên tham vọng

Giai đoạn hiện tại chứa đựng nhiều rủi ro nghiêm trọng. Hoàn toàn có thể hình dung một kịch bản trong đó xu hướng trọng thương của một số nền kinh tế lớn đẩy kinh tế thế giới vào vòng xoáy suy thoái với các biện pháp thương mại trả đũa lẫn nhau, sự quay lưng với các thể chế đa phương, và việc từ bỏ hợp tác toàn cầu trong xử lý các cuộc khủng hoảng mang tính toàn cầu. Kết cục này sẽ chỉ đem lại lợi ích cho rất ít quốc gia, đồng thời khiến các giải pháp bền vững cho những vấn đề chung ngày càng trở nên xa vời hơn.

Tuy nhiên, thời điểm hiện tại cũng mở ra cơ hội để chấm dứt mô hình kinh tế thất bại vốn đề cao lợi ích tư nhân hơn lợi ích công, và thay thế bằng một trật tự kinh tế toàn cầu bền vững và công bằng hơn. Việc tái cấu trúc này thoạt nhìn có thể dựa trên những hy vọng mong manh. Các nhà lãnh đạo cần đưa ra một tầm nhìn táo bạo nhằm cải tổ hệ thống tài chính và thương mại quốc tế, đồng thời sẵn sàng đối đầu với các nhóm lợi ích đang chi phối. Họ cần xây dựng các liên minh trong nước mới—tái thiết lập mối quan hệ giữa nhà nước, doanh nghiệp và công đoàn và hình thành các liên minh quốc tế mới, tìm kiếm các quốc gia có cùng chí hướng để biến cải cách toàn cầu trở thành một khả năng thực tế. Họ cũng phải thuyết phục người dân rằng dự án này sẽ mang lại lợi ích cho tất cả mọi người. Không điều gì trong số này là đơn giản, nhưng cũng không phải bất khả thi. Trong thời kỳ chuyển tiếp hiện nay, tương lai vẫn còn có thể được định hình.

Khi Brazil, Nam Phi, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, và các nền kinh tế lớn khác cân nhắc con đường tiếp theo, thất bại của Harris trước Trump là một lời cảnh báo. Tấm gương của Hoa Kỳ không nên là động lực dẫn tới việc áp dụng các chính sách kinh tế khép kín và từ bỏ đầu tư công cho phúc lợi xã hội và hành động vì khí hậu; ngược lại, bài học rút ra phải là sự nguy hiểm của việc thiếu khát vọng. Trật tự kinh tế hiện tại đang phớt lờ các lợi ích của con người và hành tinh, và thế giới cần một hệ thống có thể phục vụ cho cả hai. Để đạt được thay đổi đó, không thể chỉ điều chỉnh ở những chi tiết nhỏ mà cần một cuộc tái cấu trúc sâu rộng về cách thức vận hành của các nền kinh tế và về nhóm đối tượng mà các nền kinh tế đó phục vụ.

M.M.

---

Mariana Mazzucato là là Giáo sư tại University College London, Đồng chủ tịch Nhóm chuyên gia của Lực lượng đặc nhiệm G-20 về Huy động toàn cầu chống biến đổi khí hậu và là tác giả của cuốn Mission Economy: A Moonshot Guide to Changing Capitalism. Bài viết được đăng tại https://www.foreignaffairs.com/south-africa/broken-economic-order-mariana-mazzucato.

Lê Bá Nhật Thắng là cộng tác viên Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.

Nguồn bản dịch: Đại Sự Ký Biển Đông

 

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn