Từ góc độ văn học, gợi ý mấy đặc điểm bút pháp - bút lực Phan Thúc Trực
Nguyễn Huệ Chi
Ngày 15 tháng 5 năm 2011, tại thành phố Vinh, Hội Văn nghệ dân gian Nghệ An đã phối hợp với Hội đồng gia tộc họ Phan ở xã Xuân Tụ, huyện Yên Thành tổ chức Hội thảo khoa học về Đình nguyên Thám hoa Phan Thúc Trực (1808-1852), nhà thơ và sử gia nửa đầu thế kỷ XIX, có tác phẩm Quốc sử di biên được học giả Nhật Bản đánh giá là cuốn sử tư nhân quan trọng nhất dưới triều nhà Nguyễn. Bản tham luận của GS Nguyễn Huệ Chi đã làm sôi nổi không khí hội trường. Trân trọng giới thiệu toàn văn bản tham luận dưới đây để bạn đọc xa gần tham khảo. Bauxite Việt Nam |
1. Tôi chưa có điều kiện nghiền ngẫm kỹ và hết các tác phẩm của Phan Thúc Trực, mặc dù năm 1975 nhân dịp vào Sài Gòn, tôi đã đọc bản dịch Quốc sử di biên Tập thượng của Hồng Liên Lê Xuân Giáo(1) với một ấn tượng sâu sắc, đến nỗi phải đi tìm mua ngay cuốn sách ấy. Gần dây, nhờ sự cố gắng rất đáng quý của PGS Nguyễn Thị Oanh và Nhóm biên dịch của chị, thừa kế tích cực những người đi trước, chúng ta đã có một bản dịch Quốc sử di biên(2) đầy đủ hơn với công phu khảo chứng cùng các thao tác khoa học khá cẩn trọng. Và cùng với nó là một tập Cẩm Đình thi tuyển tập(3) cũng được chị Oanh tuyển chọn và dịch chú nghiêm túc có thêm sự hiệu đính của nhà văn học cổ dày kinh nghiệm Trần Thị Băng Thanh. Chừng ấy sản phẩm ra mắt gần đồng thời với nhau, làm cho cái tên Phan Thúc Trực đang từ một “ẩn số” bỗng hiện lên như một thách thức, làm cho giới khoa học không thể không bằng mọi cách, cố gắng nhận diện và kiếm tìm. Tôi cũng là một trong số đó. Ngoài hai bản dịch đã nói, tôi có tìm đọc cả Cẩm Đình thi văn toàn tập chữ Hán lưu trữ ở Thư viện Viện Hán Nôm(4). Tuy nhiên, thời gian quá gấp gáp chưa đủ chín cho những nhận định chặt chẽ và thật khoa học, nên dưới đây là mấy gợi ý bước dầu về đặc điểm chung của bút pháp hay cũng là bút lực Phan Thúc Trực, thông qua một vài lần đọc vào các thể loại thơ, văn và sử của ông, dù sao cũng còn quá vội vàng.
2. Trước hết cần nói ngay, phần “Cẩm Đình văn tập” là đối tượng chú ý của tôi trong cuốn sách Cẩm Đình thi văn toàn tập không khả quan như tôi mong mỏi. “Cẩm Đình văn tập” gồm 28 bài văn, trừ một bài cuối cùng biện bác về cái tên Lãng Bạc của hồ Tây rất ngắn và không có gì đáng kể (Lãng Bạc biện), các bài còn lại đều là văn mừng người đỗ đạt, văn chúc thọ, văn phúng viếng các vị thân sĩ, văn dựng bia ở nhà thờ họ... phần lớn là viết hộ cho học trò, văn thân, các họ tộc lớn và hương hào hàng huyện hàng tỉnh dùng để đọc trong các loại lễ lạt hiếu hỷ có liên quan. Chắc rằng nếu soát xét cho kỹ, người biên soạn rồi đây cũng có thể trích lục một đôi bài nào đấy vào một bộ tuyển tập văn xuôi Phan Thúc Trực, nhưng mục tiêu khảo sát bút pháp văn xuôi Phan Thúc Trực thì không thể nào đặt trọng tâm vào đây, vì cũng như văn trường quy, ít khi chúng vượt khỏi các “khuôn phép” sáo ngữ. Tuy nhiên, tiếp sau “Cẩm Đình văn tập” trong Cẩm Đình thi văn toàn tập còn có một quyển thứ ba nhan đề “Kim thạch di văn tập”, gồm 52 bài, thu góp các thơ, văn nổi tiếng của nhiều nhà văn quá khứ khắc trên vách đá, trên chuông khánh, và các bài văn bia ở nhiều chùa chiền hang động... của nhiều nhân vật danh tiếng như Hồ Tông Thốc, Lê Thánh Tông (Thiên Nam động chủ), Vũ Quỳnh, Lê Hiến Tông (Thượng Dương động chủ), Trịnh Sâm (Nhật Nam động chủ/Nhật Nam nguyên chủ/Trịnh Tĩnh vương), Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Văn Giai, Ngô Thì Sĩ, Bùi Bật Trực, Lưu Công Đạo, Nguyễn Nghiễm... Ngoài ra còn có một bài tựa cuốn Quỳnh uyển cửu ca của Lê Thánh Tông và một bài văn ghi chép truyền thuyết về sự tích Nguyễn Văn Giai khá chi tiết, có đề rõ “sao chép ngày 2 tháng 11 năm Tự Đức thứ tư (1851)” nhưng không nói rõ nguyên tác của ai. Vấn đề là vì sao trong Cẩm Đình thi văn toàn tập là bộ sách lẽ ra chỉ gồm tác phẩm của Phan Thúc Trực lại có một “Kim thạch di văn tập” lọt vào? Lời ghi chú của con trai tác giả cho ta một giải đáp tương đối sáng rõ: “Xét tập này là của thân phụ soạn trong thời kỳ đi tìm sách, từng muốn bỏ thêm công sức tuyển chọn thật tinh và làm bài tựa phụ vào, chỉ tiếc sách chưa hoàn thành. Nay kính cẩn theo đúng bản thảo sao vào đây, dựa vào tên cũ đã đặt sẵn là Kim thạch di văn tập để gọi tên”(5). Thành thử, cố công đi tìm văn xuôi Phan Thúc Trực mà không toại nguyện, tôi lại bắt gặp một loại sản phẩm tinh thần khác không tách rời công lao của Phan Thúc Trực – là chứng tích những gì Phan Thúc Trực gặt hái được trong tư cách một nhà sưu tầm nghiên cứu cần mẫn, một bằng chứng cho thấy ông đã leo trèo không sót hang động núi non nào từ Nghệ An, Thanh Hóa cho đến Hưng Yên, Yên Quảng, Hải Dương...(6). Biết đâu trong số tác phẩm này có những bản gốc ngày nay không tài nào tìm lại được nữa thì đối với kho tàng văn hóa Việt Nam chúng là những văn liệu vô giá rất đáng bảo quản giữ gìn. Riêng bài văn chép sự tích quan Tể tướng Nguyễn Văn Giai có đề rõ ngày tháng, không có nhan đề, và chép tiếp liền sau bài văn bia Đan Nê thượng xã Đồng Cổ miếu bi minh tịnh ký của Nguyễn Văn Giai(7), theo tôi là một tác phẩm của chính Phan Thúc Trực chứ không hề sao chép của một người nào, ghi lại các truyền thuyết dân gian về Hoàng giáp Nguyễn Văn Giai lưu truyền ở vùng núi Đồng Cổ, xã Đan Nê, Thanh Hóa(8), là địa bàn từng diễn ra những trận đánh ác liệt giữa đội quân Lê-Mạc ở thế kỷ XVI-XVII, trong đó tướng công họ Nguyễn với vai trò chỉ huy đội quân nhà Lê trung hưng từng lập nhiều chiến công hiển hách; không những thế, ông còn có duyên nợ với đền Đồng Cổ từ thời còn trai trẻ khi ra Thanh Hóa đi thi, do nghèo túng đã ghé vào đền này kiếm phần xôi thịt người dân cúng ở đền để ăn trừ bữa, nhờ đó có mối quan hệ gắn bó với dân chúng trong vùng, rồi sau khi đã trở thành vị quan đầu triều nhà Lê trung hưng, oai danh lừng lẫy, nhiều giai thoại về ông được nhân dân ở đây nô nức truyền tụng. Bài văn chép truyện Nguyễn Văn Giai của Phan Thúc Trực là một tác phẩm xuất sắc, chứng tỏ trong khi đi làm nhiệm vụ tìm lại sách sử cũ theo lệnh Tự Đức, ông Học sĩ họ Phan đã không hề coi mình là người sao lục cổ văn một cách máy móc, mà còn có niềm hứng thú đi sâu tìm hiểu những câu chuyện truyền miệng dân gian ở những nơi mình đến sưu tập, cá biệt có được những sáng tạo thần tình.
Các nhà khoa học về tham dự
3. Khởi đầu việc tìm hiểu bút pháp Phan Thúc Trực, theo tôi, cần vận đụng phương thức loại hình hóa để xét xem con người cầm bút Phan Thúc Trực là thuộc kiểu dạng tác giả nào. Như câu danh ngôn của Buffon (1707–1788): “Le style c’est l’homme”, phân loại càng chuẩn xác loại hình tác giả của Phan Thúc Trực thì sẽ càng tìm đúng chìa khóa then chốt để mở cánh cửa vào thế giới văn chương Phan Thúc Trực và từ đó tiến tới nắm chắc đặc điểm sở trường sở đoản của ngòi bút ông. Lược qua tiểu sử họ Phan, có thể quả quyết, ông là một học quan chứ không phải đường quan. Một con người xuất thân nhà nho nghèo gắng công theo đuổi đèn sách trong rất nhiều năm, trúng đến 10 khóa Tú tài(9), cuối cùng được đặc cách Cử nhân và đi thi Hội một lần đỗ ngay Thám hoa vào năm 1847, sau đó làm quan ở Tòa Nội các, rồi được thăng Thị giảng ở Viện Tập hiền, sung chức Kinh diên khởi cư chú, là chức năng một viên quan văn thư chuyên ghi chép nhật ký của nhà vua để lưu lại trong phả ký Hoàng gia cũng như cung cấp tư liệu cho Viện Quốc sử nhằm soạn sử biên niên về vị vua đương đại. Được cử đi chấm thi hai lần, một ở trường Thừa Thiên và một ở trường Hà Nội. Thế rồi đến tháng Mười năm 1851, được Tự Đức cử ra Bắc sưu tầm sách vở, khi quay về đến Thanh Hóa thì đột ngột qua đời vào năm 1852. Vậy là, cuộc đời làm quan của Phan Thúc Trực chỉ gói gọn trong vòng có 5 năm ngắn ngủi. Trước sau ông mới là một văn nhân học sĩ thuần túy, chứ chưa hề làm ông quan trực tiếp cai trị dân. Nghĩa là về kinh lịch, Phan Thúc Trực chưa phải là người dày dạn kinh nghiệm trong việc tiếp xúc với dân chúng trong tư cách một ông quan cầm quyền, cũng chưa tự mình trải nghiệm mọi thực tế phức tạp trong việc ứng phó với những mâu thuẫn thường xuyên nảy ra giữa lợi ích của người dân và lợi ích của Nhà nước phong kiến. Ông gần gũi với kiểu trí thức như Phạm Quý Thích, Vũ Tông Phan, Phạm Đình Hổ mà rất khác biệt với kiểu trí thức dấn thân Nguyễn Công Trứ, Trương Đăng Quế, Hà Tông Quyền...
Nhìn ở khía cạnh cá tính mà nói, ta sẽ thấy thêm, Phan Thúc Trực là một nhà nho khiêm nhường, bền bỉ khổ học, nhưng coi việc học như một cái nghiệp, vì “mệnh trời” mà phải vâng theo chứ không ham hố, và không bao giờ dám đặt mình lên trên người khác. Nội một chuyện thi mười khoa khoa nào cũng chỉ đậu Tú tài, tuy có buồn vẫn không hề kêu ca một tiếng, chỉ biết chăm chỉ học hành để thi lại, và theo gia đình cho biết thì khi đi tìm chỗ dạy học ở xã Nguyệt Viên, Thanh Hóa là một làng nổi tiếng khoa bảng, vì chỉ mới đối được một vế của câu đối do các nhà nho trong làng ra cho, ông đã thừa nhận học lực mình còn kém, chịu nộp phạt rồi trở về dùi mài học vấn cho uyên súc hơn(10), cũng đủ thấy ông là người tự nhiệm và thích thảng, hơn là chăm chăm đua đòi danh vọng, cũng là người rất biết người biết mình. Trước khi thi đỗ Thám hoa không thấy một lời nào tỏ ra ông hồi hộp mất ăn mất ngủ; sau khi đỗ rồi tuy có mừng vui thốt lên vài câu tự tin khi ngồi bên đình Hương Nguyện nhìn xuống dòng sông Hương (Bài Cập đệ hậu Thích Điện vãn quá Hương Nguyện đình tọa nguyệt lý thư), nhưng cũng không hề có cái giọng hả hê của kẻ nay đã xênh xang mũ áo, hoặc ngụ một chút gì tỏ sự tự đắc trước bạn đồng song. Rõ ràng ở cả hai tư cách, con người phận vị và con người cá nhân, Phan Thúc Trực thuộc một kiểu nhà nho chừng mực, đoan chính, không bị bầm dập trước cuộc đời mà cũng chưa bị tha hóa vì địa vị của mình.
4. Khúc xạ qua thơ văn, một con người chủ yếu chỉ biết đắm mình trong văn chương sách vở và có cá tính điềm đạm như họ Phan thì văn chương như thế nào hẳn cũng hình dung được một phần. Lần lượt khảo sát mã ngôn từ quen thuộc của Phan sẽ thấy thêm, ngòi bút ông đậm sắc thái tao nhã, ít khi đẩy tới trạng thái cực đoan trong ý tưởng cũng như sắc sói trong dùng chữ đặt câu, cả trong kết cấu nghệ thuật. Mặt khác, cũng phải nói đó là thứ thơ văn bao quát một mảng vốn sống có giới hạn, không mở rộng đến những hiện thực gai góc mà mình tuy có nhìn thấy nhưng chưa hiểu đến gốc ngọn, hoặc cái hiện thực đôi khi phũ phàng mà chức trách kẻ chăn dân bắt mình phải trực tiếp đối diện. Thơ văn ấy hé lộ những góc nhìn cuộc đời dù sao vẫn mang màu sắc lý tưởng, chưa phải cái bộn bề những suy ngẫm của người đã va đập nhiều bởi sự từng trải, cũng như của một tâm thế lắm ngóc ngách, lắm chiều cạnh, cứ phải lật đi lật lại giữa cái nói ra và cái không nói ra. Nói cho khái quát hơn, thơ văn Phan Thúc Trực hầu hết là tiếng nói hồn hậu, chân thật, chân thật đến độ ít có bài thơ nào dùng điển cố hiểm hóc khiến lời thơ trở thành mòn sáo; ít có đoạn sử nào luận giải những chuyện đạo lý viển vông đi xa yêu cầu kể lại chuyện thực; nhưng bên cạnh đó lại cũng bộc lộ những tình cảm và suy tưởng có phần mộc mạc – là tiếng nói đơn thanh mà hiếm khi xen vào giọng điệu đa thanh. Lượng thông báo chủ yếu của thơ văn này được phóng chiếu từ một điểm nhìn không thiên về phơi bày tâm trạng xã hội mà thiên về trần thuật đối tượng khách quan, trong đó “cái tôi” của nhà thơ có tham dự một phần nhưng không bao giờ lấn át đối tượng, chỉ nương theo đối tượng mà điểm xuyết ít nhiều cảm hứng buồn vui của chủ thể tiếp nhận, để tạo ra mối liên thông giữa đối tượng với mình. Cả thơ văn và sử của Phan Thúc Trực, đều thống nhất với nhau ở đặc điểm cơ bản nói trên và chính nó làm nên mặt mạnh – tính chân thực lịch sử – cũng như mặt yếu – thiếu đột phá về tư tưởng – trong bút pháp của họ Phan.
5. Về thơ, có thể tạm chia thơ Phan Thúc Trực thành ba mảng: chùm thơ về gia cảnh, chùm thơ cảm tác trong quá trình đảm nhận việc quan và chùm thơ lữ hành. Ở bộ phận nào cũng thấy lộ ra một giọng thơ điềm đạm. Những uẩn khúc giằng mắc bên trong như một thông điệp tư tưởng thẩm mỹ nhằm gửi lại cho đương thời và hậu thế dường như không có hoặc nếu có chỉ là thấp thoáng (Bài Vũ trung độc chước). Người ta muốn biết trong suốt những tháng năm lẽo đẽo mang lều chiếu đi thi mà khoa nào cũng chỉ đỗ Tú tài, Phan Thúc Trực có gì buồn khổ, thất vọng, phản ứng với thực tại ra sao, đều không hề thấy. Người ta cũng muốn biết, trong vòng mấy chục năm ròng rã ông đang bận rộn thi cử, ở toàn cõi Bắc Kỳ liên tiếp lụt hạn, mất mùa, giặc dã nổi lên như ong như Quốc sử di biên của ông ghi lại, thì xứ Nghệ lâm vào tình cảnh đói khổ đến đâu, và một trí thức như Phan Thúc Trực nghĩ gì về tình cảnh đó, thơ ông cũng kín như bưng, tuy có vài lần nói đến bão lụt, đến phát chẩn cho dân chúng bị thiên tai... mà hình ảnh con người “chịu trận” trước lụt lội, mất mùa, lang thang cơ nhỡ... chỉ là đôi ba nét rất mờ. Họ không đập vào mắt ông bằng những dáng nét cụ thể, trái lại thông qua những cảm nhận trừu tượng mà đến với ông: “Tháng Tám mùa thu năm nay mưa gió lớn / khắp nơi dân tình quả đáng thương / Dân cư xa gần đều không có ngày rảnh rỗi / Từ phương Đông phương Tây kéo đến tìm cái ăn” (Triều đình khai trương cấp phát tai lê, nhân thư dĩ ký kỳ sự). Kiểu tác gia Phan Thúc Trực như đã lý giải đủ giải đáp cho ta hiện tượng có vẻ hơi kỳ quặc đó. Thật ra, không có gì đáng lạ cả. Đòi hỏi ở họ Phan một hồn thơ như Cao Bá Quát là điều không thể có. Với tâm hồn bao dung và nhân ái, và tư chất nhà nho chính danh nghiêm cẩn, ông là một mẫu người hoàn toàn đi đúng khuôn khổ. Ông là sản phẩm của triều đại Nguyễn và không có mối liên quan trực tiếp nào với các triều đại mà nhà Nguyễn đã lật đổ(11) nên ông chấp nhận nhà Nguyễn một cách thoải mái tự nguyện. Tâm thế của người thơ luôn song hành với các chặng đường tiến triển của thể chế nhà Nguyễn không cần phải làm dáng hoặc gắng gượng tự dối lòng. Nếu đó là nguyên nhân của những gì bất cập khi phải nâng tầm vóc mình lên đề nhìn sâu vào phía bất hạnh của cuộc đời thì ở một tầm mức khác, nó lại là mặt ưu điểm tạo nên nét hồn hậu của thơ ông. Bởi vậy, trong thơ Phan, ấn tượng để lại rõ nhất không phải là cái gì mang sự suy nghiệm cao xa, lớn lao mà là những tình cảm tưởng chừng nhỏ nhặt, nhưng là cái nhỏ nhặt cần thiết mà cuộc sống thường tình mỗi người đều có. Thông qua con mắt nhìn tinh tế của tác giả, cái nhỏ nhặt không bị hạ thấp xuống thành cái tầm thường, nhiều trường hợp còn được chưng cất thành cái đẹp rất tự nhiên. Chúng được trình bày theo thủ pháp kể lể song lại cũng không dàn trải, điểm xuyết vào những nhận xét đôi khi đột xuất như những nét chấm phá thú vị, hình thành nên phong cách riêng của nhà thơ, quán xuyến hầu hết cả ba mảng thơ của Phan.
Nhiều bài thơ viết trên đường phiêu du, nhà thơ chỉ chọn lấy một chi tiết khá đắt của khung cảnh mà mình đang nếm trải, như cái cảnh con thuyền đi ngược nước và ngược ánh sáng mặt trời trên dòng sông chảy xiết, như đang treo lơ lửng vào bờ sông mà không di động (Chu trình khẩu hào) làm cho bài thơ vốn không có gì bỗng trở nên ý vị. Cũng một cảnh đi thuyền khác, chỉ thông qua tiếng cười nói ồn ào của hành khách trong lúc mình say rượu lơ mơ ngủ và một cánh chim lướt vào mây lúc trời vừa rạng sáng, nhà thơ đã phác lên hình ảnh quen thuộc của những con đò dọc ngày xưa trên sông nước Việt Nam:
Chu giang tiện đạo phó Hưng An (Yên), Đa thiểu đồng chu tiếu ngữ gian. Túy ngọa bất tri thiên dĩ hiểu, Hoành không nhất điểu nhập vân đoan. (Hưng Yên chu trình tức sự) (Hưng Yên thuận nẻo trẩy thuyền sang, Hành khách nói cười rộn khắp khoang. Lăn lóc say quên trời đã sáng, Tầng không mây biếc, nhạn bay ngang) (12). |
Trong chùm thơ công vụ của Phan, có những bài kể khung cảnh ban đêm trong trường thi, nhà thơ nói đến ánh trăng tãi xuống khắp sân trường và mùi hoa mai thoảng ngát, còn hoa hải đường thì vừa thức giấc, nhìn ra như đọng trắng sương. Đang im lìm bỗng nghe một tiếng oanh líu lo, thế là màn đêm bỗng tàn (Tửu bãi). Bài thơ chỉ kể những chi tiết có vẻ không đâu, thế mà cả bài hợp lại là một biểu tượng thời gian đang chuyển động, và chủ thể thẩm mỹ ẩn trong thơ là một nhân vật đón từng bước đi của thời gian không hề chợp mắt.
Song tựu trung, xét cả ba mảng thơ, trước sau, nổi trội nhất của thơ Phan Thúc Trực vẫn phải kể đến các bài thơ nhớ thương người vợ đã mất trong chùm thơ gia cảnh, tiết lộ từng bước cảm xúc nhớ thương của ông đối với vợ một cách đầy day dứt. Không có cái bồng bột trào dâng lai láng như Ngô Thì Sĩ trong Khuê ai lục, tuy thế ở đây lại có cảm giác vò võ của sự hiu quạnh không dứt đi được khi đột nhiên thiếu mất nhiều thói quen trong cuộc sống mà không sao tìm lại – và đấy mới là sự trần thuật rất thật của một tâm trạng hụt hẫng gói ghém trong đó cả một tình yêu sâu nặng: không còn được kẻ lông mày cho vợ, không được chia sẻ tâm tình cùng vợ, không được vợ quấn quýt trong chăn ấm, đỡ đần chăm sóc cho mình từ con cái đến miếng ăn, cho đến việc cấy hái, ruộng vườn... Bài Cảm biệt viết ba năm sau ngày vợ mất vẫn còn nguyên cảm giác trống trải như lúc vợ mới lìa đời, hội tụ được bút pháp kể lể rất đặc trưng của nhà thơ:
Bán lộ thành ly biệt, Trung tình dục thoại nan. Kỷ thời mi đối họa, Tích nhật, kính đồng khan. Nhất kỷ khâm trù mật, Tam đông vũ tuyết hàn. Cô phòng nhân độc túc, Bất mị khởi trường than. (Nửa đường thành ly biệt, Tình khó nói nên lời. Mấy bận, tô mắt vợ, Thuở nào, chung gương soi. Mười năm, chăn quấn quýt, Ba tết, mưa lẻ loi. Phòng vắng nằm trơ trọi, mắt chong, dậy bồi hồi)(13). |
6. Bút pháp của Phan Thúc Trực biểu hiện trong sử của ông là gì? Như đầu đề đã giới thuyết rõ, chúng tôi nghiêng về tìm hiểu bút pháp sử gia họ Phan dưới góc nhìn văn học, còn các vấn đề thuần túy sử học của bộ sách sẽ không đi sâu. GS Trần Kinh Hòa đã đề xuất nhiều kiến giải thiết đáng khi so sánh cuốn sách của Phan Thúc Trực với Đại Nam thực lục mà giới sử hẳn còn phải bàn bạc nhiều. Nhưng Quốc sử di biên lại là một công trình chứa đựng nhiều thể tài không còn khoanh trong phạm vi một bộ sử nên cũng cần được đề cập tương đối cặn kẽ.
6.1. Ta đã biết, kiểu tác gia Phan Thúc Trực là kiểu nhà nho giữ tròn lý tưởng trung quân; sử bút của ông không bao giờ vượt ra ngoài cái khung đạo lý Nho gia bất di bất dịch. Tuy vậy, con người ông là con người chân chất. Ông trung quân một cách hồn nhiên mà không phải đắn đo trong tư tưởng như một áp lực vô hình đè nặng. Áp dụng lý thuyết biện chứng thì ở ông, trung quân từ cái tất yếu đã trở thành cái tự do, giải tỏa cho ngòi bút viết sử của ông. Nếu đặt bên cạnh Đại Nam thực lục, tư liệu lịch sử do ông cung cấp tất nhiên chẳng thấm vào đâu. Ông chỉ làm cái việc “di biên” – biên chép những gì còn sót lại từ Đại Nam thực lục(14), mà Đại Nam thực lục thì về mặt sử liệu mà nói, đồ sộ đến mức đáng cho ta phải kính nể (xin mở ngoặc, Đại Nam thực lục đã tiếp thu được phương pháp của sử học đời Thanh nên biết coi trọng khảo chứng và trình bày rất hệ thống các nguồn tài liệu). Nhưng các nhà viết sử của Quốc sử quán nhà Nguyễn dưới quyền chỉ huy của một vị Tổng tài lại luôn luôn ý thức về cái “vòng kim cô” của những điều phạm húy; dù không nói ra đó vẫn là điểm nhấn khiến cho trong thao tác, họ bắt buộc phải chọn một hệ quy chiếu lấy đấng quân vương làm trung tâm. Từ điểm quy chiếu nghiêm ngặt này, mọi sự cố xuất hiện từ gần đến xa, trong triều ngoài nội, chỉ còn là những vòng quay nhiều tầng của một chiếc đèn kéo quân hướng tâm không có gì khác, và nhìn vào đấy sẽ thấy đầy ăm ắp cái mà sử gia gọi là “sử sự” đang di động nữa mà thôi. Trong khi đó, sự tự do của ngòi bút viết sử “tay trái” (sử tư nhân) của Phan Thúc Trực lại giúp ông thoát khỏi vòng kìm kẹp một cách vô thức, và trong bộ sử của ông bỗng chốc hiện ra tất cả mọi hoạt động không phải của “sử sự” dàn bày vô cảm mà là hoạt động của những con người. Không những thế, cái thế giới người được họ Phan tái hiện không còn nằm nguyên ở trạng thái tĩnh mà là một thế giới động như nó có. Do chỗ vẫn theo lối viết biên niên, cũng con người ấy thôi, trên mỗi thời điểm cụ thể, thông báo của Phan vẫn là loại thông báo một chiều đơn giản, nhưng gộp nhiều thời điểm lại, con người được thông báo đã có sự xê dịch: lúc này hiện ra thế này và lúc khác hiện ra thế khác, giúp người đọc nhìn thấy hai, ba bình diện khác hẳn nhau. Một cách không tự giác, ngòi bút chép sử của ông từ đơn thanh chuyển sang đa thanh chính là vì vậy. Xin chỉ dõi theo hai nhân vật: con người Lê Quýnh, bề tôi của Lê Chiêu Thống và con người Phạm Đình Hổ, danh sĩ thăng Long.
Trong Quốc sử di biên, có một Lê Quýnh cứng cỏi khi đi tiền trạm trong đoàn đưa quan tài Lê Chiêu Thống về nước, không chịu vái lạy Tổng trấn lừng tiếng Nguyễn Văn Thành: “Tôi chưa được vái lạy đức vương thượng tôi nên chẳng dám vái lạy tôn công... Nước mất mà chẳng biết lo giữ nước, tôi là tội nhân của tôn công, nay gặp tôn công mồ hôi ướt đẫm cả áo. Nhưng di hài vua xưa chưa được tấc đất yên táng, xin tôn công giúp cho” (Bản dịch; tr. 120). Có một Lê Quýnh đàng hoàng khẳng khái khi gặp lại bạn cũ Đặng Trần Thường nay đã là tướng của Gia Long, công thành danh toại: “Thường gọi Quýnh là Khổng Minh, Quýnh không nhận, lại đổi lại gọi quýnh là Tử Phòng, Quýnh nói: “Tướng công gặp được vua sáng nên đã thỏa được chí của mình, danh có thể ngang với Tử Phòng, còn Hựu tôi (tức Quýnh) đâu có theo được. Nói rồi Hựu ra về” (Bản dịch; tr. 121). Có một Lê Quýnh mách bảo đường đi nước bước cho bà Nguyễn Thị Kim với quan niệm chữ “trung” sắc lạnh: “Tỳ bà hậu (tức Nguyễn Thị Kim) từ chùa Lã vào khóc với Doãn Hựu, hỏi ông nên tính kế thế nào. Doãn Hựu trả lời: “Xuống đất để gặp tiên quân, đó là kế tốt nhất. Trở về chốn lăng tẩm của vua Lê để phụng thờ hương khói, ấy là kế thứ hai”. Bà hậu bèn uống thuốc độc tự tử, thọ 40 tuổi” (Bản dịch; tr. 121). Có một Lê Quýnh đinh ninh giữ lòng cô trung với vua cũ nghe ra thật có lý: “Bấy giờ Doãn Hựu 55 tuổi. Ông thường nói với bạn cũ là Nguyễn Huy Phác rằng: “Hựu như cô gái ngồi bên song sách vở, nhưng học hành còn ấu trĩ, đã không có nhan sắc đẹp đẽ lại chẳng tài nghệ gì, được đấng trượng phu không câu nệ lấy làm vợ, ấy là mười phần may mắn. Nay bậc trượng phu mất sớm, Hựu nên ở góa để giữ tròn danh tiết liệt phụ, nếu không sẽ thành loại súc sinh thôi” (Bản dịch; tr. 122-123). Và cũng có một Lê Quýnh được nhìn dưới một lăng kính hoàn toàn khác, rất so đo tính toán khi trở lại cuộc sống gia đình, bụng dạ chật hẹp với người này người kia ở giữa làng quê thôn xóm: “Nhưng Doãn Hựu vốn là người hẹp hòi. Hễ ai có lỗi nhỏ, Hựu thường cố chấp, chỉ trích không tha, cho nên nhiều người không phục. Vả lại Hựu là người hay để tâm tới của cải. Mấy năm trước, Hựu ở bên Tàu, ruộng ao của nhà bị mấy người con trai đem bán, ông nhất định truy hồi bằng được. Ông cũng là người hay đòi nợ, phải trả họa không nhỏ. Vì vậy, Hựu bị người đời oán ghét (người đời rủa Hựu là người “tam tiệt” – cắt làm ba đoạn)” (Bản dịch; tr. 123). Và hậu quả của cái tính vừa thẳng thắn đến cực đoan, khí khái giữ tiết, lại cứng nhắc không thức thời, thêm vào một chút tham lam keo kiệt nữa đã dẫn Lê Quýnh đến một kết thúc chẳng mấy ai ngờ: “Ngày mồng một tháng 9 [năm Ất Sửu 1805], bọn cướp giết Doãn Hựu và con trai ông tên là Tốt. Nguyên bấy giờ ở làng Bình Ngô có tên cướp cừ khôi tên là Bi, tự xưng Bắc soái. Tên cướp này thoắt ẩn thoắt hiện, thình lình vào ra cướp của cải. Gặp lúc tên Bi đi đốt phá đất Ngâm Điền, cướp được rất nhiều của cải và gia súc, Lê Doãn Hựu bèn đốc thúc bọn con trẻ trong nhà ra đón đường cướp lại của cải và súc vật mà tên Bi cướp được. Tên Bi vô cùng căm tức Hựu. Buổi chiều hôm đó, tên Bi đốc suất đồ đảng rất đông vào nhà Hựu đốt phá, đâm Doãn Hựu vài chục nhát. Quan Tri phủ là Nguyễn Đình Đôn nghe tin đến nơi lập án. Sau đó 15 ngày Doãn Hựu từ trần, quan phủ lại đến nơi lập tử án. Con của Doãn Hựu là Doãn Trắc và Doãn Tốt vì cha báo thù nên thường xuyên mang binh khí theo người. Tên Bi lập kế mai phục, đánh Tốt chết ở ngoài đồng” (Bản dịch; tr. 148-149). Bằng lối viết biên niên, Phan Thúc Trực không chủ ý tập trung rọi sáng con người Lê Quýnh trong một lúc mà soi tỏ ông dần dần, cuối cùng đã làm hoàn chỉnh diện mạo góc cạnh sắc nét của vị thần tử nhà Lê từng nổi tiếng vì không chịu dóc tóc theo kiểu Mãn Thanh.
Về Phạm Đình Hổ, Quốc sử di biên còn có ngòi bút đậm màu hài hước chua chát hơn. Mới đầu, Phạm Đình Hổ xuất hiện trong tư cách một văn sĩ Bắc Hà có tiếng tăm được Tổng trấn Nguyễn Văn Thành chiều chuộng cho ở luôn trong phủ đệ của mình cùng nhiều văn nhân khác (Bản dịch; tr. 96). Rồi chẳng hiểu vì cớ gì Phạm bỗng trở thành đối tượng “tế sống” của một bài văn tế do đám học trò tinh quái viết dán lên trước cửa trường thi Thăng Long năm 1819 (Bản dịch; tr. 227). Hẳn đây là một lời cảnh báo khéo của sĩ phu Bắc Hà mà ông không thấy hết thâm ý nên đã bỏ qua. Năm 1821, Phan Thúc Trực chép Phạm Đình Hổ cùng ông nghè Phạm Quý Thích được Minh Mạng triệu đến bái yết(15). Phạm Quý Thích nhất quyết không nhận mọi quan tước được phong còn Phạm Đình Hổ thì sau đấy nhận lời vào Phú Xuân giữ chức Thự Tế tửu (cũng như quyền Hiệu trưởng) Trường Quốc tử giám. Rồi bẵng đi mấy năm, ta lại thấy chép việc Phạm Đình Hổ xin từ chức Thự Tế tửu vì một lý do cũng khá lạ: “Phạm Hổ là người ngay thẳng, giáo pháp rất nghiêm. Các sĩ nhân đã từng theo học thầy khác ông không cho vào học. Lúc đó có công tử đang theo học ở Quốc tử giám vào lớp, ông rút guốc ra ném. Công tử vặn rằng: “Lấy roi đánh là hình phạt trong dạy học, sao ông lại ném guốc vào tôi?”, nói rồi lấy guốc ném lại, lại còn nói thêm: “Không đỗ đại khoa thì không đủ làm khuôn mẫu cho người đâu!”. Phạm Hổ thẹn quá, dâng biểu xin về Bắc thành dưỡng bệnh, vua ban cho 100 quan tiền” (Bản dịch; tr. 317-318). Chàng công tử ranh mãnh đã đánh trúng yếu huyệt của Phạm Đình Hổ bởi ông thi ba khoa đều chỉ đỗ Tú tài. Hóa ra danh sĩ họ Phạm đã ảo tưởng rằng cứ có học vấn uyên bác đến vua Minh Mạng cũng vì nể thì có thể cư xử thế nào cũng được, kể cả thiếu kiềm chế đối với loại “con cháu các cụ” đầy hãnh tiến và kiêu ngạo. Đúng là bé cái nhầm! Nhưng chưa hết. Hai năm sau, đến năm Kỷ Sửu (1829), Phan Thúc Trực lại chép Phạm Đình Hổ tiếp tục được triệu vào Kinh giữ chức Tế tửu thực thụ Trường Quốc tử giám: “Trước đó, năm Đinh Hợi, Hổ xin về Bắc thành dưỡng bệnh. Nhà vua trọng con người Hổ nên để trống vị trí đó đợi ông trở lại. Đến năm này, vua mệnh cho quyền Tri phủ Diễm cùng thầy thuốc đến thăm bệnh, chẩn trị [cho Hổ], thấy bệnh tình ông đã thuyên giảm, vua lại xuống chiếu triệu vào. Hổ từ chối, lấy cớ là chưa thấu suốt sách thánh hiền, chưa thỏa lòng mong mỏi của sĩ phu từ Sông Gianh trở ra Bắc. Nhưng vua không đồng ý. Ông đành lại phải vào kinh” (Bản dịch; tr. 337). Nhà chép sử không dừng ở đó mà còn hé lộ một chuyện khúc mắc phía sau, dường như có ẩn cả nụ cười tủm tỉm của mình: “Khi Hổ ở Bắc thành, gặp lúc có kỳ thi Hương, con ông làm văn hộ người khác, bị Giáo thụ Hoài Đức đánh roi, Hổ giận mà nói rằng: “Ta hận không được làm đại quan, nhưng như đám Giáo thụ này thì môn đồ ta rất nhiều” (Bản dịch; tr. 337). Rõ ra giọng một người cao ngạo về chữ nghĩa mà kỳ thực là rất mặc cảm về thân phận vốn chỉ có hư danh chứ không chút thực quyền. Vẫn chưa hết. Phan Thúc Trực còn đưa thêm một chi tiết làm nổi cái tính cáu bẳn mất chừng mực của Phạm Đình Hổ: “Lại có viên cẩm y [người có nhiệm vụ chữa bệnh cho Hổ theo lệnh nhà vua] đợi xin tiền, Hổ không cho. Cẩm y đi ra nói xẵng. Hổ đuổi theo đánh ông ta chảy máu. Cẩm y ngã xuống, ông lập tức mang nồi đồng ra treo vào cổ áo và vu cho cẩm y ăn trộm giữa ban ngày. Sự việc được báo lên Hình tào Nghi. Nghi mệnh cho quyền Tri phủ Diễm đến tra hỏi. Diễm đến xử, chỉ trích [Hổ] tội khi quân và nói: “Hoàng thượng nhiều lần xuống chiếu triệu khanh vào kinh, khanh từ chối lấy cớ là dưỡng bệnh. Đương trong lúc dưỡng bệnh mà có thể đánh ngã người khỏe mạnh, thế thì ai khỏe đây?” Hổ tức giận đập đầu vào bàn. Diễm cười mà nói: “Dù cho khanh cởi khăn rồi đập vỡ đầu cũng không thể vu cho ta tội bức tử khanh đâu. Huống hồ đầu vẫn còn quấn khăn, đập vào bàn thì có gì phương hại?” Nói xong lập tức bắt trói viên cẩm y cùng chứng cứ, lập án trạng rồi bảo với Hổ rằng: “Khanh có quan phẩm, lại được Hoàng thượng trọng dụng, Hình tào ở Bắc thành không dám xét xử, xin đợi sách tấu vào kinh”. Hổ sợ, cố xin giảng hòa nên mới được miễn” (Bản dịch; tr. 338). Qua những dòng ghi chép nhẩn nha lần theo ngày tháng của sử gia họ Phan, người đọc ngày càng tiếp cận với một Phạm Đình Hổ có tính nết đa đoan, bộc trực đấy mà nóng nảy thiếu bình tĩnh cũng ngay đấy, khác với một Phạm Đình Hổ kiến thức uyên thâm, khả năng cường ký hơn người và luôn giữ vững Nho phong qua các sách Vũ Trung tùy bút hay Tang thương ngẫu lục.
6.2. Phải thừa nhận, trong Quốc sử di biên, còn vô số những gương mặt nhiều sắc diện với vô số câu chuyện ngang trái như đã dẫn. Có lẽ đấy mới là lý do chính yếu làm cho GS Trần Kinh Hòa khi đặt Quốc sử di biên vào hàng những cuốn sử tư nhân sáng giá, phải hạ bút viết những lời trân trọng: “Thiết tưởng không có cuốn sách nào hơn được” (16). Và ngay các nhà sử học Nhật Bản ở Sở nghiên cứu Tân Á Trường đại học Khánh Ứng như “các ông Triệu-hiệu-tuyên, Lưu-gia-câu, Bản-thôn Tông-cát và Đoàn Khoách (Việt Nam) đều công nhận quyển Quốc sử di biên đã chiếm một địa vị trọng yếu nhất trong các quyển sách sử ký dưới triều nhà Nguyễn” (17). Với bản tính một nhà nho kín đáo, Phan Thúc Trực ít khi đem chủ quan can thiệp lộ liễu vào câu chuyện mình ghi chép – ông không hề định kiến đối với đối tượng của ngòi bút mình. Nhưng chính cách viết sử không đem ý muốn cá nhân mài nhẵn các góc cạnh gồ ghề của đối tượng, biến chúng thành những sự kiện vô hồn, lại còn đẩy xa đối tượng ra một cự ly nhất dịnh để chúng tự lộ diện cho người đọc tự do nhìn ngắm, đã có tác dụng khơi dậy cá tính nhân vật rõ nét hơn, tạo nên lực hút đặc biệt của ngòi bút ông. Có thể nói không ngoa khả năng cá tính hóa là bí quyết thành công hàng đầu của sử bút họ Phan. Viết về một viên Cố đạo phương Tây bị bắt vào tháng 5 năm Mậu Tuất (1838), Đại Nam thực lục chính biên, Đệ nhị kỷ, chép là viên Cố đạo bị bắt ở Quảng Bình, nói rõ thêm tên ông ta là Bố-di-du-mô-linh, và kết thúc ngay bằng việc xử tử hình ông; thì Phan Thúc Trực chép việc bắt bớ xảy ra ở Bắc Ninh dưới quyền Bố chánh sứ Nguyễn Đăng Giai, cũng bỏ qua tên viên Cố đạo. Nhưng điều khác nhau quan trọng là ông không nói đến kết cục bi đát của viên Cố đạo kia, ngòi bút của ông cũng chẳng có ý gì chê bai, đả kích ông ta cả. Từng lời tưng tửng của ông còn vẽ ra gương mặt rất thật với nét cười cởi mở vui tính của ông Cha cố: “Ông Cha cố này mặt vuông, mũi to, râu ria tua tủa, tóc tai rậm rạp, nói cười vui vẻ, ứng đáp linh hoạt, rất có thần sắc, còn nói: “Đạo này chính là đạo trị loạn” (Bản dịch; tr. 441). Viết về một người con của đại thần Nguyễn Đăng Giai từ chân Tú tài đặc cách Cống sinh được bổ Tri phủ Khoái châu kiêm quyền nhiếp Tri huyện Thanh Trì, ông lưu ý cái thói quen phong lưu, đắm đuối nữ sắc của viên quan trẻ: “Lấy người con gái ở Gia Định làm thiếp, sinh được một con gái. Mỗi khi đi làm ở huyện ông đều sai người thiếp đứng chực ở cửa, rồi nắm tay, sờ nắn ngực, sau đó mới xuất hành. Thường nói: “Đời người có ba vạn sáu nghìn ngày, riêng ta có thêm ba vạn sáu nghìn đêm nữa” (Bản dịch; tr. 278).
6.3. Bởi vậy, đối với người nghiên cứu văn học, Quốc sử di biên không phải chỉ là một tác phẩm sử học mà còn là một tác phẩm văn học có giá trị. Phan Thúc Trực đã khắc tạc lên vô số chân dung sinh sắc góp phần bắc một nhịp cầu để người đọc lùi trở về nửa đầu thế kỷ XIX, tìm đến một bức tranh thực sống, ở đấy có không ít những khuôn mặt năng động hiện diện trước mắt mình. Người đọc bắt gặp một Lê Văn Duyệt oai phong nghiêng trời, có tấm lòng bao dung kẻ dưới, bao dung đến cả loài động vật hoang dã như hổ báo, hễ bắt được con hổ nào ông cũng không giết mà cho đeo vào cổ một chiếc lục lạc nhỏ rồi thả lại vào rừng, hổ sẽ trở nên hiền lành. Người đọc cũng bắt gặp một Nguyễn Công Trứ tài hoa, lãng tử, giỏi cả văn lẫn võ, thích gái đẹp, mê trò hát xướng, cũng hết sức mưu lược và quyết đoán; biết dùng đào hát tụ tập đàn ca trên một vùng đầm hồ vốn là tử địa để dụ Phan Bá Vành vào tròng; hoặc dám đốt ngôi đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm ở Kiến An quê ông để dập tắt mầm phản loạn của người cháu ông là Hài mượn danh lời sấm Trạng Trình toan làm phản, nhưng rồi sau đó lại tìm đúng di tích gốc của Tuyết Giang Phu tử cho trùng tu đẹp hơn. Người đọc còn bắt gặp một Lê Quý Kiệt kiến thức sâu rộng, tiếp nối được trí tuệ của bố là Lê Quý Đôn, được Minh Mệnh rất yêu vì, nhưng lại không hợp ý đám quan lại triều đình đương thời nên được thăng đến Tham tri rồi vẫn phải cáo hưu. Người đọc thích thú khi biết chuyện một Lý Văn Phức dẫn đầu đoàn sứ bộ Việt Nam sang Yên Kinh báo tang Minh Mạng, vào công quán thấy người Thanh viết bốn chữ “Việt di hội quán” (Hội quán của người Việt man di) trên vách, Phức nổi giận, lên tiếng chê trách đám quan tiếp sứ “giọng nói và sắc mặt đều rất nghiêm nghị” và không chịu vào ở trong sứ quán, đến khi bọn họ phải cho người xóa chữ “di” đi ông mới chịu vào. Liền đó ông viết ngay bài Biện di luận, đề cao lịch sử lâu dài và phong tục đặc thù của Việt Nam “khiến người Thanh phải thẹn mà xin lỗi” (Bản địch; tr. 506) (18). Người đọc cũng không thể quên một Phạm Quý Thích nhất mực giữ chí ở ẩn, bị triệu vào kinh không chịu đi, cho lấy xe kết lụa để đón, ông đi đến Thanh Hóa rồi lại cương quyết quay trở về. Người đọc càng ghi nhớ về một Hà Tông Quyền, tuy làm đến chức quan đầu triều, quyền thế không ai bằng, và cũng đã rất khôn ngoan khi biết tránh né khéo léo câu hỏi của Minh Mạng thăm dò việc nên để cho ai nối ngôi, vậy mà vẫn không tránh được ngón đòn thù tàn độc của người con út vua Gia Long vốn đang ngấp nghé cái ngai vàng, nghe ông trả lời không đoái gì đến y, y liền hẹn ông đến nhà phục cho uống rượu say rồi đánh chết vứt xác xuống sông...
6.4. Về phương diện tư liệu học, Quốc sử di biên cũng là cuốn sách cung cấp cho độc giả nhiều tư liệu quý. Những thơ văn mà Phan Thúc Trực ghi chép được, rải rác từ đầu đến cuối sách và gắn với từng nhận vật lịch sử, không thể nói là ít giá trị đối với người sưu tầm văn học. Đáng kể hơn, sách còn giải tỏa cho người viết văn học sử nhiều nghi vấn lâu nay chưa có xác tín rõ ràng. Chẳng hạn, nói đến Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều, trước đến giờ, người nào cũng chỉ căn cứ vào Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, mà Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập thì đến tận năm 1889 mới thật sự hoàn thành, được triều đình lúc bấy giờ dâng lên vua Thành Thái “ngự lãm” để duyệt in. Giờ đây đã có thêm một chỗ dựa mới là Quốc sử di biên – chép việc đó vào năm 1816, khi Nguyễn Du được Gia Long thăng chức Thị lang. Chỗ lợi hại là Quốc sử di biên có mặt sớm hơn Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập đến 40 năm, lại có chép thêm cả chuyện đề từ Truyện Kiều của Phạm Quý Thích, vì vậy điều họ Phan ghi được chắc chắn là một chứng cớ khả tín. Trước đến giờ ta cũng chỉ biết về Hồ Xuân Hương qua giai thoại và thơ văn truyền tụng, gần đây có cuốn Lưu hương ký thì lại là bản sao vào năm 1959 mà bản gốc chưa biết ở đâu. Nay Phan Thúc Trực chép rõ Hồ Xuân Hương là người giỏi thơ Nôm, làm vợ thiếp của viên Tham hiệp trấn Yên Quảng, “vốn giỏi văn chương và chính sự nên được người đời gọi là tài nữ”, lại được “Tham hiệp cho tham dự vào việc chính sự” nên bị viên Án thủ (chịu trách nhiệm về an ninh) tên là Dung rất ghét, nhân Tham hiệp đòi hối lộ mấy đám đất vỡ hoang bị dân kiện, Dung tố cáo lên vua Gia Long nên ông ta bị khép tội giam trong ngục tối suốt một năm rồi bị tử hình vào năm Kỷ Mão (1819) (Bản dịch; tr. 225-226). Phải chăng họ Phan mới là người đầu tiên chính thức trước bạ Hồ Xuân Hương vào thư tịch nước nhà? Nhờ vào tư liệu này, học giả Hoàng Xuân Hãn đã truy tìm sâu hơn và tìm ra 6 bài thơ chữ Hán của Hồ Xuân Hương vịnh cảnh Hạ Long trong cuốn Đại Nam dư địa chí ước biên trong thư khố Paris(19). Đâu đã hết. Về Vũ Trinh tác giả Lan Trì kiến văn lục, trước đến giờ ta cũng chỉ biết đại khái ông là người của triều đại Lê được Gia Long ưu ái lục dụng rồi vì liên quan đến vụ án Nguyễn Văn Thành mà bị đi đày, đến khi được thả, trở lại quê nhà mấy hôm thì mất. Nhưng Phan Thúc Trực đã bổ sung cho ta một số tài liệu chi tiết hơn nhiều về ông. Thì ra Vũ Trinh bị đày vào Hội An, song cũng chỉ là giam lỏng, ở đấy ông được tự do dạy học, học trò nhiều người đỗ đạt, rồi lấy thêm một bà vợ, có thêm một con trai. Đến khi được ân xá thì môn sinh của ông vì mến chuộng tài năng nên cùng nhau dâng tấu xin cho ông ở lại, lại lập đền thờ sống ông. Mãi đến năm Đinh Hợi (1827) chắc vì thấy mình đã quá già, ông mới xin được trở về quê, về đến nơi ít lâu thì mất (Bản dịch; tr. 214). Trường hợp tác giả Quan Âm Thị Kính cũng là một đóng góp vô cùng thú vị. Từ trước cuốn truyện lục bát này vẫn được xem là một tác phẩm khuyết danh. Mãi vài thập niên gần đây, Hoa Bằng mới cho biết thêm một tên gọi khác là Quan Âm tân truyện, và xác định tác giả là Nguyễn Cấp, nhà văn Việt Nam sống vào nửa đầu thế kỷ XIX, người Hà Nội, đỗ Giải nguyên năm Quý Dậu (1812) và làm đến Tri phủ Thiên Trường. Nhưng rồi vì một việc lôi thôi trong kiện tụng có dính líu đến vợ ông, ông bị bắt giam, phải trốn tránh nhiều nơi, sau tìm cách ẩn náu tại Lạng Giang, cắt tóc đi tu và sáng tác nên Quan Âm Thị Kính. Tuy nhiên, theo gia đình Thiều Chửu là người có chú giải Quan Âm thị Kính thì trong gia phả họ Đỗ ở Bắc Ninh lại ghi Quan Âm Thị Kính là sáng tác của Đỗ Trọng Dư, đậu Hương cống năm 1819, cuộc đời cũng gặp hai chuyện oan khuất phải mượn văn chương để thổ lộ nỗi lòng. Cả hai giả thuyết cùng bắt nguồn từ những cơ sở có vẻ đều hợp lý, nên không biết bên nào chính xác hơn. Phải đến khi đọc vào Quốc sử di biên mọi phân vân nghi ngờ mới sáng tỏ. Quốc sử di biên chép: “Tri phủ Thiên Trường là Nguyễn Cấp có tội, bỏ quan chạy trốn. Dân Giao Thủy có việc tranh trụng, vợ Cấp ngấm ngầm nhận hối lộ của bên bị kiện, đầu độc giết bên nguyên đơn. Sự việc bị phát giác. Cấp bị tội thắt cổ chết. Cấp không nhận chiếu chỉ mà bỏ trốn, bị dân phu bắt được, giam ở Bắc thành. Người cháu từ kinh đô [Huế] đến, nói dối là được ân xá, giết trâu, mua rượu khao quan coi ngục. Quan coi ngục bị say túy lúy, chểnh mảng việc coi giữ, đến đêm khuya Cấp bẻ khóa lại bỏ trốn, đãi ngục lại 2 hốt bạc. Về sau, Cấp dùng một trăm lạng bạc để tự chuộc thân trốn sang nhà Thanh. Người Thanh đưa trả về, lại trốn thoát, đến ẩn ở nhà Khám Lượng, Lạng Giang rồi tự xuống tóc làm sư. Sau được quan Tham tán [Nguyễn Công] Trứ giúp đỡ, giấu mình ở chốn rừng suối, cùng kết mối thiện giao với Đỗ Trọng Dư ở Đại Mão, làm cuốn Quan Âm tân truyện để tỏ bày sự trạng. Sau vì việc làm bài luận về việc xuống tóc khiến cho Dư gặp phải phiền toái. Cấp còn trước thuật Tam tự kinh quốc âm ca truyền lại cho bọn lý trưởng. Không lâu sau ông mất, con cháu bị cấm không được đi thi” (Bản dịch; tr. 335). Như vậy, Quan Âm Thị Kính hay Quan Âm tân truyện phải coi là cộng đồng sáng tạo của cả Nguyễn Cấp lẫn Đỗ Trọng Dư, gạt hẳn về người nào cũng đều không phải lẽ(20).
Nhiều tư liệu do Quốc sử di biên đưa ra cố nhiên còn cần được thẩm định, như việc ông ghi Ngọc Hân Công chúa mất năm 1804 tại làng Phù Ninh, quê mẹ của bà, rồi việc tháng Tư năm Quý Mão (1843) Chánh tổng làng Phù Ninh tên là Phụng kiện cáo với dân, lại dựa uy thế của dòng họ Ngọc Hân để tranh lợi với dân, bị tố giác nên mộ Ngọc Hân bị quật lên ném xuống sông. Việc quật mộ Ngọc Hân ném xuống sông là điều có thật, được Đại Nam thực lực chính biên Đệ tam kỷ xác nhận, còn việc Ngọc Hân mất năm 1804 thì không xác đáng vì trong Dụ Am văn tập hiện còn 5 bài văn Nôm tế Ngọc Hân vào mùa đông năm Kỷ Mùi (1799) do Phan Huy Ích viết, thay lời vua Cảnh Thịnh (Kỷ vị đông nghĩ ngự điện Vũ hoàng hậu tang quốc âm văn), thay lời bà mẹ đẻ ra Công chúa là Nguyễn Thị Huyền ở làng Phù Ninh (Phù Ninh Từ cung điện văn), thay lời các Công chúa con vua Quang Trung (Công chúa chư nha điện văn), thay lời họ hàng vua Lê (Cựu Hoàng tôn điện văn), và thay lời họ ngoại ở Phù Ninh (Phù Ninh ngoại tộc điện văn), chứng tỏ bà đã mất trước đấy 5 năm. Khớp các tài liệu khác nhau lại ta có thể phỏng đoán, năm 1804 bà Nguyễn Thị Huyền đã cho bốc mộ Ngọc Hân cùng mộ hai con của Công chúa (bị Gia Long giết hại năm 1802) ở Phú Xuân về táng tại Phù Ninh mà Phan Thúc Trực do tra cứu không kỹ nên đã nhầm(21). Đúng sai về chi tiết trong một cuốn sử do một cá nhân biên soạn phải xác minh cho cặn kẽ là chuyện bình thường. Dầu sao, Quốc sử di biên vẫn là một nguồn sử liệu vô giá giúp xóa đi được không ít dấu hỏi một thời tưởng là vấn nạn của lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX.
*
* *
Tóm lại, với tư cách nhà thơ, nhà sưu tầm cũng như nhà viết sử, Phan Thúc Trực có một bút lực dồi dào và một bút pháp thống nhất. Ông không dẫn đạo người khác như một nhà tư tưởng mà chỉ làm một người tích góp tư liệu, một người kể chuyện và một người bạn tâm tình. Nhưng những câu chuyện mà ông ghi chép rất chân thực vẫn còn sống tươi rói đến ngày nay. Và những vần thơ nhẹ nhàng thủ thỉ của ông vẫn thấp thoáng hiện lên một cái tôi làm vương vấn chúng ta, bộc bạch với chúng ta tấm lòng đôn hậu của ông. Các mô típ ước lệ trong thơ ông thấm sâu tình cảm của nhà thơ đã nhạt hẳn tính ước lệ, biến thành những chi tiết sống thực. Bởi thế, về một mặt nào đó, cùng với các tác gia khác thời kỳ này, Phan Thúc Trực đã góp phần đưa văn học nửa đầu thế kỷ XIX chuyển dần từ màu sắc Trung đại sang màu sắc Cận đại(22).
15-5-2011
Chú thích:
(1) Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, Bộ Văn hóa giáo dục và thanh niên thuộc chính quyền Việt Nam Cộng hòa xuất bản, Sài Gòn, 1973. Trong “Lời giới thiệu của người dịch”, nhà học giả Lê Xuân Giáo đã cung cấp nhiều tư liệu quý báu về tiểu sử Phan Thúc Trực mà chị Nguyễn Thị Oanh đã tiếp thu hầu hết, tiếc rằng lẽ ra chị nên đề rõ xuất xứ những chỗ mình kế thừa người đi trước. Ngoài ra, cũng cần nói đến bản dịch Quốc sử di biên của Đỗ Mộng Khương do Hoa Bằng hiệu đính, Viện Sử học lưu trữ và cho ấn hành tại Nxb. Văn hóa thông tin năm 2009. Những gì kế thừa bản dịch này cũng nên nói rõ.
(2) Nguyễn Thị Oanh - Nguyễn Thị Hường - Nguyễn Tô Lan dịch, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2010.
(3) Cẩm Đình thi tuyển tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011
(4) Ký hiệu A.1385.
(5) Nguyên văn: 今 按 此 集 家 嚴 求 書 辰 所 撰 。 常 欲 祥 加 精 選 。 序 以 附 之 。 但未 成 本 。 今 謹 依 草 本 抄 入 。 因 舊 所 名 金 石 遺 文 集 名 之 (Kim án thử tập gia nghiêm cầu thư thời sở soạn. Thường dục tường gia tinh thuyển, tự dĩ phụ chi. Đãn vị thành bản. Kim cẩn y thảo bản sao nhập, nhân cựu sở danh Kim thạch di văn tập danh yên).
(6) Qua nhiều phen đi thực địa của mình để sưu tập bộ Thơ văn Lý-Trần, chúng tôi phỏng đoán, rất có thể vì việc leo trèo và ghi chép rất khổ công của một vị quan văn nghiêm túc đã làm hao tổn sức khỏe của Phan Thúc Trực, dẫn tới cái chết đột ngột của ông.
(7) Nguyễn Văn Giai (1553-1628) người xã Phù Lưu Trường, huyện Thiên Lộc, trấn Nghệ An, nay là xã Ích Hậu, huyện Lộc Hà, Hà Tĩnh. Xem thêm Nguyễn Huệ Chi. Tể tướng và nhà thơ Nguyễn Văn Giai (thử phân tích một hiện tượng tích hợp giữa folklore và văn học viết), Tạp chí Thời đại, USA, số 4 tháng 3-2005.
(8) Trong bài ghi chép về Nguyễn Văn Giai của Phan Thúc Trực có đầy đủ các giai thoại cũng được chép trong cuốn Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án, và còn có thêm nhiều giai thoại khác lưu trong các bản gia phả cổ của họ Nguyễn Văn tại Ích Hậu. Xã Đan Nê thời Nguyễn thuộc huyện Yên Định, phủ Thiệu Yên, trấn Thanh Hoa.
(9) Hồng Liên Lê Xuân Giáo có nói rõ Phan Thúc Trực thi đậu 10 khoa Tú tài gồm 5 chính khoa về đời Minh Mạng, 3 chính khoa về đời Thiệu Trị và 2 ân khoa cũng về đời Thiệu Trị. Vì thế ông được người trong vùng gọi là ông Tú mười, sau này khi đỗ Thám hoa thì lại được gọi là ông Thám mười (bài giới thiệu đã dẫn, tr. VII). Nhưng theo anh Phan Thúc Hào, cháu chắt trực hệ của Phan Thúc Trực, thì trong bản gia phả họ Phan do con trai Phan Thúc Trực soạn, lại ghi ông chỉ đi thi 2 khoa và đỗ Tú tài hai khoa ấy thôi, về sau thì đi dạy học chứ không thi nữa. Còn sở dĩ người trong vùng gọi ông là ông Tú mười vì ông rất giỏi đánh bài mười. Hiện gia phả của dòng họ Phan Vân Tụ chưa được công bố nên còn cần tra cứu để tìm đúng sự thực. Xin nêu lên ở đây như một ý kiến tham khảo.
(10) Theo Nguyễn Thị Oanh trong chú thích 1 bài Hạc thành hiểu phát, phó Nguyệt Viên mộ túc lữ xá. Cẩm Đình thi tuyển tập, Sđd; tr. 346.
(11) Các vị tổ của họ Phan có đến 3 đời đậu Hương cống và làm quan dưới triều Lê nhưng đến đời thân phụ Phan Thúc Trực thì vì chán cảnh nhà Lê suy vong nên không đi thi, chỉ ở nhà dạy học. Theo Lê Xuân Giáo trong “Lời giới thiệu của người dịch”, đã dẫn.
(12) (13) Đều do chúng tôi dịch.
(14) Chính do hai chữ “di biên” trong nhan đề bộ sách – ghi chép những gì còn sót lại: phải có cái gì làm chuẩn thì mới xác định cái sót lại là cái gì chứ – đồng thời khảo sát vào nội dung bộ sách với ba phần dầy dặn và hết sức dồi dào tư liệu và gần như toàn là tài liệu quý chưa công bố, chúng tôi có phần không tán đồng ý kiến của GS Trần Kinh Hòa cho rằng cuốn sử của Phan Thúc Trực được viết trong hai năm 1851-1852 là thời gian ông được phái ra Bắc sưu tầm sách vở. Căn cứ vào ngày tháng đề sau các bài thơ làm trên các chặng hành trình, thử nghĩ, tháng Mười 1851 ông mới lên đường, đi hết Thanh Hóa, Ninh Bình, Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Yên Quảng, trèo lên cả đỉnh Yên Tử, rồi khoảng cuối năm 1852 ông mất ở Thanh Hóa, trong thời gian ấy lịch làm việc của ông chật kín và làm những việc trèo núi ghi chép văn chương là việc cực kỳ vất vả, ông còn lấy thì giờ đâu để biên soạn một bộ sử đồ sộ như Quốc sử di biên? Đó là chưa nói về tài liệu chủ yếu đưa vào trong bộ sử thì những nơi ông đi qua nào có ai cung cấp được cho ông, trừ một ít những thơ văn ông đã đưa vào các mục tham bổ nhưng cũng rất ít ỏi. Theo chúng tôi, ông chỉ có thể biên soạn Quốc sử di biên ngay từ khi còn làm ở Nội các và Viện Tập hiền là nơi có điều kiện tiếp cận tài liệu chính gốc của triều đình. Cái tên “di biên” chắc phải ra đời khi bộ Đại Nam thực lục nhận được sắc chỉ cho phép ấn hành, và vì “di biên” chỉ chép ba phần thuộc ba triều đại: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, nên đối chiếu với việc ấn hành Đại Nam thực lục, sắc chỉ ban hành cụ thể cần nói đến ở đây ít nhất cũng thuộc về phần Chính biên, Kỷ thứ nhất, vào đầu năm 1848. Vậy Quốc sử di biên chính thức được tác giả xây dựng thành kết cấu như hiện tại và cố định tên sách cũng là vào năm 1848.
(15) Đây hẳn là cuộc bái yết tại Thăng Long nhân Minh Mạng ra Bắc làm lễ cầu phong của nhà Thanh mà Phạm Đình Hổ đã ghi lại trong hồi ký của mình. Xem “Bài ký về cuộc diện đối ở hành tại” trong Phạm Đình Hổ - Tuyển tập thơ văn, Trần Kim Anh dịch, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998. Qua bài hồi ký rất chi tiết và sinh động này ta có thể rõ hơn về bệnh tình của Phạm Đình Hổ cũng như thái độ nể trọng đặc biệt của vua Minh Mạng đối với ông.
(16) (17) Trần Kinh Hòa. “Quốc sử di biên đích biên giả dữ nội dung” 國 史 遺 編 旳 編 者 與內 容, Hồng Liên Lê Xuân Giáo dịch. In đầu bản dịch Quốc sử di biên của cùng dịch giả, Sđd; tr.30 và 46.
(18) Theo GS Trần Kinh Hòa thì Đại Nam thực lục chính biên, Đệ tam kỷ cũng cùng thời điểm, chỉ chép: “Có phái đoàn sứ thần phụng mệnh nhà vua đi sang triều đình nhà Thanh báo cáo ai tín, cùng với danh sách những phẩm vật [được vua Thanh] “thưởng tứ” mà thôi”. Xem thế đủ biết ở tư cách một phát ngôn chính thống, các triều đại Việt Nam đều né tránh làm phật ý Trung Hoa.
(19) Hoàng xuân Hãn. Hồ Xuân Hương với vịnh Hạ Long. Tập san Khoa học xã hội, Paris, số 10-11 tháng 12-1984.
(20) Xin xem mục “Quan Âm tân truyện” trong Từ điển văn học, bộ mới, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2004; tr.1471-1473.
(21) Xem Nguyễn Cẩm Thúy - Nguyễn Phạm Hùng. Văn thơ Nôm thời Tây Sơn. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997. Tên chữ Hán của 5 bài văn tế trên như sau: 1. 己 未 冬 疑 御 奠 武 皇 后 喪 國 音 文; 2. 扶 寧 慈 宮 奠 文 ; 3. 公 諸 衙 奠 文 ; 4. 舊 皇 宗 奠 文 ; 5. 扶 寧 外 族 奠 文
(22) Chúng tôi nói màu sắc Cận đại chứ không nói giai đoạn Cận đại. Giai đoạn Cận đại theo chúng tôi phải bắt đầu từ 1900, nhưng màu sắc Cận đại thì có sớm hơn, nhất là trong văn học quốc ngữ Nam Bộ.
Sáng lập:
Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng
Điều hành:
Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]
Liên lạc: bauxitevn@gmail.com
boxitvn.net
boxitvn.blogspot.com
FB Bauxite Việt Nam

Bài đăng phổ biến
- Nhiệm vụ đích thực của quân Trung Quốc ở miền Bắc Việt Nam trong chiến tranh Việt Nam
- Nhân - Quả cay đắng (1)
- Bạn trẻ “bắt trend” giỏi quá
- 6 gương mặt ngoài đảng tự ứng cử đại biểu Quốc hội
- Quốc hội ta... nó thế (đêk) nào ấy...
- Một nén nhang kính viếng Tổng thư ký Hội Trí thức Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh Huỳnh Kim Báu
- Liên quan việc ứng cử ĐBQH của GS Nguyễn Đình Cống – Các mức thắng lợi
- Bắc Kinh lúng túng sau phát ngôn của người đứng đầu WHO
- Phan Châu Trinh - Nhà Cách mạng vĩ đại nhất của VN hiện đại


Nhãn
- Giáo Dục
- Sử Liệu
- chính phủ
- Pháp Luật
- Nhân quyền
- "Cuồng Trump" tại Mỹ
- "Dịch hạch"
- "phản động"
- 10 năm Bauxite Việt Nam
- 1000 năm
- 14/3
- 2638349
- 30/04/1975
- 30/4
- 30/4/1975
- 30/4/1975. Bên thắng cuộc
- 39 người chết ở Anh
- 40 năm Chiến tranh biên giới
- 90 năm
- 99 năm
- ADIZ
- Ải Nam Quan
- Albert Camus
- Alexandre de Rhodes
- Algerie
- an ninh
- An ninh CS
- an ninh mạng
- an ninh quốc phòng
- An ninh tiền tệ
- án oan
- án tử hình
- Án văn tự
- An Viên
- André Menras
- Anh hùng
- Anh hùng Lê Mã Lương
- Ảo vọng trí thức
- ASEAN
- AVG
- Ăn cắp công nghệ
- Âm mưu Tàu Cộng
- Âm mưu phá hoại kinh tế của Trung Quốc
- Âm mưu Tàu Cộng
- Âm mưu Tàu Cộng
- Âm mưu Tàu cộng biến các nước đang phát triển thành con nợ
- Âm mưu Tàu Cộng. Đảng CSTQ
- Âm mưu Trung Cộng
- Âm mưu Trung Quốc
- Ấn độ
- Ấn Độ Dương
- Âu châu
- ấu dâm
- Ba Lan
- Bà Nà
- Bá quyền nước lớn
- Bá quyền Trung Cộng
- Ba Sàm
- Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh
- Bạch Long Vĩ
- bachkhoadanang.net
- Bãi Ba Đầu
- bài Trung
- Bãi Tư Chính
- Bản chất thâm hiểm của Đại Hán
- Bản chất thể chế
- Ban Công lý và Hoà Bình GP Vinh
- Bàn cờ thế giới
- bản đồ
- Bản đồ đường lưỡi bò
- bán nước
- Ban Tổ chức trung ương
- Ban tuyên giáo
- bành trướng
- báo cáo
- Bao cấp
- Bao cấp quyền lực
- Báo chí
- Báo chí đảng
- Báo chí độc tài
- Báo chi lề phải
- Báo chí quốc doanh
- Báo chí thời đổi mới
- Báo chí tự do
- Báo chí xuất bản tự do
- bạo động
- Bạo hành trong lứa tuổi họ trò
- Bảo hiểm xã hội
- bạo loạn
- bạo lực
- Bạo lực CS
- Bạo lực cướp đất
- Bạo lực và chuyên chính
- Báo Tuổi Trẻ
- Báo Tuổi trẻ bị đình bản
- Báo Văn nghệ thời Đổi mới
- Bảo vệ đảng
- Bảo vệ nhân quyền
- Bảo vệ rừng
- Barack Obama
- Bauxite
- Bauxite Tây Nguyên
- Bắc Hàn
- Bắc Mỹ
- bắc vân phong
- Bằng câp quan chức
- bằng giả
- Bắt bớ giam cầm
- Bắt cóc
- Bắt dân
- Bần cùng hóa
- Bần cùng hóa trong thể chế cộng sản
- bất công
- Bất đồng chính kiến
- Bất động sản
- Bầu cử
- bầu cử Mỹ
- Bầu cử Mỹ 2020
- Bầu cử Quốc hội
- bầu cử Tổng thống Mỹ
- Bẫy nợ
- Bẫy nợ Trung Quốc
- BBC
- bè phái
- Bên thua cuộc
- bệnh thành tích
- Bệnh viện Bạch Mai
- Bí mật thông tin
- Biden
- Biden và chiến lược mới với Tàu Cộng
- Biden và chiến lược toàn cầu
- Biến chủng virus
- Biến đổi khí hậu
- biển Đông
- Biên giới
- biểu tình
- Bình đẳng cộng sản
- bình ổn
- Blog
- bóng đá
- Bóng đá và lòng dân
- BOT
- BOT bẩn
- Boudarel
- bộ chính trị
- Bộ luật hình sự
- Bộ máy chính quyền
- Bộ máy chính quyền CS
- bộ máy công an
- Bộ máy CS
- Bộ máy quan chức
- Bộ máy thi hành luật
- Bộ mặt thạt quan chức cộng sản
- Bộ mặt thật của quan chức cộng sản
- Bộ Quốc phòng và nhiệm vụ quốc phòng
- Bộ Tứ
- Bô Xít
- bồi thường
- Brexit
- BRI
- BS Lý Văn Lượng
- BS Nguyễn Đan Quế
- Bùi Minh Quốc
- Bùi Thị Nối
- Bùi Tín
- Bùi Viết Hiểu
- Buôn người
- buồn vui Chủ nhật
- Bức tranh thế giới
- Bước đường cùng của nông dân Việt
- CA bắt cóc
- Cà Mau
- Ca sĩ Thủy Tiên
- Cạc Ma
- Các tổ chức chân rết của đảng
- cách mạng
- Cách mạng 4.0
- Cách mạng dân chủ
- Cách mạng tháng Tám
- Cách mạng tháng Tám Con đường dân chủ hóa đất nước
- Cách mạng thàng Tám và bước lùi của lịch sử
- Cái ác
- cải cách
- Cải cách chính trị
- Cải cách tư pháp
- Cái chết cụ Kình
- Cái chết của quan chức Cộng sản
- cải tổ
- Cam kết nhân quyền
- Campuchia
- Canada
- Cảnh báo đỏ
- Cảnh giác Tàu Cộng
- cánh tay của đảng
- Cánh tay nối dài của đảng
- canh tân
- Cao Bằng
- cáo buộc chống nhà nước
- Cáo phó
- Cao tốc Bắc - Nam
- Cao tốc Bắc Nam
- Cắt điện
- Cầm nhầm thương hiệu
- cấm nhập cảnh
- cấm vận
- Cận huyết chính trị
- Cận huyết khoa học
- Cấn thị Thêu
- Câu đối Tết
- Cháy rừng
- Chân lý nước Tàu
- Chân Phương
- Chân vạc Mỹ - Nga - Trung
- Châu Á
- Cheonan
- chế độ
- chế độ công an trị
- Chế độ cộng sản
- Chế độ Cộng sản TQ
- Chế độ CSVN
- Chế độ dân chủ
- Chế độ Việt Nam Cộng hòa
- Chế độ VNCH
- Chết dưới tay Trung Quốc
- Chia buồn
- Chiếc ghế Hội đồng nhân quyền
- Chiến dịch "đốt lò" của Nguyễn Phú Trọng
- Chiến lang của Tàu Cộng
- Chiến lược bành trướng
- Chiến lược mềm thôn tính các nước của Tàu cộng
- Chiến lược ngoại giao
- Chiến lược toàn cầu
- Chiến lược Trung Quốc
- Chiến thuật vùng xám
- chiến tranh
- Chiến tranh biên giới
- Chiến tranh lai
- Chiến tranh lạnh mới
- chiến tranh nguyên tử
- Chiến tranh sinh học
- chiến tranh thương mại
- Chiến tranh thương mại Mỹ Trung
- Chiến tranh Việt Nam 1959-1975
- chiến tranh Việt Trung
- Chinalco
- Chinanazi
- Chinazi
- Chính khách Dân chủ & Độc tài
- chính phủ
- Chính phủ Tràn Trọng Kim
- Chính phủ Trần Trọng Kim
- Chính Quyền
- Chính quyền Cộng sản
- chính sách
- Chính sách 4 không
- Chính sách ba không
- Chính sách đối ngại của J. Biden
- Chính sách đối ngoại của chính quyền Biden
- Chính sách đối ngoại Joe Biden
- Chính sách Joe Biden
- Chính sách thuế
- Chính sách xoay trục 2.0 của Mỹ
- Chính trị
- Chính trị Mỹ
- Chính trị thế giới
- Chính trị thống soái
- Chính trị Xã hội VN
- Cho thuê rừng
- Chống diễn biến tư tưởng
- Chống tham nhũng
- Chống tham nhũng & Phe phái trong đảng
- chống Trung Quốc xâm lược
- Chống Trung Quốc xâm lược mềm
- Chu Ân Lai
- Chu Hảo
- Chu Hảo Tuyên bố
- Chủ nghĩa bành trướng Đại Hán
- Chủ nghĩa bầy đàn
- Chủ nghĩa cộng sản
- Chủ nghĩa Dân túy
- chủ nghĩa Đại Hán
- chủ nghĩa Mác
- Chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa nhân văn
- Chủ nghĩa Mác-Lê
- Chủ nghĩa thân hữu
- Chủ nghĩa Trump
- Chủ nghĩa Trump và CNCS Trung Quốc
- Chủ nghĩa tư bản thám sát (surveillance capitalism)
- Chủ nghĩa Tư bản Thân hữu
- Chủ nghĩa vô sản quốc tế
- chủ nghĩa xã hội
- Chủ quyền
- Chủ quyền biển đảo
- Chủ quyền Biển Đông
- Chủ quyền lãnh thổ
- Chú Tễu
- Chùa chiền và Phật giáo Cộng sản
- Chúc mừng năm mới
- Chúc Tết
- Chuyên chính
- Chuyên chính trong thể chế Cộng sản
- Chữ quốc ngữ
- Chức năng của quân đội và công an dưới thể chế đảng trị
- Chức năng quân đội
- Chương trình "Thách đố & Cộng hưởng"
- Climate Central
- coi thường luật pháp
- Con cái quan chức
- Con đường dài hạn của kinh tế Mỹ
- Con đường dân chủ hóa
- Con đường đổi mới
- Con đường lây lan Covid-19
- Con đường ngầm của giới doanh nhân Việt
- Con đường phát triển
- Con đường quyền lực
- Con đường Việt Nam
- Con người mới hôm nay
- Con số người chết dịch Coronavirus ở Trung Quốc
- Corona
- Coronavirus
- COVID 19 ở VN
- COVID-19
- COVID-19 ở VN
- Cộng sản cướp đất
- Công an
- công an đánh dân
- Công an trị
- Công an và văn hóa nhân văn
- Công an Việt Nam trong chế độ độc tài
- công đoàn
- Công đoàn CS
- Công đoàn độc lập
- Cộng đồng người Việt ở nước ngoài
- Công đồng người Việt tị nạn
- Công giáo
- Công giáo hôm nay
- Công giáo và CS
- Công hàm Phạm Văn Đồng
- Công lý
- Công lý cộng sản
- Công nghệ giáo dục
- Công nghệ hóa và vấn đề quyền con người
- Công nghệ xe ô tô
- Công nghiệp hóa
- công nhân
- Công pháp quốc tế
- Cộng sản
- Cộng sản & mê tín
- Cộng sản đối thoại với dân
- Cộng sản phản tỉnh
- Cộng sản sụp đổ
- Cộng sản tha hóa
- Cộng sản Trung Quốc
- Cộng sản Trung Quốc và sự áp chế dân chúng
- Cộng sản và chủ quyền đất nước
- Cộng sản và đảng viên phản tỉnh
- Cộng sản và Luật sư
- Cộng sản và trí thức
- Cộng sản và tự do ngôn luận
- Cộng sản và vấn đề bán nước
- Cộng sản và Xã hội dân sự
- Cộng sản vàvấn nạn cải thiện đời sống nhân dân
- Cộng sản Việt Nam và luật pháp quốc tế
- Công ty làm giả cho ngành giáo dục
- Công ước Liên hợp quốc 1982
- Công ước quốc tế
- Cơ chế và tham nhũng
- Cờ tổ quốc
- Cờ vàng ba sọc
- cởi truồng
- CPJ
- CPTPP
- Crimea
- Crưm
- CS ám sát
- CS suy vong
- Cù Huy Hà Vũ
- Cuba
- Cuba tỉnh giấc
- Cùng chung ý thức hệ
- cung đình
- Cùng ý thức hệ
- Cuộc chiến giữ đất
- Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung
- Cuộc chiến thương mại Mỹ Trung
- Cuốc chiến trang thương mại Mỹ Trung
- Cuộc xâm lược mềm của Đại Hán
- Cuồng chống Trump
- Cuồng Trump
- Cưỡng chế
- Cưỡng chế đất đai
- cướp bóc
- Cướp đất
- cướp đất của dân
- Cướp đất của dân
- cựu binh
- Cứu đói
- Cứu trợ
- Cứu trợ bão lũ
- Danh dự nhà khoa học
- Danh nhân văn hóa
- Davos
- Dân chủ
- Dân chủ & Độc tài
- Dân chủ Cộng hòa
- Dân chủ của đảng
- dân chủ giả hiệu
- Dân chủ hóa
- Dân chủ Hoa Kỳ
- Dân chủ kiểu cộng sản
- Dân chủ Mỹ
- Dân chủ ở Việt Nam
- Dân khí
- dân nghèo
- Dân oan
- dân quyền
- Dân sinh
- dấn thân
- dân tộc
- Dân tộc dân chủ
- Dân tộc Uighur
- Dân tộc Việt
- Dân trí
- dân túy
- Dân vận
- Dân Việt ở Campuchia
- Dấu ấn một năm
- Dầu mỏ
- Di chúc Hồ Chí Minh
- Di dân
- di sản cuộc chiến
- di tích
- dịch thuật
- Diệt chủng
- Diệt chủng Tân Cương
- Dìm giá
- doanh nghiệp nhà nước
- Doanh nghiệp TQ và đút lót
- Donald Trump
- Dộc tài Trung Cộng với bầu cử tự do
- du lịch 0 đồng
- dùng tiền TQ trên đất VN
- Duy Ngô Nhĩ
- dự án
- Dự án đường cao tốc Bắc Nam
- Dự án kinh tế
- dự án từ Trung quốc
- Dư luận viên
- Dư luận viên của Đảng
- Dự luật đặc khu kinh tế
- Dự ngôn
- Dư Thị Thành
- Dương Danh Dy
- Dương Thu Hương
- Dương Trung Quốc
- Dương Tường
- Đa dạng sinh học
- Đa đảng
- Đà Lạt
- Đà Nẵng
- Đa nguyên
- đại án
- Đại án Đồng Tâm
- Đại án Thủ Thiêm
- đại biểu hội đồng nhân dân
- Đại biểu quốc hội
- Đại dịch Corona
- Đại dịch Coronavirus
- Đại dịch Covid-19
- Đại dịch Covid-19 và Việt Nam
- Đại dịch Trung Quốc
- Đại dịch virus Trung Quốc
- Đại dịch virus Trung Quốc và người nghèo
- Đại dịch Vũ Hán
- Đại dịch Vũ Hán và Việt Nam
- Đại Hán
- Đại học
- Đại hội 13
- Đại hội Đảng
- Đại hội Đảng XIII
- Đại hội ĐCSVN XIII
- Đại hội XIII
- Đại hội XIII & các mục tiêu
- Đài Loan
- đại lộ Đông-Tây
- Đàm phán biên giới
- đàn áp
- Đàn áp báo chí
- Đàn áp biểu tình
- Đàn áp dân chống BOT bẩn
- Đàn áp dân chủ
- Đàn áp dân quyền
- Đàn áp người biểu tình
- đàn áp người hoạt động nhân quyền
- Đàn áp nhà báo tự do
- Đàn áp nhân quyền
- Đàn áp tôn giáo
- Đàn áp xã hội dân sự
- Đàn áp XHDS
- đàn bầu
- đảng cầm quyền
- Đảng Cộng sản
- Đảng Cộng sản Trung Quốc
- Đảng Cộng sản và vấn đề cán bộ
- Đảng Cộng sản Việt Nam
- Đảng CS Việt Nam
- Đảng CSTQ
- Đảng CSVN
- Đảng CSVN và mục tiêu giành độc lập
- Đảng hóa
- Đảng lãnh đạo
- Đảng phái
- Đảng sợ dân
- Đảng và Dân
- Đảng với dân
- Đảo chính
- Đảo chính Myanmar
- Đảo chính quân sự
- Đạo đức
- Đạo đức cộng sản
- Đạo đức ngành y
- Đạo đức nghề giáo
- Đạo đức suy đồi
- Đạo đức xã hội
- Đạo luật Magnitsky
- Đào tạo cán bộ cộng sản
- Đạo văn
- đặc khu
- Đặc khu kinh tế
- đặc xá
- Đặng Quốc Bảo
- Đặng Tiểu Bình
- Đặng Văn Hiến
- Đặt tên đường
- đâm chìm tàu cá
- Đập thủy điện Mekong. Đập thủy điện Lan Thương
- Đất đai
- đất hiếm
- Đấu đá nội bộ
- Đấu tranh dân chủ
- đầu tư
- Đầu tư Dự án Hải cảng Khu kinh tế
- Đầu tư Trung Quốc & Nguy cơ xâm lược mềm
- ĐCS & Dân chủ hóa
- ĐCSTQ
- ĐCSVN
- ĐCSVN và việc làm trong sạch đảng viên
- ĐCSVN với Trung Cộng
- Đê điều và sông ngòi Hà Nội
- Địa-chính trị Việt Nam
- Điềm gở
- Điện
- Điện ảnh Việt Nam
- Điện ảnh Việt Nam tại Pháp
- Điện hạt nhân
- điện lực Việt Nam
- Điện mặt trời
- Điện Việt Nam
- Điều lệ Đảng
- Đình bản báo
- Định chế quốc gia
- Đình chỉ báo Tuổi trẻ
- đình công
- Định hướng xã hội chủ nghĩa
- Đinh Quang Anh Thái
- Đoàn kết
- Đoan Trang
- Đoàn Văn Vươn
- Đoàn viên
- Đọc sách thời đại loạn thông tin
- Đón thời cơ
- Đóng cửa
- Đỗ Minh Tuấn
- Đỗ Mười
- Đỗ Ngọc Bích
- Đỗ Nguyễn Mai Khôi
- độc tài
- độc đảng
- Độc lập dân tộc
- độc quyền
- độc tài
- Độc tài cộng sản
- Độc tài Cộng sản Trung Quốc
- Độc tài cộng sản và khoa học kỹ thuật
- Độc tài Trung Cộng
- Độc tài tư bản và độc tài cộng sản
- Độc tài và kỳ thị
- Đổi mới
- Đổi mới tư duy
- đội ngũ
- Đội quân chân rết
- đối thoại
- đối thoại giữa nhà cầm quyền và người hoạt động nhân quyền
- Đồng bằng sông Cửu Long
- đồng hoa
- đồng hóa
- Đồng hóa sắc tộc
- Đông Nam Á
- Đông Ngàn
- Đồng Sĩ Nguyên
- Đồng Tâm
- Đốt lò
- Đốt rừng
- Đời sống
- đơn từ
- Đường cao tốc Bắc Nam
- Đường lối đảng
- Đường lối thoát hiểm
- Đường lưỡi bò
- Đường sắt cao tốc
- Đường sắt Cát Linh
- Đường sắt Cát Linh - Hà Đông
- Đường sắt liên vận VN - Trung Quốc
- Đường về nô lệ
- EVFTA
- EVFTA và thể chế
- EVIPA
- EVN
- ExsonMobil
- ExxonMobil
- Facebook điều trần
- Facebook và Luật AN mạng
- Facebook và luật an ninh mạng
- Fake news
- FDI
- FOIP
- Formosa
- Francisco de Pina
- Frank Fenner
- G20
- Gạc Ma
- gạo
- Gắn bó ý thức hệ
- GDP
- Ghét Tàu yêu Mỹ
- giả dạng thương binh
- Giá xăng phi mã
- Giải ảo siêu cường Trung Quốc
- Giai cấp lãnh đạo
- Giải giới hạt nhân Triều Tiên
- Giải Nobel
- giải pháp
- Giải phóng
- Giải thưởng Phan Chu Trinh
- Giải trừ hạt nhân
- Giải trừ vũ khí hạt nhân Bắc Hàn
- Giam cầm kiểu CS
- Giám đốc thẩm
- Giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải
- Giám mục Nguyễn Thái Hợp
- gián điệp
- giàn khoan TQ
- gian lận
- Gian lận thi cử
- Gian lận thương mại
- Giáng Sinh
- Giáo
- Giáo Dục
- Giáo dục CS
- Giáo dục và chính trị
- Giáo dục Việt Nam
- Giáo dục Việt Nam trong tương quan Hàn quốc
- Giao Thông
- Giàu nghèo
- giấc mộng siêu cường
- Giấc mộng Trung Quốc
- Giấc mơ cộng sản
- Giấy tờ công văn
- giết chóc
- giết người
- Giống và khác giữa Triều Tiên và Việt Nam
- Góp ý
- Gốc rễ hư hỏng của quan chức Cộng sản
- Gương mặt trí thức Việt
- H. Kissinger
- Hạ Đình Nguyên
- Hà Đình Sơn
- Hà Giang
- Hà Nội
- Hà Sĩ Phu
- Hà Thị Nhung
- Hà Văn Thịnh
- Hải chiến Hoàng Sa
- Hải Phòng
- Hải quân
- Hạn hán
- hạn mặn
- Hàn quốc
- Hàng giả
- Hàng không Việt Nam
- Hàng không VN
- Hàng rong
- hành chính
- Hành hung
- Hạt giống đỏ
- hấm điểm công dân Nguyễn Anh Tuấn
- Hậu bầu cử Mỹ 2020
- Hệ lụy Đồng Tâm
- hiểm hoạ
- Hiến pháp
- Hiện tại và quá khứ
- Hiện tượng của năm
- Hiệp định thương mại
- Hiệp định TPP
- Hiệp địnnh CPTPP
- Hiệp ước EVFTA
- hòa giải
- Hòa hợp dân tộc
- Hoà hợp hoà giải
- Hòa hợp hòa giải
- Hoa Kỳ
- Hoạ mất nước
- Hoàng Cầm
- Hoàng Công Lương
- Hoàng Hưng
- Hoàng Ngọc Hiến
- Hoàng Sa
- Hoàng Tụy
- Hoàng Xuân Tuyền
- Hoạt động của Việt kiều Úc
- học tập cải tạo
- Hong Kong
- HongKong
- Hồ Cẩm Đào
- Hồ Chí Minh
- Hồ Duy Hải
- Hồ Ngọc Đại
- Hỗ trợ xã hội
- Hội chứng Việt Nam
- Hội đoàn Cộng sản
- Hội đồng Bảo an LHQ
- Hội đồng Lý luận
- hồi ký
- Hối lộ
- Hội nghị TU đảng
- Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam
- Hội Nhà văn Việt Nam
- Hồng Kông
- Hồng và chuyên
- Hợp nhất Tổng bí thư và Chủ tịch nước
- Hợp tác
- Hợp tác năng lượng
- Huawei
- hủy bỏ
- Huy Cận
- Huy động tiền dân
- Huy Đức
- Huỳnh Thục Vy
- Hữu nghị Cộng sản
- Hữu nghị Việt - Trung
- ICOR
- IDS
- IJVN
- Internet
- IPA
- Italia và Tàu Cộng
- J. Biden
- Jeo Biden
- Joe Biden
- John McCain
- John Steinbeck
- Junin 2
- Kẻ thù truyền kiếp
- Kênh đào Suez
- Kêu gọi
- khai dân trí
- Khai thác
- Khát vọng thoát Trung của người Việt
- Khắc phục án tử
- khiếu kiện
- Khoa học
- Khủng bố
- Khủng hoảng
- Khủng hoảng giáo dục
- khủng hoảng kinh tế
- khủng hoảng thể chế
- Khủng hoảng xã hội
- Kịch bản thú tội
- Kiểm duyệt
- Kiểm soát quyền lực
- Kiến nghị
- Kiện Trung Quốc
- Kiều hối
- Kim Dung
- Kim Jong Un
- Kình chống
- Kinh Tế
- Kinh tế cạn kiệt
- Kinh tế Mỹ
- Kinh tế ngầm
- Kinh tế thế giới
- Kinh tế Trung Quốc
- Kinh tế trung ương và kinh tế địa phương
- Kinh tế tư nhân
- Kỷ luật Đảng
- Kỳ thị
- kỳ thị chủng tộc
- Kỳ thị Mỹ
- Kỳ thị trí thức
- Kyal Sin
- lạc hậu
- Lách luật
- Làm chủ
- lạm phát
- Lãng phí
- Lạng Sơn
- Làng ung thư
- lãnh đạo
- Lãnh đạo cộng sản
- Lào
- Lao động
- Lao động nhập cư
- Lao động Việt
- Lao động xuất khẩu
- Lâm tặc
- lập hội
- Lấy dân làm gốc
- Lê Anh Hùng
- Lê Công Phụng
- Lê Duẩn
- Lê Đăng Doanh
- Lê Đình Kình
- Lê Đình Lượng
- Lê Đức Anh
- Lê Hiếu Đằng
- Lê Mã Lương
- Lê Quốc Trinh
- Lễ tang Nguyễn Trọng Vĩnh
- Lê Thanh Hải
- Lê Thị Thu Hà
- Lê Xuân Khoa
- Lên tiếng
- Lệnh không nổ súng trước quân xâm lược Trung Quốc
- Lịch sử
- Liêm khiết
- Liêm sỉ
- Liên Hiệp Quốc
- Liên Hợp Quốc
- Liên minh
- Liên minh chống Chinazi
- Liên minh quân sự Nga - Trung
- Liên Xô
- Linh mục Đặng Hữu Nam
- Lính thợ Việt Nam tại Pháp trong các cuộc Thế chiến
- LivenGuide
- lòng dân
- Lỗ hổng pháp luật Việt Nam
- Lỗ hổng trong Pháp Luật Việt Nam
- Lộc Hưng
- Lời hứa
- lợi ích
- Lợi ích nhóm
- Lời kêu gọi
- Lời Vĩnh biệt
- Lũ lujt miền Trung
- lũ lụt
- Lũ lụt miền Trung
- Luận tội tổng thống
- Luật An ninh mạng
- Luật biển
- luật biểu tình
- Luật dẫn độ
- Luật dẫn độ Hồng Kông
- Luật Đặc khu
- luật đất đai
- Luật điều ước quốc tế
- Luật Hải cảnh
- Luật Hộ tịch
- Luật lao động
- Luật lập hội
- Luật Magnisky
- Luật pháp
- Luật pháp cộng sản
- Luật pháp Việt Nam
- Luật quốc phòng Mỹ
- Luật sư
- Luật sư và Tòa án CS
- Lực cơ bản
- Lực lượng 47
- lương hưu
- Lưu hành đồng Nguyên Trung Quốc
- Lưu Quang Vũ
- Lý Đông A
- Lý Sơn
- Lý tưởng tự do bình đẳng
- Mã Lai
- Mahathir Mohamad
- Mai Thái Lĩnh
- Mai Triệu Quang
- mạng xã hội
- Mao Trạch Đông và ĐCSTQ
- Marx hết vai trò trong các nước tư bản đỏ
- máy bay rớt
- mặt thật Cộng sản
- Mặt thật cộng sản
- Mặt thật CS
- Mặt thật của CSVN
- Mặt thật của những kẻ thèm khát EVFTA
- Mặt thật quan chức
- Mặt thật Tàu Cộng
- Mắt thật Tập Cận Bình
- Mặt thật Trung Cộng
- Mặt thật Trung Cộng
- Mặt thật Trung Quốc
- Mặt thật xã hội
- Mặt thật XHCN
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
- Mặt Trận TQVN
- Mầm non
- Mẹ Nấm
- Mekong
- Mẹo Cộng sản
- Miến Điện
- miền Tây Nam Bộ
- miễn thị thực
- Mike Pompeo
- Mikhail Gorbachev
- Mỏ Cá Voi Xanh
- Mobifone
- Món nợ khổng lồ từ ODA
- Mồ mả lăng tẩm
- Môi sinh
- Môi trường
- Môi trường đồng bằng sông Cửu Long
- Môi trường sinh thái
- Môi trường Thủ đô
- Mộng bá chủ của Trung Cộng
- Một vành đai một con đường
- Một vành đai một con đường đang dần lộ tẩy
- mua dâm
- Mua quan bán chức
- Mua quan bán tước
- Mưu đồ bành trướng của Trung Cộng
- Mưu Tàu Cộng
- Mỹ
- Mỹ - Đài - Trung
- Mỹ - Trung
- Mỹ cấm vận Iran
- Mỹ và thế giới hậu Trump
- Mỹ và Việt Nam hậu Trump
- Mỹ-Trung
- Mỹ-Việt
- Myanmar
- Nam Trân
- nạn buôn người
- Nạn ô nhiễm môi trường
- National Geographic Society
- Năng lượng
- năng lượng điện
- nâng cao dân trí
- nâng điểm
- Nền dân chủ Mỹ
- Nền kinh tế XHCN
- Nga
- Ngày nhân quyền
- ngày nói dối
- Ngày phụ nữ
- Ngày Phụ nữ quốc tế
- Ngày Quốc khánh và lòng dân
- Ngăn sông cấm chợ
- ngân hàng VN
- ngân sách
- Ngân sách nhà nước CS
- Ngân sách quốc gia
- ngập úng
- Nghệ sĩ thứ thiệt
- Nghệ sĩ và thể chế
- Nghệ sĩ và tự do
- Nghị định 15/2020/NĐ-CP
- Nghị định và lòng dân
- Nghị quyết Đảng
- Nghiệp đoàn
- nghiệp đoàn độc lập
- Ngoại Giao
- Ngoại giao chiến lang
- ngoại lai
- Ngoại ngữ
- Ngón nghề mật vụ
- Ngô Bảo Châu
- Ngô Đình Diệm
- Ngô Vĩnh Long
- ngu dân
- Ngủ gật tronng phiên họp Liên hợp quốc
- Nguồn gốc dân tộc Việt
- ngụy biện
- Ngụy biện cộng sản
- Nguy cơ Trung Quốc
- Ngụy Hữu Tâm
- Ngụy Kinh Sinh
- nguỵ quân nguỵ quyền
- Nguyễn Đức Kiên
- Nguyễn Trường Tô
- Nguyễn Bắc Son
- Nguyễn Biên Cương
- Nguyễn Du
- Nguyễn Duy Trinh
- Nguyễn Đình Cống
- Nguyễn Đức Chung
- Nguyễn Hải Long
- Nguyễn Hòa Bình
- Nguyễn Huệ Chi
- Nguyễn Huy Hoàn
- Nguyễn Huy Thiệp
- Nguyễn Hữu Đang
- Nguyễn Khắc Mai
- Nguyên Ngọc
- Nguyễn Ngọc Ân
- Nguyễn Ngọc Như Quỳnh
- nguyễn phú trọng
- Nguyễn Quang A
- Nguyễn Quang A & Viện IDS
- Nguyễn Tấn Dũng
- Nguyễn Thanh Giang
- Nguyễn Thế Hùng
- Nguyễn Thị Kim Ngân
- Nguyễn Thiện Nhân
- Nguyễn Thúy Hạnh
- Nguyễn Thượng Long
- Nguyễn Trần Bạt
- Nguyễn Trọng Tạo
- Nguyễn Trọng Vĩnh
- Nguyễn Trung
- Nguyễn Trung Trực
- Nguyễn Trường Tô
- Nguyễn Tường Thụy
- Nguyễn Văn Bình
- Nguyễn Văn Bông
- Nguyễn Văn Thanh
- Nguyễn Văn Thể
- Nguyễn Văn Vĩnh
- Nguyện vọng hòa bình của họ nhà Kim
- Nguyễn Xuân Diện
- Nguyễn Xuân Phúc
- ngư dân
- Ngừng cáp visa cho Việt Nam
- Người Bảo vệ Nhân quyền
- Người Cộng sản
- Người Đông Nam Á tị nạn tại Hoa Kỳ
- Người lính VNCH
- Người Trung Quốc
- Người Việt
- Người Việt "cuồng Trump" và "chống Trump"
- Người Việt anh hùng
- Người Việt bỏ nước
- Người Việt bốn phương
- người Việt hải ngoại
- Người Việt ở nước ngoài
- Người Việt tị nạn tại Hoa Kỳ
- Người Việt và bầu cử Mỹ
- Người Việt và khuynh hướng chống Trung Cộng
- Ngyên Ngọc
- Nhà báo
- nhà máy alumin nhân cơ
- nhà máy nhiệt điện
- nhà nước
- Nhà nước kiến tạo
- Nhà nước Liên bang Trung Quốc Mới
- nhà nước Việt Nam
- Nhà nước Việt Nam và hội nhập quốc tế
- Nhà nước Việt Nam và việc chi tiêu ODA
- Nhà nước XHCN
- Nhà thầu Trung Cộng
- Nhà thờ Bùi Chu
- Nhà tù CS
- Nhà văn Liên Xô phản kháng
- Nhà xuất bản Tự do
- nhạc vàng
- Nhân cách quan chức cộng sản
- Nhân cơ
- nhân dân
- Nhân dân thức tỉnh
- Nhân quyền
- Nhân quyền Việt Nam
- Nhân sự Cộng sản
- Nhân sự của Đảng
- Nhân sự Đại hội Đảng
- Nhân sự đảng
- Nhân sự thể chế
- Nhân sự trong guồng máy đảng hiện nay
- Nhân tài
- Nhân tài Việt Nam
- Nhận tội
- Nhật - Việt
- Nhật Bản
- Nhật ký trong tù
- Nhất thể hóa
- Nhậtt Bản trong khu vực
- Nhiệm kỳ Donald Trump
- Nhiệt điện
- nhiệt điện ô nhiễm
- Nhiệt điện than
- Nhiệt điện Vĩnh Tân
- Nho giáo
- Nhóm lợi ích
- Nhu cầu tự do dân chủ
- Những bức ảnh biết nói
- Những cái chết bí ẩn của lãnh đạo Việt Nam
- Những gương mặt thân Tàu
- niềm tin
- Nịnh hót và thể chế
- Nọc Nạn
- Notre Dame de Paris
- NoUFC
- Novaland
- Nỗi buồn chiến tranh
- Nội tình đảng CSVN
- nội xâm
- nông dân
- Nông dân và bần cùng hóa
- Nông dân Việt Nam và sự bần cùng hóa
- Nông dân VN và sự bần cùng hóa
- Nông Đức Mạnh
- nông nghiệp
- Nông thôn
- nợ
- Nợ nần
- Nợ nước ngoài
- Nợ Trung Quốc
- nợ xấu
- Nước biển dâng
- nước lạ
- nước mắm truyền thống
- Nước Mỹ
- Nước Mỹ hậu Trump
- Nước Mỹ thời Biden
- Nước Mỹ trong đại dịch
- Nước Nga hậu Xô Viết
- Nước Pháp
- nước sạch
- Obama
- ODA
- Ô nhiễm
- Ô nhiễm không khí
- ổn định
- ổn định xã hội
- Paris
- PCI
- phá hoại môi trường
- phá rừng
- Phạm Bình Minh
- Phạm Chí Dũng
- Phạm Chi Lan
- Phạm Đoan Trang
- Phạm Nhật Vũ
- Phạm Nhật Vượng
- Phạm Quyết Thắng
- Phạm Thanh Nghiên
- Phạm Toàn
- Phạm Văn Nhận
- Phạm Viết Đào
- Phạm Xuân Nguyên
- Phản biện
- Phản biện của báo chí
- Phan Châu Trinh
- Phan Châu Trinh
- Phan Chu Trinh
- Phan Đình Diệu
- Phản đối
- Phan Ngọc
- phản quốc
- Phản ứng của Việt Nam
- Pháp chế Cộng sản
- Pháp lệnh
- Pháp Luân Công
- Pháp Luật
- Pháp luật Việt Nam
- Pháp lý
- Pháp quyền XHCN
- Phạt giao thông
- Phát ngôn
- Phát ngôn người cầm cân nẩy mực
- phát ngôn quan chức
- phát triển
- Phát triển đất nước
- Phát triển kinh tế
- Phát xít
- phẩm chất cộng sản
- phẩm chất dân tộc
- Phẩm chất người cầm quyền
- Phân ưu
- Phật giáo dưới chế độ cộng sản
- Phật giáo và Nhóm lợi ích
- Phật giáo và tư bản đỏ
- Phe nhóm
- Phe phái & công cuột "đốt lò"
- Phe thân Tàu
- Philippines
- Phim ảnh
- Phòng ngự Biển Đông
- Phòng thí nghiệm virus ở Vũ Hán
- phong thủy
- Phong thủy Thăng Long
- Phong trào Áo Vàng
- phong trào dân chủ
- Phong trào dân chủ châu Á
- Phong trào đấu tranh dân chủ
- Phổ biến kiến thức
- phố cổ
- Phú Mỹ Hưng
- Phụ nữ
- phú quốc
- Phùng Liên Đoàn
- Putin
- quan chức
- Quan chức cộng sản
- Quan chức cộng sản hưu trí trước nhu cầu thức tỉnh
- Quan chức cộng sản thời nay
- Quan chức Cộng sản vào lò
- Quan chức CS
- Quan chức đảng
- Quan chức nói
- Quan chứcCS
- Quan hệ Châu Âu - Trung Cộng
- Quan hệ chiến lược Hoa Kỳ-Trung Quốc
- Quan hệ chiến lược Mỹ - Trung
- Quan hệ Czech - Việt Nam
- Quan hệ EU - Hoa Kỳ
- Quan hệ EU - Hoa Kỳ - Trung Quốc
- Quan hệ EU - Trung Quốc
- Quan hệ hai đảng
- quan hệ môi răng
- Quan hệ Mỹ - Đài Loan - Trung
- Quan hệ Mỹ - EU - Trung Quốc
- Quan hê Mỹ - Trung
- Quan hệ Mỹ - Trung
- Quan hệ Mỹ - Úc
- Quan hệ Mỹ - Việt
- Quan hệ Mỹ & đồng minh - Trung Quốc
- Quan hệ Mỹ Trung
- Quan hệ Mỹ-Trung
- Quan hệ Nga - Trung
- Quan hệ ngoại thương Trung Quốc - thế giới
- Quan hệ quốc tế
- Quan hệ Trung - Mỹ
- Quan hệ Trung - Việt
- Quan hệ Trung Quốc - EU
- Quan hệ Trung Quốc - Thế giới tự do
- Quan hệ Úc - Trung
- Quan hệ Việt - Mỹ
- Quan hệ Việt - Trung
- Quan hệ Việt - Trung - Mỹ
- quan hệ Việt Đức
- Quan hệ Việt Mỹ
- quản lý
- Quản lý công nghệ
- Quản lý hàng không
- Quản lý nhà nước
- Quản trị quốc gia
- Quân Đội
- Quân phiệt
- quân sự
- Quốc gia
- Quốc hoa
- Quốc Hội
- Quốc hội châu Âu
- Quốc khánh trong nỗi sợ
- Quốc khánh trong nỗi sợ lòng dân
- Quốc khánh Trung Cộng
- Quốc phòng Việt Nam
- Quốc tang
- Quốc Tế
- Quỹ 50K
- Quỹ đất Hà Nội
- quy định 214
- quy hoạch
- Quy hoạch cán bộ
- Quy hoạch nhân sự
- Quy luật thị trường
- Quyền con người
- Quyền công dân
- quyền hạn
- Quyền lợi
- Quyền lực
- Quyền lực đảng
- Quyền lực và tha hóa
- Quyền riêng tư
- Quyền tự do dân chủ
- Quyền tự do thông tin
- RFI
- Rọ mõm
- RSF
- Rửa tiền
- Rừng
- Sách giáo khoa
- Sách trắng Quốc phòng
- Sài Gòn
- sai lầm
- Samsung
- Sáp nhập tiền tệ
- Sarkozy
- Sáu Dân
- Sáu Tường
- Sầm Đức Xương
- Sân bay Long Thành
- Sân bay Tân Sơn Nhất
- SEARAC
- Shangri-la
- Siêu cử tri
- sòng bạc
- Song Chi
- Số hóa
- sổ hộ khẩu
- Số phận Chinazi
- Số phận người bất đồng chính kiến
- Số phận nông dân
- sông Hồng
- Sông Mekong
- Sông Mékong
- Sống nhân văn
- Sở hữu đất đai
- Sở hữu đất đai & Thu hồi đất đai
- Sở hữu đất đai và Thu hồi đất đai
- Sở hữu toàn dân
- Sở hữu toàn dân và tình trạng và cướp đất
- sri lanka
- Stalin
- Stasi
- Sun Group
- Sùng bái cá nhân
- Suy nghĩ
- Suy thoái kinh tế
- suy tư
- Sử Liệu
- Sức sống dân tộc
- Sức sống XHDS
- Tạ Phong Tần
- tái cấu trúc
- Tài nguyên
- Tam Đảo
- Tam quyền phân lập
- Tàn dư phe XHCN hiện nay
- tản mạn
- Tản mạn chính trị
- tàn phá
- Tang lễ Nguyễn Trọng Vĩnh
- Tàu cá Trung Quốc
- Tàu Cộng
- Tăng giá điện
- tăng thuế
- tăng trưởng
- Tâm linh
- Tâm lý thời đại
- Tầm nhìn của Đảng Cộng sản
- Tân Cương
- Tân Rai
- Tập Cận Bình
- Tập Cận Bình Chiến lược Vành đai và con đường
- Tập đoàn xe Grab biểu tình
- Tập quyền
- Tập quyền tham nhũng
- tập thể
- Tập trận RIMPAC
- Tẩy chay Trung Quốc
- Tây Nguyên
- Tây sơn
- Tây tạng
- Tedros Adhanom Ghebreyesus
- Tệ nạn
- tên lạ
- Tết
- Tết Trồng cây
- Tha hóa xã hội
- Thả thơ Rằm tháng Giêng
- Thái Anh Văn
- Thái Lan
- Tham
- Thảm họa Cộng sản
- Thảm họa môi trường
- Tham nhũng
- Tham nhũng chính sách
- Tham nhũng nhiệm kỳ
- Tham nhũng quyền lực
- Thảm sát Gạc Ma
- Tham vọng quyền lực
- thanh lọc
- Thành thật
- thành tích dổm
- Thanh toán Nhân dân tệ
- thanh trừng
- Thành ủy Hà Nội
- Thành viên Liên hợp quốc
- thao túng chính trị
- Thao túng tiền tệ
- Thặng dư thương mại
- Thăng Long
- Thân phận dân tộc Việt Nam dưới thời Cộng sản
- Thân phận dân Việt
- Thân phận người Việt
- Thất nghiệp
- thầy giáo
- Thẻ đảng
- thể chế
- Thể chế cận huyết
- Thể chế chính trị
- Thể chế chính trị Việt Nam
- Thể chế Cộng sản
- Thể chế cộng sản bế tắc
- Thể chế dân chủ
- Thể chế độc tài
- Thế chế trong buổi mạt vận
- Thể chế và đồng tiền
- Thể chế và lòng dân
- Thể chế và lối thoát
- Thể chế và pháp luật
- Thể chế và phát triển
- Thế chiến thứ Ba
- Thế giới cảnh giác Trung Cộng
- Thế giới chống Trung Quốc
- Thế giới tẩy chay Trung Quốc
- Thế gới quan tâm tù nhân lương tâm ở Việt Nam
- thế hệ trẻ
- Thế lực thù địch
- Thềm lục địa
- thi đua
- thị trường chứng khoán
- Thị Vải
- Thích Quảng Độ
- Thích Trí Quang
- Thiên An Môn
- thiên nhiên
- Thiên tai
- thiết chế xã hội
- Thiểu số thức tỉnh
- thiếu văn hóa
- thoả ước Thành Đô
- thòa ước Thành Đô
- Thoái Đảng
- Thoái hóa đoàn thể cánh tay của CS
- Thoát Cộng
- Thoát Trung
- Thống nhất đất nước
- Thông tin giả
- Thông tư 19
- thơ ca
- Thơ văn Lý - Trần
- Thời cơ
- Thời đại
- Thủ đoạn Tàu Cộng
- thu hồi đất
- Thủ Thiêm
- Thủ tướng
- thuế
- thùng nhân
- Thuốc giả
- thủy điện
- Thủy điện Lan Thương
- Thủy điện Lancang (TQ)
- Thủy điện Luang Prabang
- Thủy điện Mekong
- Thủy điện Mékong
- Thủy điện thượng nguồn Mékong
- Thủy điện và môi trường
- Thủy hải sản
- Thủy lợi
- Thủy Tiên
- thuyền nhân
- Thuyết âm mưu
- thư bạn đọc
- Thư giãn
- Thư giãn Chủ nhật
- Thư giãn CN
- thư giãn cuối tuần
- thư gửi bạn đọc
- Thư ngỏ
- Thực chất quan hệ Trung - Việt
- Thực hành dân chủ
- Thức tỉnh ý thức dân chủ trong dân chúng
- thực trạng đất nước
- Thương chiến Mỹ - Trung
- Thương chiến Nỹ - Trung
- Thượng đỉnh Trump - Kim
- Thương hiệu
- thương mại quốc tế
- Thương mại Việt - Mỹ
- Thương mại Việt Mỹ
- tiềm lực
- tiến sĩ
- Tiền TQ
- Tiếng dân
- Tiếng nói của Tuổi trẻ
- Tiếng nói của xã hội dân sự
- Tiếng nói trí thức Việt Kiều góp phần xây dựng đất nước
- Tiết kiệm
- tiêu tiền TQ trên đất VN
- tin giả
- Tin tặc
- tin tặc tấn công
- Tin tức
- Tính chính danh của nhà nước cộng sản
- tính đảng
- Tình hữu nghị vô sản
- Tình người Cộng sản
- Tinh thần công dân
- Titan
- TKV
- tòa án
- Tòa trọng tài Quốc tế
- toàn cầu hóa
- tố
- Tố Cáo
- Tổ chức nhà nước
- Tổ chức quần chúng của đảng
- Tô Hải
- Tô Huy Rứa
- Tội ác Đồng Tâm
- Tội ác Đồng Tâm
- Tội phạm tham nhũng
- Tôi phạm VN tại Czech
- tôn giáo
- Tôn Quốc Tường
- Tổng liên đoàn lao động Việt Nam
- TP Hồ Chí Minh
- TQ bị tẩy chay
- TQ che dấu dịch bệnh
- Trả nợ nước ngoài
- tra tấn
- Tra tấn và nhục hình
- trách nhiệm Trung Quốc
- Trái đất
- Trang Bauxite Việt Nam
- tranh chấp ruộng đất
- Tranh cử Tổng thốn Mỹ
- tráo trở Tàu Cộng
- Trấn áp bất đồng
- Trấn áp công luận
- Trần Đại Quang
- Trần Độ
- Trần Đức Thạch
- Trần Hồng Hà
- Trần Huỳnh Duy Thức
- Trần Khải Thanh Thủy
- Trần Ngọc Ninh
- Trần Nhương
- Trần Thị Nga
- Trần Thị Trường
- Trần Trọng Kim
- Trần Vũ Hải
- Trật tự thế giới trong Toàn cầu hóa
- Trẻ em
- Trí thức
- Trí thức bỏ đảng
- Trí thức dấn thân
- Trí thức miền Nam
- Trí thức miền Nam sau 1975
- Trí thức theo đảng
- Trí thức tinh hoa
- Trí thức và hiện tình đất nước
- Trí thức Việt Nam
- Trí thức yêu nước
- Trí tuệ nhân tạo trong công nghệ truyền thông
- Triều Tiên
- Trịnh Bá Phương
- Trịnh Vĩnh Bình
- Trịnh Xuân Thanh
- trò hề bầu cử
- Trọng dụng người tài
- trốn chạy cộng sản
- Trồng cần sa xứ người
- Trumpism
- Trung - Mỹ
- Trung Cộng & mưu mô bành trướng
- Trung Cộng phát triển thần kỳ
- Trung Quốc
- Trung Quốc bành trướng
- Trung Quốc cướp đảo
- Trung quốc thao túng
- Trung Quốc và Đông Nam Á
- Trung Quốc xâm chiếm Gạc Ma
- Trung Quốc xâm nhập biên giới
- Trung Quốc xâm nhập trái phép
- trung với Đảng
- Truyện chưởng
- truyền hình
- truyền thông
- Truyền thông cộng sản
- truyền thông mạng
- Truyền thông ở Việt Nam
- Truyền thông quốc gia và sự trục lợi
- Truyền thông về cứu trợ bão lụt
- Truyên truyền CS
- Trương Duy Nhất
- Trường Sa
- Trương Tấn Sang
- Trương Tuần
- Trường viết văn Nguyễn Du
- Trương Vĩnh Ký
- TS Nguyễn Văn Tuấn
- Tù ngục và tự do
- tù nhân chính trị
- tù nhân lương tâm
- Tù nhân lương tâm dưới chế độ Cộng sản
- Tù nhân tâm thần
- Tù nhân trong đại dịch
- Tuổi trẻ
- Tuổi trẻ thức tỉnh
- Tuổi trẻ Việt Nam
- Tuyên bố
- Tuyên bố chung Hoa Kỳ - Phillippines
- Tuyên truyền
- Tuyên truyền Cộng sản
- Tuyên truyền xã hội chủ nghĩa
- Tuyệt thực
- Tự tử
- tư bản đỏ
- Tư bản thân hữu
- Tự bào chữa
- từ chức
- Tự do
- Tự do báo chí
- Tự do dân chủ
- Tự do lập hội
- tự do ngôn luận
- tự do thông tin
- tự do tôn giáo
- Tự do tư tưởng
- Tự do và giới hạn
- Tự do và nô lệ
- Tư duy quan chức
- Tư liệu
- Tư pháp
- Tư pháp CS
- Tự sát ở đồn công an
- tự tôn dân tộc
- Tứ trụ phát ngôn
- Tử tù Đặng Văn Hién
- Tử tù Hồ Duy Hải
- Tự tử
- Tự ứng cử
- Tường biên giới
- Tượng đài
- Tương lai dân tộc
- Tướng lĩnh CS
- Tưởng niệm
- Úc
- Úc Châu
- Úc-Trung Quốc
- Ukraine
- Ủy ban Âu châu
- Ứng cử vào Hội đồng Bao an LHQ
- Vai trò cá nhân trong lịch sử
- Vai trò của Mỹ hậu Trump
- Vai trò trí thức trong thể chế
- Vãn hóa
- Vành đai và Con đường
- VASFCESR
- văn chương "cách mạng"
- Văn Giang
- văn hoá
- Văn hóa
- Văn hóa bạo lực
- Văn hóa công chức
- Văn hóa tên đường
- Văn học nghệ thuật bao cấp
- Văn học nghệ thuật Chủ nhật
- Văn học nghệ thuật XHCN
- Văn học thời đổi mới
- văn học Việt Nam
- Văn kiện Đảng
- văn minh sông Hồng
- Văn nghệ XHCN
- Văn Việt
- vân đồn
- Vận mệnh Đảng Cộng sản Việt Nam
- Vấn nạn giáo dục khó gỡ
- Vấn nạn TPHCM
- Vật lý học
- Vedan
- Venezuela
- vì dân
- Vị Xuyên
- viettel
- Viện Khổng Tử
- Viện NA
- Viếng tang
- Việt - Mỹ
- Việt - Trung
- Việt Kiều về xây dựng đất nước
- Việt Nam
- Việt Nam - Hoa Kỳ
- Việt Nam 2018
- Việt Nam 2019
- Việt Nam bắt cóc người tại Đức
- Việt Nam Cộng hòa
- Việt Nam là bãi rác của thế giới
- Việt Nam trên bàn cờ thế giới hiện tại
- Việt Nam trong ASEAN
- Việt Nam trong Liên Hợp Quốc
- Vinashin
- Vingroup
- virus nhân tạo
- Virus Trung Quốc
- Virus Trung Quốc và CS Việt Nam
- Virus Trung Quốc và người nghèo
- Virus Trung Quốc và Việt Nam
- Virus Vũ Hán
- Virus Vũ Hán và ĐCSTQ
- Virus Vũ Hán và Việt Nam
- VN cấm lãnh đạo tổ chức nhân quyền nhập cảnh
- Võ An Đôn
- Võ Nguyên Giáp
- Võ Tòng Xuân
- Võ Văn Kiệt
- vỡ nợ
- Vụ án Chất độc Da cam
- Vụ án Đồng Tâm
- Vụ án Hồ Duy Hải
- Vụ AVG
- Vũ Cao Đàm
- Vu cáo học thuật
- Vũ Đình Huỳnh
- Vũ Huy Hoàng
- vũ khí
- vũ khí hạt nhân
- Vu khống chữ nghĩa
- Vụ kiện Trung Quốc về Biển Đông của Philippines lên Tòa án quốc tế
- Vũ Ngọc Hoàng
- Vũ Ngọc Tiến
- Vũ Thư Hiên
- Vụ Trịnh Xuân Thanh
- Vũng Áng
- Vùng EEZ
- Vườn rau Lộc Hưng
- Vượt biên
- Vượt biên trái phép
- WHO
- Will Nguyễn
- World Bank
- World cup
- Xã Hội
- Xã hội công dân
- Xã hội cộng sản
- Xã hội dân chủ
- xã hội dân sự
- Xã hội dân sự đang lớn mạnh
- Xã hội Mỹ
- Xã hội tha hóa
- Xã hội Trung Quốc
- Xâm lược kinh tế
- Xâm lược mềm
- Xâm lược mềm của Tàu Cộng
- Xâm phạm quyền riêng tư
- xây dựng
- XHDS
- Xô viết
- Xu hướng thoát Trung
- Xuất khẩu
- Xuất khẩu chính ngạch sang TQ
- Xuất khẩu gạo
- Xuất khẩu lao động
- xung đột
- Ý dân
- Y đức
- Ý kiến
- Y tế
- Y tế Việt Nam
- Yêu cầu Tập Cận Bình từ chức
- yêu nước
- Yêu sách
- Yêu sách 8 điểm năm 2019
- Yêu Trump và ghét Trump
- ���Giáo Dục�
- ���Pháp Luật�
- ���Sử Liệu�
