Nhà kinh tế Hoa Kỳ nói về hệ thống thương mại toàn cầu mới

Noah Berman phỏng vấn Oren Cass | The Wire China ngày 16 tháng 4 năm 2025

Biên dịch: Lê Bá Nhật Thắng | Hiệu đính: Hương Nguyễn

Oren Cass là người sáng lập kiêm kinh tế trưởng của American Compass, một tổ chức tư vấn chính sách theo khuynh hướng bảo thủ. Cuốn sách xuất bản năm 2018 của ông, The Once and Future Worker, tìm cách lý giải cách chính sách công của Hoa Kỳ đã bỏ lại phía sau tầng lớp lao động chân tay. Tác phẩm đã nhận được lời khen ngợi từ Phó Tổng thống JD Vance và Ngoại trưởng Marco Rubio. Kể từ đó, ông nổi lên như một tiếng nói có ảnh hưởng ủng hộ các biện pháp thuế quan và việc tách rời nền kinh tế Hoa Kỳ khỏi Trung Quốc. Cass đã trao đổi với The Wire về cách Tổng thống Trump sử dụng thuế quan và vì sao ông cho rằng đây là một nỗ lực nhằm theo đuổi một hình thức hệ thống thương mại mới do Hoa Kỳ dẫn dắt. Dưới đây là bản rút gọn và biên tập lại từ cuộc trò chuyện của chúng tôi.

Hỏi: Ông dành nhiều thời gian để thách thức quan điểm kinh tế truyền thống về thuế quan và những khía cạnh khác của thương mại tự do. Vậy tại sao thuế quan có thể là một điều tốt cho nền kinh tế Hoa Kỳ, và không phải là một loại thuế đánh vào người tiêu dùng và cuối cùng gây tổn hại cho nền kinh tế?

Trả lời: Điểm khởi đầu là cần cố gắng hiểu chính xác lập luận chính thống ủng hộ thương mại tự do là gì. Điều sai lầm không phải ở chỗ các phân tích nền tảng của Adam Smith và David Ricardo sai lệch, mà ở hệ thống chúng ta đang có hiện nay không còn giống với những gì họ đã viết.

Vấn đề thứ hai là chúng ta đã xác định mục tiêu tối thượng của nền kinh tế và chính sách kinh tế chỉ đơn thuần là nâng cao phúc lợi người tiêu dùng, nghĩa là có được nhiều hàng hóa nhất với giá rẻ nhất và tốn ít sức lao động nhất. Ở một mức độ nào đó, chúng ta đã đạt được điều đó. Thực tế, chúng ta hiện có thể tiếp cận với nhiều hàng hóa giá rẻ hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, không có mối tương quan đặc biệt mạnh mẽ giữa kết quả đó và sự thịnh vượng của con người, các gia đình và cộng đồng vững mạnh, và một quốc gia hùng mạnh mà chúng ta thực sự quan tâm.

Những gì chúng ta có trong hệ thống thương mại quốc tế ngày nay là một tình huống mà toàn cầu hóa và các lựa chọn chính sách có chủ đích của các quốc gia khác đã dẫn đến việc chuyển dịch sản xuất ồ ạt ra khỏi Hoa Kỳ, năng lực công nghiệp của Hoa Kỳ bị rút ruột nghiêm trọng, và một hệ thống thương mại trong đó Hoa Kỳ chịu thâm hụt khổng lồ.

Hỏi: Đồng thời, kể từ khi Hoa Kỳ thiết lập hệ thống thương mại toàn cầu sau Thế chiến II, nước này đã trở thành quốc gia thịnh vượng và quyền lực nhất thế giới.

Trả lời: Tôi không thấy có bằng chứng nào cho thấy điều sau là kết quả trực tiếp của điều trước. Trên thực tế, nếu xem xét các nhà kinh tế hàng đầu thời đại đó, từ Paul Samuelson, người đã viết giáo trình kinh tế học tiêu chuẩn vào những năm 1940, đến Fred Bergsten, người từng phục vụ trong chính quyền Nixon và Carter vào những năm 1970 và sau này thành lập Viện Kinh tế Quốc tế Peterson, họ sẽ nói rằng [thương mại tự do] chủ yếu là một công cụ của chính sách đối ngoại. Mục tiêu là tái thiết phần còn lại của thế giới dân chủ phương Tây. Nó không nhất thiết được thiết kế để thúc đẩy các kết quả kinh tế.

Điều đặc biệt quan trọng là phải phân biệt rõ hai thời kỳ: trước và sau Chiến tranh Lạnh. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ giữ vai trò trung tâm trong một liên minh an ninh-kinh tế, và hoạt động trong một hệ thống mà trong đó, bên cạnh những yếu tố khác, thương mại thường khá cân bằng, cấu trúc thương mại toàn cầu dựa trên nguyên tắc có đi có lại, và Hoa Kỳ là cường quốc công nghiệp vượt trội.

Trong thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ chuyển sang thúc đẩy một mô hình toàn cầu hóa không giới hạn và giả định rằng việc chấp nhận cả những quốc gia rõ ràng không dân chủ, phi thị trường như Trung Quốc rốt cuộc sẽ dẫn đến việc những nước này dân chủ hóa và mang lại mọi điều tốt đẹp mà chúng ta mong muốn. Chính trong thời kỳ đó, mọi thứ bắt đầu chệch hướng, thâm hụt thương mại gia tăng mạnh, và Hoa Kỳ đơn giản từ chối kiềm chế hoặc đối đầu với những lạm dụng mà họ phải đối mặt.

Hỏi: Ông đánh giá bao nhiêu phần trăm của điều đó là do tự động hóa và thay đổi công nghệ?

Trả lời: Cách tốt nhất để đo lường tác động của tự động hóa hoặc tiến bộ công nghệ đối với việc làm trong lĩnh vực sản xuất là xem xét dữ liệu năng suất. Theo định nghĩa, dữ liệu năng suất đo lường lượng lao động cần thiết để tạo ra một mức sản lượng nhất định. Tiền đề cơ bản của tự động hóa là nó giúp tăng năng suất tức là có thể tạo ra sản lượng cao hơn với ít lao động hơn. Điều đó cũng có nghĩa là người lao động nên và thường sẽ nhận được mức lương cao hơn.

Do đó, nếu tự động hóa là lời giải thích cho sự sụt giảm đột ngột việc làm trong khu vực sản xuất, lẽ ra chúng ta phải quan sát được một mức tăng đáng kể về tự động hóa, được phản ánh qua mức tăng trưởng năng suất lao động cao. Nhưng thực tế, điều đó không xảy ra. Tăng trưởng năng suất trong sản xuất không hề tăng. Trong suốt thập niên qua, năng suất sản xuất này thậm chí còn có xu hướng giảm. Vì vậy, bất kỳ điều gì thay đổi đột ngột, trùng với thời điểm chúng ta chuyển sang hệ thống toàn cầu hóa và chào đón Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2001, có lẽ liên quan nhiều hơn đến sự thay đổi trong cấu trúc thương mại toàn cầu, chứ không phải do năng suất lao động tăng.

Hỏi: Tổng thống Trump đã áp thuế quan trên diện rộng đối với phần còn lại của thế giới. Phản ứng của thị trường rất gay gắt. Ông đánh giá thế nào về việc thực thi chính sách này? Liệu chính quyền có nên kiên định ngay cả khi chúng gây hậu quả lớn đối với thị trường?

Trả lời: Thật đáng khích lệ khi thấy những thất bại của hệ thống kinh tế quốc tế và vấn đề mất cân đối thương mại được đặt vào vị trí trung tâm của các thảo luận chính sách, và có một chính quyền sẵn sàng chấp nhận các chi phí ngắn hạn cần thiết nhằm tạo ra những cải thiện dài hạn.

Để giảm thiểu chi phí và tối đa hóa lợi ích của quá trình chuyển đổi, cần phải áp dụng thuế quan theo từng giai đoạn để tránh áp đặt gánh nặng quá lớn trước khi các doanh nghiệp và chính phủ có thể điều chỉnh hướng đi; phải xác định rõ mức thuế nào được coi là lâu dài và đưa thành luật một cách phù hợp; đồng thời phải truyền đạt một tầm nhìn rõ ràng về trật tự kinh tế tương lai, lộ trình từ hiện tại tới đó, và những yêu cầu mà Hoa Kỳ sẽ đặt ra cho các đồng minh.

Nếu chính quyền có thể điều chỉnh theo ba hướng này, hệ quả đối với thị trường sẽ dễ kiểm soát hơn nhiều và sự ủng hộ chính trị có thể sẽ bền vững hơn.

Hỏi: Mục tiêu của chính quyền đối với thuế quan đối với Trung Quốc khác biệt như thế nào so với các biện pháp thuế quan áp dụng chung đối với toàn cầu?

Trả lời: Những quan ngại mà chúng ta có đối với Trung Quốc vượt xa các vấn đề kinh tế cơ bản như cán cân thương mại, mà liên quan đến sự không tương thích mang tính nền tảng giữa các hệ thống kinh tế và chính trị của hai bên, cũng như mối quan hệ mang tính đối đầu rõ ràng và không thể tránh khỏi. Do đó, đối với Trung Quốc, mục tiêu cốt lõi là chuyển chuỗi cung ứng ra khỏi nước này. Việc sản xuất được đưa trở lại Hoa Kỳ hay chuyển sang các quốc gia thân thiện hơn chỉ là mối quan tâm thứ yếu và đây chính là lý do khái niệm “friendshoring” được nhắc đến nhiều.

Hoa Kỳ sẽ ưu tiên để Mexico và các doanh nghiệp Mexico sản xuất những sản phẩm mà hiện nay Trung Quốc và các công ty do Đảng Cộng sản Trung Quốc kiểm soát đang sản xuất. Vì vậy, đây trở thành một trọng tâm chính sách độc lập, tách biệt khỏi những vấn đề rộng hơn về cán cân kinh tế toàn cầu.

Hỏi: Có vẻ như chính quyền Trump đang cố gắng đạt được nhiều mục tiêu với thuế quan, dù đó là giành đòn bẩy đàm phán, tái công nghiệp hóa Hoa Kỳ, hay chuyển dịch chuỗi cung ứng. Ông có nghĩ rằng những mục tiêu này mâu thuẫn với nhau, và nếu có, liệu điều đó có khiến chúng trở nên khó đạt được hơn không?

Trả lời: Trong phần lớn trường hợp, các mục tiêu này có thể phù hợp với nhau. Sự phân biệt đầu tiên mà bạn đã đề cập, đó là một điểm quan trọng và thực sự tạo ra một số căng thẳng, đó là sự khác biệt giữa việc sử dụng thuế quan như một công cụ kinh tế và thuế quan như một công cụ của chính sách đối ngoại. Và ở đây, tôi nghĩ điều quan trọng là phải nhận ra rằng mặc dù bạn đang nói về cùng một chính sách, một thuế quan, nhưng bạn đang sử dụng nó với những mục đích hoàn toàn khác nhau, theo những cách thức hoàn toàn khác nhau, với những tác động hoàn toàn khác biệt.

Khi bạn nói, chúng ta muốn một quốc gia thay đổi hành vi theo cách này, và nếu không, chúng ta sẽ áp dụng thuế quan này cho đến khi quốc gia đó thay đổi, điều đó không có nghĩa là bạn gặp phải vấn đề về chuỗi cung ứng hay dòng chảy kinh tế. Mà thực tế, đó là vấn đề chính sách đối ngoại, về cơ bản, và giống như bạn có thể sử dụng các biện pháp trừng phạt, hoặc thậm chí là sức mạnh quân sự, bạn đang sử dụng thuế quan để cố gắng đạt được điều bạn muốn.

Một điều rất có giá trị và mang tính xây dựng mà chính quyền Trump đã đưa ra là nguyên tắc rằng địa kinh tế, việc sử dụng sức mạnh kinh tế như một công cụ của chính sách đối ngoại, là hợp pháp và là điều mà Hoa Kỳ nên đưa lên bàn đàm phán. Hoa Kỳ có lợi thế trong việc sử dụng địa kinh tế, trong khi trong suốt nhiều thập kỷ, nước này gần như đã tự trói tay mình vì cố gắng thúc đẩy trật tự thế giới tự do này.

Ngược lại, khi bạn nói về việc tăng dần thuế quan đối với Trung Quốc theo thời gian, khi bạn nói về ý tưởng thu hồi Quy chế Tối huệ quốc (PNTR) với Trung Quốc, đặc biệt, ý định không phải là nếu Trung Quốc làm X thay vì Y, chúng ta sẽ vui mừng hủy bỏ những thuế quan này. Mà thực tế, đây là một chính sách kinh tế tốt hơn cho Hoa Kỳ trong dài hạn. Không có sự mâu thuẫn hay thiếu nhất quán khi nói rằng chúng ta sẽ sử dụng thuế quan như một yếu tố cơ bản trong chính sách kinh tế của mình.

Chính quyền Trump đã gặp phải một số thách thức ngay từ đầu. Đã có rất nhiều biến động giữa hai phạm trù này. Liệu thuế quan có tập trung vào các vấn đề kinh tế, hay liệu nó đang được sử dụng như một công cụ đàm phán? Liệu mục tiêu là để thay đổi hành vi kinh tế trong dài hạn, hay đây chỉ là một biện pháp tạm thời ngắn hạn? Nếu mọi người không biết bạn đang sử dụng nó như thế nào, tại sao lại làm vậy, hoặc bạn muốn gì, thì cuối cùng bạn sẽ gặp phải sự nhầm lẫn và bất ổn, và bạn sẽ không đạt được cả lợi ích từ việc đàm phán lẫn lợi ích kinh tế từ những thay đổi dài hạn trong việc triển khai vốn.

Hỏi: Có vẻ như cũng có sự quan tâm đến một dạng thỏa thuận giữa chính quyền Trump và Trung Quốc. Ông kỳ vọng thỏa thuận đó sẽ trông như thế nào nếu mục tiêu cơ bản là duy trì một mức độ rào cản kinh tế giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc?

Trả lời: Chắc chắn có không gian cho đàm phán và tiến triển trong quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Tuy nhiên, việc tách rời hai nền kinh tế và thiết lập các rào cản đáng kể giữa chúng hiện nay đã là một mục tiêu độc lập được hiểu rõ, và thực tế, đó là trạng thái cân bằng được ưa chuộng.

Đây là một sự thay đổi so với chính quyền Trump đầu tiên, khi có một cảm giác mạnh mẽ rằng chúng ta chỉ cần thực hiện một thỏa thuận lớn với Trung Quốc: chúng ta cần thuyết phục họ đồng ý thay đổi các thực tiễn của họ, và sau đó chúng ta có thể quay lại với một mối quan hệ thương mại tự do hạnh phúc. Tôi không nghĩ đó là quan điểm của chính quyền Trump vào thời điểm này. Chỉ dấu rõ ràng của điều này là từ chính Trump, và ngày càng nhiều trong Đảng Cộng hòa và thậm chí trên cơ sở lưỡng đảng, có sự ủng hộ cho ý tưởng thu hồi PNTR. Thu hồi PNTR và loại Trung Quốc khỏi danh sách các quốc gia được đối xử ưu đãi nhất không phải là một chiến thuật đàm phán.

Nếu bạn nhìn vào những bình luận mà nhiều quan chức cấp cao đã đưa ra, chẳng hạn như Bộ trưởng Tài chính Scott Bessent về mặt kinh tế, và Ngoại trưởng Marco Rubio về mặt chính sách đối ngoại, điều bạn sẽ nghe thấy là sự nhận thức và chấp nhận lớn hơn rằng thế giới đang di chuyển khỏi khoảnh khắc đơn cực với sự thống trị của Hoa Kỳ và các nỗ lực duy trì trật tự thế giới tự do toàn cầu, chuyển sang một thế giới đa cực với các khối đối đầu – một khối xoay quanh Hoa Kỳ và một khối khác xoay quanh Trung Quốc.

Bạn đang thấy một sự tiến triển liên tục từ những năm 2000, khi Hoa Kỳ ôm ấp Trung Quốc, đến những năm 2010 khi nhận ra chiến lược này rõ ràng đã thất bại, nhưng chúng ta vẫn có thể duy trì thương mại, và bây giờ là nhận thức rằng chúng ta đang chuyển sang một thời đại mới của quan hệ an ninh và kinh tế; và đó sẽ không phải là một thời đại mà lợi ích của Hoa Kỳ sẽ là bị ràng buộc với Trung Quốc, giống như đó không phải là lợi ích của Hoa Kỳ khi duy trì một thị trường chung mở với Liên Xô.

Hỏi: Trong chiến dịch tranh cử, Trump đã nhiều lần đề cập rằng các nhà sản xuất ô tô Trung Quốc nên đầu tư vào Hoa Kỳ nếu họ không muốn đối mặt với thuế quan. Điều này có thay đổi nhận thức của ông về việc liệu chính quyền có ưu tiên việc tách rời hai nền kinh tế không?

Trả lời: Chắc chắn đã có một số bình luận không chính thức theo hướng đó, và chúng có thể được hiểu tốt nhất trong bối cảnh của lập luận chung về thuế quan. Mỗi khi Trump nói về thuế quan, ông ấy luôn nhấn mạnh: “Này, nếu các ông không muốn phải trả thuế quan, thì chỉ cần xây dựng sản phẩm đó ở Hoa Kỳ”.

Nhìn chung, nếu bạn xem xét những gì chính quyền đang làm đối với Trung Quốc, và sự tăng cường của Quốc hội trong việc áp dụng các hạn chế đầu tư ra ngoài đối với Trung Quốc, thì khá rõ ràng rằng mục tiêu cuối cùng không phải là “hãy tìm cách thu hút thêm dòng vốn đầu tư từ Trung Quốc”. Mà là chúng ta sẽ phải ngăn chặn những dòng vốn đầu tư này từ Trung Quốc. Điều này không chỉ áp dụng cho Hoa Kỳ, mà còn cho các đối tác thương mại của Hoa Kỳ. Nếu anh muốn sản phẩm của mình đến thị trường Hoa Kỳ được coi là có xuất xứ từ Mexico, thì chúng không được phép xuất phát từ một nhà máy của BYD.

Hỏi: Trong cuốn sách của mình, ông chỉ ra một số nhược điểm của thuế quan, bao gồm việc khi áp thuế quan quá rộng, chúng có thể làm chậm giao thương một cách tùy tiện, và khi chúng được nhắm vào các ngành cụ thể, chúng có thể tạo ra đặc lợi mà các ngành công nghiệp cố gắng theo đuổi. Ông viết rằng một “thuế quan được áp dụng một cách chiến lược” có thể dễ dàng bị đối phó bằng một “trợ cấp chiến lược”. Quan điểm của ông về vấn đề này đã phát triển như thế nào?

Trả lời: Tôi luôn nhấn mạnh rằng thuế quan không phải là một giải pháp vạn năng, mang lại mọi lợi ích mà không có chi phí và giải quyết được tất cả các vấn đề. Gần đây, một phần trong cách suy nghĩ của tôi đã thay đổi khi nhận ra rằng, từ góc độ kinh tế chính trị, tính chất không chọn lọc của thuế quan thường mang lại lợi ích. Từ góc độ thiết kế chính sách, có thể lập luận rằng một thuế quan không chọn lọc, áp dụng trên diện rộng sẽ không mang lại kết quả tối ưu, nhưng trong thực tế, với các lựa chọn có sẵn cho các nhà hoạch định chính sách, một thuế quan tương đối rộng rãi và không chọn lọc là phương án khả thi nhất để tiến gần nhất đến mục tiêu đề ra.

Hỏi: Ông có dự đoán rằng các trợ cấp chiến lược sẽ xuất hiện ở các quốc gia khác để phản ứng đối với thuế quan của Trump không?

Trả lời: Thành thật mà nói, thực tế đã có rất nhiều trợ cấp nặng nề. Nói chung, đó không phải là điều tôi lo lắng, đặc biệt là khi áp dụng một cách tiếp cận tương đối rộng. Nhưng điều này chỉ ra rằng, nếu bạn thực sự quan tâm đến việc sản xuất vi mạch trong nước, bạn cần nhận ra rằng mình sẽ phải thực hiện các biện pháp cụ thể như Đạo luật CHIPS để hỗ trợ ngành công nghiệp này. Chỉ áp dụng thuế quan toàn cầu và tin rằng điều đó sẽ vượt qua được các khoản trợ cấp của nước ngoài cho ngành vi mạch là không đủ để đưa một ngành công nghiệp quan trọng như vậy trở lại trong nước.

Hỏi: Đó dường như là một lĩnh vực mà chính quyền Biden và chính quyền Trump có cách tiếp cận khác nhau. Vậy, cách tiếp cận nào là hiệu quả nhất?

Trả lời: Tôi nghĩ chắc chắn cần một sự kết hợp. Thuế quan trên diện rộng là cách hiệu quả nhất để giải quyết những mất cân bằng có tính hệ thống trên diện rộng trong nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, nếu có một ngành công nghiệp hoặc sản phẩm cụ thể mà bạn đặc biệt quan tâm đến việc hồi hương sản xuất trong nước, bạn không thể chỉ dựa vào thuế quan trên diện rộng để đạt được điều đó.

Hỏi: Một điều khiến tôi ngạc nhiên là trong cuốn sách của ông, ông đã ủng hộ một số hiệp định thương mại, bao gồm Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), mà Trump đã gọi là “một cuộc xâm hại đất nước chúng ta”Ngay cả Hillary Clinton cũng không ủng hộ hiệp định đó. Điều gì khiến ông nghĩ rằng những loại thỏa thuận này là ý tưởng tốt, ngay cả khi ông nói rằng hệ thống thương mại tổng thể đã dẫn đến rất nhiều chi phí?

Trả lời: Điều này nói lên mục tiêu cuối cùng mà chúng ta muốn hướng tới, đó không phải là các hàng rào thuế quan cao ở mọi nơi. Mà là đạt được thương mại cân bằng, chủ yếu trong một khối các quốc gia thân thiện. Lý tưởng nhất, Hoa Kỳ sẽ thiết lập thương mại tự do với các đồng minh, và thương mại đó sẽ được cân bằng. Khi thị trường này có quy mô tương đối lớn hơn, điều đó sẽ mang lại lợi ích cho Hoa Kỳ cả về kết quả kinh tế và an ninh quốc gia. Câu hỏi đặt ra là: Làm thế nào để thực hiện đồng thời cả hai mục tiêu này, hoặc nếu không, làm thế nào để sắp xếp chúng theo trình tự hợp lý?

Tôi nghĩ những gì bạn đang thấy chính quyền Trump tập trung hiện nay là: được rồi, làm thế nào để tạo ra một cấu trúc mới? Về cơ bản, chúng ta sẽ thiết lập lại các quy tắc. Thay vì cố gắng chuyển đổi dần từ hiện trạng sang một điều gì đó mới mẻ, chúng ta sẽ quay lại điểm xuất phát và tuyên bố rằng mặc định bây giờ là anh ở ngoài. Nếu anh muốn gia nhập, đây là những điều kiện.

Một phần, đây là phản ứng trước sự suy thoái liên tục của hệ thống thương mại hiện tại. Chúng ta có xu hướng quên mất hệ thống WTO thực tế còn rất non trẻ. Nó chỉ bắt đầu từ giữa thập niên 1990. Trung Quốc gia nhập vào năm 2001. Và đến khoảng năm 2012, nhiều người đã nhận định rằng hệ thống này hoàn toàn thất bại. Và giờ đây, chúng ta chứng kiến một chính quyền có tầm nhìn rõ ràng về một mô hình tốt hơn mà họ muốn hướng tới, và họ đang bắt tay vào xây dựng mô hình đó.

Hỏi: Mô hình đó là gì? Làm sao để có thương mại cân bằng đồng thời với thương mại tự do mà không có thuế quan cao đối với các ngành công nghiệp mà ông đang cố gắng bảo vệ?

Trả lời: Cán cân thương mại phụ thuộc vào chính sách ở các quốc gia khác nhau. Điều quan trọng cần ghi nhớ là khái niệm lợi thế so sánh – nền tảng của mô hình thương mại tự do cổ điển – không hàm ý rằng có thể tồn tại những mất cân bằng lớn, với một số quốc gia tự nhiên phải gánh chịu thâm hụt thương mại khổng lồ, trong khi những quốc gia khác trở thành trung tâm sản xuất toàn cầu. Thay vào đó, những gì được sản xuất ở đâu phụ thuộc vào nguồn lực tự nhiên của từng quốc gia, chủ yếu liên quan đến nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên. 

Để hệ thống này vận hành hiệu quả, cần có một nhóm các quốc gia cùng nhận thấy giá trị của mô hình đó, thay vì theo đuổi các chính sách “làm giàu bằng cách làm nghèo hàng xóm”, vốn nhằm mục đích tối đa hóa lợi ích bản thân bằng cách gây tổn hại cho các nước khác.

Chính quyền Trump về cơ bản đang thay đổi bộ lựa chọn. Trước đây, các quốc gia có thể làm bất cứ điều gì họ muốn, và Hoa Kỳ chỉ mỉm cười chấp nhận, dẫn đến việc lựa chọn tối ưu của các quốc gia khác là những hành động phản tác dụng gây tổn hại kinh tế cho Hoa Kỳ. Giờ đây, chính quyền Trump tuyên bố rằng lựa chọn đó không còn tồn tại. Các quốc gia hoặc phải hành xử đúng đắn, ủng hộ một hệ thống thương mại tự do cân bằng, hoặc không. Sẽ có những hậu quả thực sự, và các quốc gia khác phải tự quyết định hướng đi của mình. Nhưng tôi nghĩ rằng nếu bạn là đồng minh chính của Hoa Kỳ, bạn sẽ nói: “Vâng, điều đó nghe có vẻ khá hợp lý”.

Hỏi: Như ông đã dự đoán trước đó, hệ thống thương mại toàn cầu sẽ co cụm thành các khối do Hoa Kỳ và Trung Quốc dẫn đầu. Nhưng hiện tại, nhiều quốc gia đang bất mãn với Hoa Kỳ về chính sách thuế quan. Điều gì sẽ là động lực giúp họ vượt qua sự thất vọng này và chọn Hoa Kỳ trong tầm nhìn về hệ thống thương mại đó?

Trả lời: Động lực giúp họ vượt qua thất vọng chính là thực tế. Điều khiến họ bức xúc, trước hết, là hệ thống cũ mà họ ưa thích sẽ không còn tồn tại. Tôi khá chắc rằng nếu phải lựa chọn giữa việc đi một mình, hợp tác với Trung Quốc, hoặc làm việc với Hoa Kỳ, phần lớn sẽ nhanh chóng hứng thú với lựa chọn Hoa Kỳ.

Dĩ nhiên, sẽ có một giai đoạn chuyển tiếp với nhiều gián đoạn và bất đồng nhỏ lẻ. Nhưng tôi khó có thể nghiêm túc xem xét lập trường của một quốc gia như Canada khi họ nói: “Chúng tôi rất bị xúc phạm bởi Hoa Kỳ. Chúng tôi thực sự nghĩ rằng liên minh với Trung Quốc sẽ tốt hơn”. Hoa Kỳ vẫn còn rất nhiều dư địa trong cách hành xử trước khi lập trường đó trở nên thực sự khả thi đối với Canada. Điều này không có nghĩa là Hoa Kỳ nên đẩy quá xa, nhưng có nghĩa là các quốc gia khác sẽ phải chấp nhận rằng Hoa Kỳ sẽ thúc đẩy lợi ích của chính mình.

Hỏi: Trước đây, ông đã nói rằng mối quan ngại của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc phản ánh sự “không tương thích cơ bản” giữa hệ thống kinh tế và chính trị của hai nước. Điều gì khiến hai hệ thống không tương thích đến vậy?

Trả lời: Trung Quốc là một nền kinh tế phi thị trường, bị chi phối bởi Đảng Cộng sản điều hành một chế độ độc tài toàn trị, trong khi Hoa Kỳ là một nền dân chủ thị trường. Trong lịch sử loài người, chưa từng có trường hợp nào hai hệ thống như vậy tích hợp thành công thị trường của họ.

Điểm mấu chốt là thương mại tự do và thị trường tự do chỉ nhất quán khi nói đến thương mại tự do giữa các quốc gia có thị trường tự do. Nếu đề xuất thương mại tự do giữa thị trường Hoa Kỳ và Trung Quốc, điều đó đồng nghĩa với việc mọi quyết định của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) và những méo mó mà nó gây ra cũng sẽ được nhập khẩu vào thị trường nội địa Hoa Kỳ. Điều này hoàn toàn không tương thích với các giá trị của Hoa Kỳ cũng như các chính sách mà Hoa Kỳ tin là tốt nhất cho công dân của mình.

Điều khiến một nền dân chủ thị trường hoạt động là bạn có thể tin tưởng rằng các nhà lãnh đạo doanh nghiệp trong khu vực tư nhân, khi theo đuổi lợi nhuận, sẽ tập trung vào cách tối ưu để đạt được điều đó. Nếu bạn nói với các tập đoàn Hoa Kỳ rằng con đường tốt nhất để tối đa hóa lợi nhuận và gia tăng giá trị doanh nghiệp là trở nên thân thiện với ĐCSTQ và làm theo ý muốn của họ, thì đó chính là điều mà các nhà lãnh đạo doanh nghiệp Hoa Kỳ sẽ thực hiện.

Hoặc bạn quan tâm đến những giá trị đó, hoặc bạn không. Nhưng nếu thực sự muốn Hoa Kỳ duy trì các giá trị Mỹ, cả về kinh tế lẫn chính trị, thì không thể để họ chịu sự chi phối của ĐCSTQ.

Hỏi: Tại sao lại xấu cho nền kinh tế Hoa Kỳ nếu một doanh nghiệp Trung Quốc trong lĩnh vực không rủi ro, như một chuỗi cà phê Trung Quốc mở cửa hàng tại Hoa Kỳ, đầu tư vào Hoa Kỳ và tuyển dụng lao động Hoa Kỳ? 

Trả lời: Đó là một câu hỏi mang tính vụn vặt và không thực tế. Không ai tập trung hay lo ngại chính về việc một quán cà phê Trung Quốc mở tại Hoa Kỳ.

Hỏi: Ý tôi là nói chung về bất kỳ lĩnh vực nào không gây rủi ro an ninh quốc gia và đầu tư tạo ra việc làm. Tại sao điều đó lại xấu?

Trả lời: Điểm khác biệt tôi muốn nhấn mạnh là nếu đầu tư đến từ ĐCSTQ, những người điều hành khoản đầu tư đó không ra quyết định dựa trên logic thị trường, mà dựa trên việc tuân thủ các ưu tiên của ĐCSTQ. Thứ hai, họ sẽ được ĐCSTQ trợ cấp nếu đó là điều ĐCSTQ mong muốn. Điều này có nghĩa là các công ty Hoa Kỳ phải cạnh tranh với một thực thể không hướng tới tối đa hóa lợi nhuận và không chịu cấu trúc chi phí tương đương. Về nguyên tắc, điều này rất bất lợi cho thị trường nội địa và có thể tạo ra những méo mó thiếu hiệu quả. Câu hỏi ngược lại là: Tại sao bạn lại muốn cho phép điều đó? Ai lại đề xuất rằng chúng ta nên chấp nhận các quán cà phê kiểu Liên Xô?

Hỏi: Một ý tưởng trong giới Trump là chính quyền sẽ dùng chính sách kinh tế như một công cụ để thuyết phục các quốc gia khác chấp nhận việc giảm giá đồng đô la, điều đó sẽ giúp giảm bớt trở ngại cấu trúc cho các nhà xuất khẩu Hoa Kỳ. Điều này đôi khi được gọi là thỏa thuận Mar-a-Lago. Có vẻ khó xảy ra việc Trung Quốc đồng ý trừ khi họ có động cơ. Ông đánh giá thế nào về khả năng này và các công cụ Hoa Kỳ có thể dùng để khiến Trung Quốc tham gia?

Trả lời: Thỏa thuận Mar-a-Lago không đòi hỏi Trung Quốc phải tham gia. Kịch bản khả dĩ hơn là Trung Quốc sẽ không tham gia, Quan hệ Tối huệ quốc bị thu hồi, và Trung Quốc phải đối mặt với thuế quan cao. Một thỏa thuận Mar-a-Lago thành công là khi các quốc gia trong hệ thống thương mại do Hoa Kỳ dẫn đầu sẵn sàng đồng thuận. Nếu thế giới đồng ý muốn một hệ thống cân bằng với ít thuế quan, thì thỏa thuận Mar-a-Lago, với việc giảm giá trị tương đối của đồng đô la, là một bước tiến lớn theo hướng đúng đắn.

Hỏi: Ông phản hồi thế nào với những ý kiến cho rằng sức mạnh của đồng đô la đã mang lại cho Hoa Kỳ đòn bẩy địa chính trị và giúp các tập đoàn hoạt động ở nước ngoài kinh doanh với chi phí thấp hơn?

Trả lời: Sự thống trị của đồng đô la như một phương tiện trao đổi trong hệ thống toàn cầu là vấn đề hoàn toàn khác so với mức giá trị của nó. Tôi không hiểu tại sao mọi người lại thường nhầm lẫn hai khái niệm này, ngoài lý do lười biếng. Không có lý do gì để cho rằng trong hệ thống chúng ta đang thảo luận, đồng đô la sẽ không tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, ít nhất trong nhóm các nền kinh tế mà Hoa Kỳ muốn duy trì quan hệ tốt.

Có lập luận rằng Hoa Kỳ được lợi về chính sách đối ngoại, chứ không phải kinh tế, từ đòn bẩy trong hệ thống quốc tế, như khi áp đặt trừng phạt. Nhưng tôi cho rằng điều này đã được chứng minh gần như chỉ là “hổ giấy” – mọi người từng nghĩ đó là sức mạnh của Hoa Kỳ cho đến khi họ thử áp dụng với Nga và thấy nó hoàn toàn không hiệu quả. Kết quả là Hoa Kỳ đã áp đặt chi phí, chứ không phải lợi ích, lên các gia đình lao động do đồng đô la bị định giá quá cao để theo đuổi lợi thế chính sách đối ngoại không thực sự đạt được. Chúng ta nên vui mừng khi thoát được hướng đi đó.

N.B. – O.C.

*

Bài phỏng vấn gốc được đăng ở đây: https://www.thewirechina.com/2025/04/18/oren-cass-on-the-benefits-of-tariffs/.

Nguồn bản dịch: Đại Sự Ký Biển Đông

 

 

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn