Lời giới thiệu cuốn sách Người Ba-na ở Kon Tum
Lời giới thiệu cuốn sách Người Ba-na ở Kon Tum
Andrew Hardy (1)
Viện Viễn Đông bác cổ Pháp Tại Hà Nội
Vị Bác sĩ không chỉ chăm sóc sức khỏe mọi người mà còn hơn thế. Ông không ở bệnh viện mà thường xuyên đi lại, thăm nom các bệnh nhân ở những ngôi làng hẻo lánh xa xôi. Trong khi hỏi chuyện người bệnh, ông không chỉ hỏi về các triệu chứng mà còn muốn biết về cuộc sống hàng ngày của họ. Một vị Bác sĩ “duy hoạt động” với ý thức mang tầm xã hội: Điều này khiến chính quyền thực dân, sau phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh nổ ra năm 1930, coi ông là một phần tử nguy hiểm. Họ tìm ra một giải pháp độc đáo để giải quyết mối lo âu này: buộc ông đi lại nhiều hơn ông muốn. Vì vậy, mỗi năm – dưới “con mắt” của cơ quan an ninh Pháp – ông được chỉ định đi đến một tỉnh khác năm trước. Năm 1931, ông đi Ban Mê Thuột. Năm 1932, ông về Huế. Năm 1933, ông đi Kon Tum. Năm 1934, về Huế. Năm 1935, đi Quy Nhơn (Bình Định). Năm 1937, đi Sông Cầu (Phú Yên). Năm 1938, lại về Huế. Năm 1939, lại phải đi Bến Giằng (Quảng Nam). Sau vài tháng ở trên đó, ông bị căn bệnh sốt rét, nên trở về Huế và ở với gia đình một thời gian lâu hơn.
***
Nguyễn Kinh Chi (1899-1986), sau khi hoàn thành bậc phổ thông ở Huế và Phan Thiết tại trường tư Dục Thanh mà cha ông là Nguyễn Hiệt Chi, một nhà nho quê gốc Hà Tĩnh tham gia (2), đã theo học ngành y ở Hà Nội. Tốt nghiệp khóa học năm 1921, ông vào làm việc ở Quảng Bình trong 10 năm, ban đầu tại Bệnh viện huyện Bố Trạch, sau đó tới tỉnh lỵ Đồng Hới. Những chuyến đi lại trong tỉnh Quảng Bình đã mang về nguyên liệu cho ông viết những cuốn sách đầu tiên – hai tập sách ngắn hướng dẫn du lịch tỉnh Quảng Bình (3). Năm 1945, ông từ chối lời mời làm Bộ trưởng Bộ Y tế trong Chính phủ Trần Trọng Kim, mà nhận lời làm Giám đốc Nha Y tế Trung Bộ sau Cách mạng Tháng Tám. Trong suốt những năm chiến tranh 1946-1954, ông đã có nhiều đóng góp cho cuộc kháng chiến của Việt Minh, qua công việc của ông trong điều trị sốt rét bằng thuốc ký ninh. Ông đã giữ nhiều cương vị lãnh đạo trong ngành y trước khi về nghỉ hưu năm 1965, từng là đại biểu Quốc hội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ năm 1946 tới 1976.
Nguyễn Kinh Chi đã cống hiến đời mình cho xã hội Việt Nam và cho y học. Nhưng có lẽ đóng góp đặc biệt nhất cho sự phát triển xã hội Việt Nam – bởi một trong những trớ trêu của lịch sử – đã dẫn đến quyết định của Pháp đưa ông lên vùng Tây Nguyên. Cuốn sách Mọi Kontum này xuất bản ở Huế năm 1937, một công trình nghiên cứu dân tộc học về cư dân người Bahnar ở Kon Tum, chứa đựng một thông điệp xã hội hết sức sáng tỏ.
Chúng ta có thể tưởng tượng vị Bác sĩ, để chuẩn bị cho thời gian lưu trú ở Kon Tum, đang tìm hiểu về nơi ông vừa mới được chỉ định đến. Nếu ông kiếm được sách của nhà truyền giáo Pierre Dourisboure tại các thư viện ở thành phố Huế, hẳn là ông đã đọc chuyện về một Linh mục Việt Nam trẻ tuổi, thầy Nguyễn Do, cải trang như một lái buôn tìm đường lên cao nguyên (1848-1850) (4). Ông sẽ được đọc sự mô tả kỹ lưỡng về những cuộc định cư đầu tiên do Cha Do và các Cha người Pháp tiến hành, đặc biệt là ở Jo-Ri-Krong và Ro-Hai (Rehai), gần vị trí thành phố Kon Tum ngày nay (xem bản đồ). Vì đoạn trích dưới đây về việc thành lập Jo-Ri-Krong (1866) cho thấy, ông đã hiểu những thách thức mà người Việt, người Pháp và người Bahnar đầu tiên phải đối mặt khi họ xây dựng cuộc sống mới tại vùng xung quanh thung lũng sông Bla.
[tr. 376] Cánh đồng rộng Ro Ngao bắt đầu từ Ko Xam, chạy dài sang phía tây, trên hai bên bờ sông Bla, phải đi hết một ngày đường. Ro Hai nằm trên đồng bằng đó, bên phía hữu ngạn con sông. Tôi chọn chỗ ở mới là một nơi [tên là Jo Ri Kong] cũng nằm bên bờ phải, giữa chặng đường từ Ko Xam đi Ro Hai. Tất cả cánh đồng đó, toàn là đất phù sa rất màu mỡ. Những người di thực châu Âu đã biến nó thành một khu vườn thực sự trong vòng mấy năm. Không kể đến sông Bla hàng năm, trong mấy ngày dâng nước ngập một phần bằng những dòng suối nhỏ chảy [tr. 377] từ trên núi xuống, chỉ cần nắn dòng để làm mát và tưới cho mọi ngóc ngách của đất đai. Còn có những đầm lầy mênh mông chỉ cần đào vài con mương chạy qua là có thể biến thành những ruộng lúa tuyệt vời, nơi mà những người man dân, với phương tiện trồng trọt nghèo nàn, không bao giờ có gan khai thác một thửa ruộng.
Về việc này họ có lý, vì đặc biệt trên vùng đất này, một công việc như vậy là quá sức của những người dân nghèo khổ, họ buộc phải cuốc xới đất đai bằng hai bàn tay trần, tôi muốn nói là không có súc vật, không có cày, không có một dụng cụ cày xới nào. Tại sao những người man dân lại tìm chỗ sườn dốc, những ngọn núi hay rừng già để làm rẫy? Chính vì kẻ thù mà họ sợ nhất là cỏ; nếu họ gieo lúa nơi đất thấp và ẩm, thì cỏ sẽ mọc nhanh hơn lúa. […]
[378] [Việc dùng cày] rõ ràng là phương tiện duy nhất [tr. 379] để lập những làng bền vững và đông dân, rồi dần dần tập hợp ở một vài trung tâm lớn, những người man dân sống rải rác trong một lô những chòm xóm nhỏ, và như vậy sẽ thủ tiêu một trong những trở ngại lớn nhất cho hoạt động truyền giáo.
Trong dự án của tôi, một ngôi làng Kitô giáo mới đồng thời sẽ là một trang trại kiểu mẫu. Trước tiên tôi cử một vài người An Nam trẻ đi mua trâu và bò ở bộ tộc Ha Gou. Những người khác xuống Nam Kỳ để kiếm cày mà người An Nam dùng để cày ruộng. Cha Do ở Ro Hai, cũng làm như tôi, vì tất cả đất đai quanh làng ông ta đều có thể xới bằng cày (5).
Đồng thời, nếu vị Bác sĩ tìm thấy những ghi chép của nhà thám hiểm Henri Maitre, ông sẽ biết Kon Tum đã phát triển thế nào cho tới đầu thế kỷ XX. Tháng 4 năm 1910, ở hai đầu con phố lớn, người ta được chứng kiến sự xuất hiện của những tòa nhà lợp ngói, những khu vườn xinh đẹp, những buôn làng của người Bahnar và một cộng đồng khoảng 1.500 người Việt. Nhà truyền giáo công giáo được mở rộng; một nhà máy ngói đi vào hoạt động; người ta trồng cà phê, hạt tiêu, ca cao; người Bahnar giờ đây đã biết cày ruộng. Một người Việt làm nghề buôn bán mở cửa hàng nhỏ bán “thực phẩm tiêu dùng châu Âu”, gồm sữa và thuốc lá. Với Maitre, trong cuộc hành trình dài lên cao nguyên, thì điểm cuối cùng này là một “ốc đảo”, một chốn nghỉ ngơi yên tĩnh, trong “một không khí thân mật ngọt ngào và dễ chịu bao quanh chúng tôi, thấm vào chúng tôi”.
Đoạn trích tiếp theo đây nói về ấn tượng của nhà thám hiểm này vào tháng cuối cùng của mùa khô, từ Pleiku đến “hòn đảo lánh đời”, ông nhận thấy một sự dễ chịu khác hẳn với “cái hiu quạnh hoang vắng của những cánh rừng thưa ảm đạm” vùng cao nguyên.
[tr. 210] Cách Kontum chín kilômet, chúng tôi đi theo con đường cái được mở tới đây; nó chạy qua khu rừng chồi trên đất cát, rồi qua khu rừng thưa; cuối cùng, đến cây số 2, đột nhiên chúng tôi nhìn thấy một cánh đồng bằng phẳng rộng lớn, nền đất xám phủ một lớp cỏ thấp và khô, những thửa ruộng cạn và đồng cỏ; một rặng tre cao xanh ngắt cắt ngang; khắp bốn phía, những ngọn đồi bao quanh những dãy núi trơ trọi; sau rặng tre, những mái nhà tranh và mái ngói nổi lên trên nền cây xanh: đấy là khu dân cư Kontum, rải rác bên kia sông Bla; con sông rộng từ 50 đến 60 mét, lặng lẽ trôi chầm chậm, giữa hai bờ dốc và cát cao từ bốn đến năm mét; từng doi cát và sỏi nổi lên, và không ở đâu nước sâu quá năm bộ (…). Chúng tôi qua sông bằng phà (…).
[tr. 212] Khu dân cư có tên Kontum nằm về phía Đông cánh đồng tuyệt vời Reungao; gồm những chòm xóm nối nhau chạy dài [tr. 213] như chuỗi tràng hạt nằm hai bên con đường cái căng như kẻ chỉ giữa hai đầu khúc uốn cong của sông Bla; đỉnh của khúc sông uốn đó nằm về phía Nam con đường cách 2.500 mét theo đường chim bay; nó được đánh dấu bằng những chiếc lều Kon Hara trải dài phía trên bên tả ngạn.
Từ thượng lưu đến hạ lưu, những ngôi làng hợp thành Kontum là: Kontum-kepeun và Kontum-kenom, mà phần phía Tây, gồm người An Nam, được họ gọi là Phuong Nghia; rồi đến những ngôi nhà của Hội truyền giáo Ba Na đông đảo và con đường chạy qua trước làng Ba Na Rehai [=Ro Hai] trên làng Deneung đôi chút; cuối cùng đây là Go-Mit, khu dân cư An Nam, và lùi về phía sau, cách một quãng ngắn là thôn Bahnar, Pl. Tenia; trên bờ trái, hơi về phía thượng lưu, là làng người An Nam Phương Hòa.
Phái đoàn của Công sứ Quy Nhơn được ở trong một ngôi nhà sàn tuyệt đẹp bằng ván và vôi vữa, bên trên bờ cát của con sông, trong phần phía Tây của làng Go Mit – quen gọi là Tân Hương; khu vườn trồng hoa bách hợp đỏ nổi lên những luống cây đỏ tươi giữa những ô cỏ xanh.
Làng Go Mit chỉ là một loạt những ngôi lều ọp ẹp của người An Nam, chìm giữa những cây chuối, mít và xoài; con đường cái phủ cát trắng cắt ngang xóm làng làm hai và chạy dài chói chang dưới trời nắng; ở Rehai, trên phía Bắc con đường, là nhà thờ của Cha bề trên lợp ngói đỏ; phía đằng kia bên phải, bót gác của dân binh sẽ được chuyển đến phía thượng lưu tòa đại lý; cũng ở phía đằng kia, trên hữu ngạn, trường học của Hội truyền giáo, một ngôi nhà lớn lợp ngói có nhiều nhà phụ kèm theo (6).
Khi ông vạch kế hoạch cho hành trình của mình lên cao nguyên, cũng có khả năng vị Bác sĩ đã liếc qua cuốn sách hướng dẫn du lịch cơ bản – cuốn Guide Madrolle nổi tiếng. Trong đó, đoạn miêu tả chi tiết về chặng đường từ đồng bằng Quy Nhơn qua đèo Mang Yang chắc chắn đã khiến ông chú ý: Đây chính là con đường ông sẽ theo để lên Kon Tum làm việc tại bệnh viện.
[tr. 222] Từ Bình Định đến Kontum.
Cây số 197 (từ Quy Nhơn, cây số 215) đường Thuộc địa số 14 (7); chặng đường rất thú vị trong một vùng đất đôi khi đẹp như tranh. Đường đi được xe hơi vào mùa khô, nhưng khó đi vào mùa mưa (từ tháng 6 đến tháng 12). Phong cảnh núi, rừng, săn bắn; dân cư các tộc đa dạng, Djarai, Bahnar, Sédang, v.v…
Dọc đường đi, ở các trạm có chỗ dừng chân.
(…) Con đường Kontum rẽ ra từ đường cái quan (Đường Thuộc địa số 1) ở phía Nam châu thổ và cách thành phố 4 km (…). Nó tiếp tục chạy cách sông Coi (Kôn) về phía Nam một quãng để vượt qua thung lũng (…).
Cây số 38, Thương Giang, chợ, ở chỗ quẹo của sông Kôn chảy từ phía Bắc xuống, huyện lỵ huyện Bình Khê.
Con đường lên dốc để đến đèo Mang (cây số 51), đèo nằm trên đường phân thủy giữa sông Kôn và sông Krong Ba (sông Đà Rằng ở Phú Yên), địa giới các tỉnh Bình Định và Kontum.
Cây số 64, An Khê, trên một cao nguyên, lỵ sở huyện Tân An. Tòa đại lý. Cơ sở quan trọng để chăn nuôi ngựa, bò và dê cừu (…) [tr. 223].
Cây số 66, Chợ Đôn, bên sông Krong Ba (hay Rpâ); phà cho xe hơi. Bốt dân binh lập năm 1904 (…).
Cây số 94, (…) Một dãy núi cao, phủ rừng cây, chắn ngang chân trời. Con đường lên cao với những khúc quanh đột ngột, rồi chạy 5 km giữa đèo Kon Cho’rah. Ra khỏi đèo là bốt Mang Giang (cây số 102), ở độ cao 740 met, trong một vùng rừng cây; nhà nghỉ qua đêm.
Cây số 113, Da Ayun, trạm bên một con sông mang cùng tên, chi lưu lớn của sông Krong Ba, – ở cây số 2 phía hạ lưu là thác Ayun. Thung lũng cao này do người Bahnar-Halong cư trú (…).
Cây số 136, đi ở độ cao 840 met, đường phân thủy giữa lưu vực ven biển Đông với lưu vực sông Mê Kông (…).
Cây số 158, Dak Mo’long, phà qua sông và cầu của người bản xứ bằng mây (Cầu Mây) cho người đi bộ, khó đi với những người chưa quen. Sala (…).
Cây số 180, Tra Huynh, trạm, nơi gặp nhau của đường 145 đến từ Plei Ku, Plei Tur, Buôn Ma Thuật. Con đường chạy dài qua rừng thưa trên đất cát.
Cây số 195, đến đồng bằng Kontum từ khung cảnh trên cao.
Cây số 197, con đường vượt qua sông Sê San bên dưới Tòa Công sứ và đi vào Kontum (9).
Liệu vị Bác sĩ có đọc bài của một người đồng bào đăng trên tạp chí Nam phong, người vài năm trước cũng đi đúng con đường mà cuốn sách hướng dẫn du lịch kia miêu tả? Chúng ta chẳng có cách gì biết được. Tất nhiên đối với vị Bác sĩ, câu chuyện có một chút lợi ích thực tế, nhưng có lẽ ông tìm được ở đấy điều gì đó để suy ngẫm, vì trong bài viết ấy người lữ hành đã cố gắng hiểu thấu và bày tỏ những cảm xúc của mình trong những chuyến đi.
[19] Con đường tiện nhất là từ Qui-nhơn. Bằng con đường này, người ta có thể chọn 3 loại phương tiện: ô-tô, xe kéo, xe bò. Nếu đi bằng ô-tô vào mùa khô, thông thường mất 8 tiếng để đi từ Qui-nhơn lên Kontum; còn vào mùa mưa phải mất tới 2 ngày. đi bằng xe kéo mất 5 ngày; gần một tuần bằng xe bò.
Còn về cảnh-thú dọc đường thời không nên mong-mỏi quá mà phải thất-vọng. Từ Qui-nhơn đến An-khê còn khá-khá, mà đến giữa đèo Bình-khê chẳng phải khá mà thôi, lại cũng đẹp thiệt. Ai là kẻ xưa nay chỉ vẫn sa vào trong vòng ấm-no vui-thú, cặp mắt chưa từng trông qua khỏi mấy ống khói các nhà máy, qua khỏi ngọn thu-lôi các sở công, nếu đi đến giữa đèo Bình-khê, tôi xin tĩnh-tâm lại một phút mà nghĩ-ngợi. Đến đó, trước cái phong-cảnh mênh-mong của vũ-trụ, nhớ lài hai câu thơ ông Lamartine, dịch rằng :
Nghĩ mình đối với trần-hoàn,
Cầm bằng giọt nước ở làn biển Đông
mới hiểu thấu được tinh-thần câu thơ vậy.
Qua khỏi đèo Bình-khê, đến An-khê. Nếu ở Bình-định đương mùa hè mà ra đi, đến An-khê thấy khí-hậu đổi ngay hẳn. Lúc ở dưới còn thiệt nóng, lên đến An-khê có chăn dày khá mới ngủ khỏi lạnh được. Từ An-khê sắp lên, chỉ đi quanh-queo mãi trong rừng, hai bên đường không hàng-quán, cửa-nhà, ruộng-nương gì cả. Thỉnh-thoảng, hoặc một cái túp Mọi bên sườn núi, hoặc một đoàn xe-bò ở trên về, hoặc năm ba tên lính trạm thấy bóng người chạy ra ngó, chỉ có thể là thú giải trí cho lộ-khách, mà lộ-khách trong những lúc ấy hồi-tỉnh lại mới biết rằng làm con người đứng trong vũ-trụ không có đồng-thanh đồng-khí thời thiệt khó chịu lắm vậy. Nhưng đi quanh-queo mãi rồi cũng phải đến Kontum. Còn đường xa, lộ-khách đã trông thấy mấy cái nóc nhà quan. Gần lại đôi ba dẫy cây-vông hiện ra làm cho lộ-khách tưởng sắp đến một nơi đô-hội lớn. Lộ-khách qua khỏi đò sông Bla, thế là đến Kontum vậy (10).
Nguyễn Kinh Chi đến Kontum ngày 25 tháng 7 năm 1933. Là một viên chức nhà nước, chắc ông đi bằng ô tô. Chuyến đi vào mùa mưa, khả năng phải có một đêm nghỉ dọc đường. Về việc Nguyễn Kinh Chi đọc tài liệu, nếu chúng ta thấy nhiều tác phẩm được nêu trong phần Thư mục tham khảo của Mọi Kontum, thì chúng ta không thể biết ông đọc các tài liệu ấy trước hay sau khi đến Kontum. Tuy nhiên có một tài liệu chắc chắn ông chưa đọc. Đó là lá thư riêng của Công sứ tỉnh Kontum viết cho Claudius Madrolle, tác giả của cuốn sách hướng dẫn du lịch. Viên Công sứ giải đáp những câu hỏi của tác giả về địa lý, kinh tế, dân số của tỉnh, trước khi kết thúc bằng nhận xét sau đây:
Tỉnh Kontum là một vùng đất của tương lai. Ở đây có những cao nguyên mênh mông đất đỏ rất phì nhiêu của vùng Plei Ku, tạo thành một hình vuông mỗi cạnh khoảng 100 km, hoàn toàn thích hợp với trồng cà phê và có lẽ cả trồng bông.
Dù sao tôi cũng thông báo rằng một số vùng bất ổn, theo quyết định của chính quyền cấp trên, hoàn toàn ngăn cấm không cho người ngoài chính quyền vào, chỉ có các công chức chịu trách nhiệm cai trị mới được lui tới (11).
Nguyễn Kinh Chi đã không biết đến bức thư này, tuy thế bức thư diễn đạt hai ý mà ông hẳn đã chia sẻ khi chuẩn bị cho chuyến ở lại tỉnh Kontum. Một mặt, Kontum là trung tâm đô thị đang phát triển với quá khứ thú vị và tương lai hứa hẹn. Mặt khác, nó cũng là quê hương của các tộc người Thượng, những cư dân mà người đồng bằng biết đến thì ít, sợ hãi thì nhiều. Điều này phần nào giải thích tại sao vị Bác sĩ quyết định không ở lại một mình. Ông đã rủ người em trai lên Kontum với mình.
***
Nguyễn Đổng Chi (1915-1984) học ở Đồng Hới và Vinh; sau khi thử sức ở nhiều lĩnh vực khác nhau – như y học cổ truyền, nghề thủ công – ông đã quyết định trở thành một nhà văn. Đi theo các phong trào cách mạng trong những năm 1930, năm 1945 ông tham gia cuộc giành chính quyền của Việt Minh ở huyện Can Lộc, Hà Tĩnh; hoạt động ở Liên khu IV và khu vực Bắc miền Trung Việt Nam trong những năm chiến tranh từ 1946 đến 1954. Năm 1955, ông tham gia Ban Nghiên cứu Văn Sử Địa (nay là Viện Khoa học Xã hội Việt Nam), ở đó ông làm việc tại Viện Sử học, Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Viện Văn hóa Dân gian (nay là Viện nghiên cứu Văn hóa). Là tác giả của nhiều tác phẩm văn học, và có nhiều ảnh hưởng đối với các ngành khoa học nhân văn, ông đã xuất bản những công trình về lịch sử, lịch sử văn học, nghiên cứu Hán Nôm và dân tộc học (12). Ông là người sớm thực hiện công việc mà nay chúng ta gọi là nghiên cứu đa ngành. Tuy nhiên vào năm 1933, sự nghiệp khoa học của ông vẫn còn ở phía trước. Khi lên Kontum với anh trai, ông mới chỉ 18 tuổi.
Ý tưởng cho cuốn sách là của Kinh Chi, nhưng sự tham gia của Đổng Chi hết sức quan trọng. Hồi ức của người em trai thứ ba trong gia đình, ông Nguyễn Hưng Chi, đã giải thích hoàn cảnh việc ở lại cao nguyên và cách hai người anh chia sẻ công việc nghiên cứu của họ.
...sau đó [Nguyễn Kinh Chi] chuyển lên Bệnh viện Kon Tum. Khi lên Kon Tum, anh tôi biên thư về nhà đề nghị anh Đổng lên cùng để anh em chung sống cho vui (khoảng 1933 sau khi cha tôi đã nghỉ hưu). Trên Kon Tum cũng có tù cộng sản. Anh tôi đối xử với các tù nhân rất hòa nhã lúc khám và chữa bệnh nhưng anh rất cẩn trọng vì biết mình đương ngồi dưới những con mắt của bọn mật thám. Anh có kể, hồi ở Buôn Mê Thuột, anh biết trong nhà lao có anh Ý là người cùng quê ở tù. Anh Ý khi ấy chưa có quan hệ gia đình nhưng anh là con bà em ruột chú Cửu Điềm thuộc chi 2 mà chúng tôi phải gọi bằng o, qua đó giữa 2 người có quan hệ bà con. Anh tôi xin phép bọn Pháp phụ trách của tỉnh và nhà lao cho được gặp anh Ý là người bà con trong gia đình. Bọn Pháp cho gặp, anh thăm hỏi tình hình sinh sống và sức khỏe và hỏi có cần gì để anh giúp. Anh Ý cho biết tình hình, sau anh tặng một số tiền để tiêu vặt và hẹn cần gì về thuốc men thì cứ bảo, anh sẽ giúp đỡ… Cũng tại đề lao này có cụ Hồ Tùng Mậu. Một lần nhà lao phái cụ sang làm cỏ bên vườn của bệnh viện. Cụ làm cỏ trên bồn hoa của ngôi nhà mà anh tôi được ở và trong khi làm cụ ngâm to mấy câu thơ. Anh tôi nghe và lén nhìn để biết mặt cụ chứ không dám ra gặp mặt vì cụ là tù chính trị có cỡ mà chúng đã phái sang làm cỏ ở đó là có dụng ý kiểm tra…
Anh Đổng vào Kon Tum, anh Kinh bèn nói lên ý định muốn 2 anh em cùng cộng tác để nghiên cứu viết một cuốn sách giới thiệu phong tục, tập quán và cách sinh hoạt của người thượng ở Kon Tum, cụ thể là người [Bahnar]. Anh Kinh vì bận việc chuyên môn nên chỉ tìm hiểu, tham khảo trên tài liệu, sách vở của Pháp là chủ yếu, còn anh Đổng thì đi vào trong nhân dân để tìm hiểu trên thực tế. Thời đó, viên Công sứ Pháp ở Kon Tum mà tôi nhớ như là Guilleminet là một học giả dân tộc học có tiếng, ông ta đã viết một số sách nghiên cứu các dân tộc ở Tây Nguyên. Anh Kinh đã đến gặp và trình bày ý định của mình và được viên Công sứ nhiệt tình giúp đỡ cho mượn và giới thiệu tài liệu sách vở để đọc và sưu tầm. Còn anh Đổng khi đó là một thanh niên 17-18 tuổi, anh vào các buôn ở xung quanh thị xã, làm quen, kết bạn với các thanh niên dân tộc ở trong vùng và cũng học cách nói chuyện, ve vãn các o dân tộc. Anh sắm một bộ y phục dân tộc gồm khố, áo, khăn choàng để đến đêm mặc vào đi chơi với bạn. Anh sưu tầm những mẩu chuyện dân gian, những bài ca hoặc câu hát đối đáp nam nữ, đi xem những cuộc hội đâm trâu v.v… Nhân dân các buôn anh thường đến đã dành cho anh nhiều cảm tình, nhất là các cô thiếu nữ thì yêu anh lắm và anh thường nhận được những vết cấu véo đến thâm tím của các cô gái trẻ vì đối với họ đó là biểu hiện tình yêu, yêu càng đậm, véo càng đau… Kết quả đến [1937] cuốn Mọi Kon Tum của hai anh ra đời có lời đề bạt của viên công sứ (13).
Ghi chép này cho thấy Kinh Chi muốn làm một nghiên cứu khoa học về nền văn minh của người Bahnar, nhưng biết rằng ông buộc phải có mặt ở bệnh viện. Người em trai thì lại có thời gian, sức lực và cơ hội để học tiếng Bahnar, lang thang với người địa phương và thu thập dữ liệu dân tộc học. Chớ để những mối quan hệ của người em với những cô gái Bahnar làm lệch sự chú ý của chúng ta khỏi mục đích của công trình, như người con trai của Nguyễn Đổng Chi sau này nhận xét: “Bố tôi thì phải tiếp tục thâm nhập vào các buôn làng, sống chung với cư dân ở những nơi đó để tìm hiểu mọi chuyện và làm trắc nghiệm (teste) về các vấn đề do hai anh em đặt ra (…). Bố tôi ghi chép ca dao và truyện cổ là ở những người già làng và những người này suốt ngày ngồi quanh bếp ở trên nhà sàn, muốn ghi chép được thì phải lân la làm thân mà càng thân với con gái họ thì các già làng sẽ thân với mình” (14).Việc làm của Nguyễn Đổng Chi là một ví dụ tuyệt vời về nghiên cứu dân tộc học theo phương pháp “vừa làm vừa chơi”. Dưới hình thức thích nghi văn hóa, thì cách làm việc này chỉ những nhà truyền giáo Công giáo mới thực hiện hoàn hảo hơn cả – cho dù vì mục đích này hay mục đích khác –, và từ những năm 1940, chính những người cách mạng Việt Minh đã làm khi thực hiện “ba cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm với người Thượng). Sự lựa chọn phương pháp này khiến Nguyễn Đổng Chi trở thành nhà dân tộc học người Việt đầu tiên thực hành cái mà ngày nay chúng ta gọi là “quan sát tham dự”, phục vụ cho kế hoạch sưu tầm tài liệu tại cộng đồng dân cư không phải là người Việt.
***
Bản đồ tỉnh Kon Tum năm 1933. Hai tác giả vẽ. Nguyễn Huệ Chi phục chế
Ở Kontum, niềm hứng thú nghiên cứu dân tộc học về người Bahnar không chỉ riêng hai anh em Kinh Chi, Đổng Chi mới có. Hội Truyền giáo từ lâu đã tiến hành công việc này: năm 1833, Cha Combes viết công trình nghiên cứu dân tộc học tổng quát đầu tiên về người Bahnar, tiếp theo là những nghiên cứu của các nhà truyền giáo sau này, đáng chú ý có Cha Guerlach và Cha Kemlin (15). Vào thời gian mà hai em Kinh Chi, Đổng Chi đến, Cha Alberty đang tiếp tục truyền thống này: ông dạy tiếng Bahnar cho Paul Guilleminet, Công sứ mới của tỉnh Kon Tum. Guilleminet đã viết một công trình về văn minh người Việt ở Quảng Ngãi (1926), bài đầu tiên về người Bahnar của ông xuất hiện năm 1938, sau cuốn Mọi Kontum một năm, và các tác phẩm chính của ông xuất bản vào những năm 1950 có một cuốn từ điển và một cuốn về luật tục (16).
Khi Đổng Chi và Kinh Chi đến Kontum, viên Công sứ vừa mới nhận nhiệm vụ ở đây (1932). Với công việc nghiên cứu đang ở giai đoạn đầu, ông hẳn đã rất vui mừng chào đón anh em Nguyễn Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi đến với ‘cộng đồng những người làm dân tộc học’ ở cái thị xã này. Guilleminet đã cho hai anh em lời khuyên và để họ tiếp cận với những tài liệu lưu trữ của tỉnh: Bài tựa của ông cho cuốn Mọi Kontum bày tỏ một sự ủng hộ rõ ràng đối với các giá trị và mục tiêu mà Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi đề ra cho dự án. Sự ủng hộ này có lẽ đã nới lỏng mối quan tâm của cơ quan an ninh Pháp đối với các hoạt động của Nguyễn Kinh Chi, mặc dù nhân viên của cơ quan này chắc vẫn lo lắng về những chuyến viếng thăm nhà tù của vị Bác sĩ hơn là sự quan tâm ông dành cho người Bahnar.
Hai anh em cũng nhận được giúp đỡ của Hội Truyền giáo. Trong lời cảm tạ của tập sách, các tác giả có nhắc tên ba Cha đạo, trong số họ hai là người Việt, một là người Bahnar (17). Liệu những cuộc nói chuyện với các vị Linh mục có thể giải thích hai tác giả đã coi trọng việc nghiên cứu tín ngưỡng và tập quán tôn giáo của người Bahnar thế nào? Chúng ta không có cách gì để biết. Đóng góp này đối với sự hiểu biết của chúng ta về tín ngưỡng của người Bahnar càng có giá trị hơn bởi, ngoài chính các nhà truyền giáo, rất ít nhà dân tộc học đầu thế kỷ XX quan tâm nghiên cứu sâu sắc về lĩnh vực này của người Thượng; và như nhiều già làng ở Kontum kể với tôi năm 2004 – rất nhiều tín ngưỡng, tập quán và các lễ nghi được miêu tả trong Mọi Kontum ngày nay đã bị quên lãng trên vùng cao nguyên này (18).
Kết quả công việc của Nguyễn Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi là một sản phẩm khoa học có chất lượng cao nhất. Kinh Chi là một Bác sĩ và Đổng Chi chưa đầy 20 tuổi, nhưng cuốn sách của họ là dân tộc học thực sự, được nghiên cứu và viết ra bằng phương pháp khoa học và với tinh thần phê phán. Kinh Chi đã đọc những nghiên cứu trước đó về người Thượng. Việc sắp xếp nội dung trong Mọi Kontum không khỏi khiến người ta so sánh nó với lối tiếp cận tổng thể và theo chủ đề của Combes; nhưng ở đây, các tác giả đã đẩy lên một mức độ tinh tế cao hơn hẳn. Cấu trúc cuốn sách trái ngược với lối viết kiểu bút ký của Dourisboure và Guerlach; trái với các hình thức phân loại tộc người và dân tộc học lịch sử được Maitre chọn lựa; trái với những nghiên cứu có tính chuyên sâu mà Kemlin công bố. Trong khi chúng ta cho rằng rất nhiều những phân tích là của Kinh Chi, thì cũng có thể nhận thấy rõ đóng góp của Đổng Chi; tuy thế trong Bài tựa mà Guilleminet viết cho cuốn sách, tên Nguyễn Đổng Chi không được nhắc đến, và thực sự chỉ có thể giải thích điều này rằng viên Công sứ không coi trọng người trẻ tuổi.
Sưu tầm tư liệu chắc chắn rất vui, nhưng bản thân cuốn sách không phải viết ra để vui. Mọi Kontum không phải là một cuốn sách hướng dẫn du lịch, cũng không phải là một tác phẩm văn chương mang yếu tố ngoại lai về người Thượng và sự khác biệt của họ (exotisme), càng không phải một tập bút ký đi đường – thể loại ưa chuộng trong giới thành thị ở Việt Nam từ những thập kỷ 1920. Trong bất cứ trường hợp nào, lối “chơi” của cuốn sách có mục đích rõ ràng: cải thiện sự hiểu biết của người Việt về văn minh Bahnar và đặt nền móng cho mối quan hệ hài hòa giữa hai dân tộc. Cuốn sách là một công trình diễn giải văn hóa, hoàn toàn phù hợp với những giá trị xã hội của vị Bác sĩ "duy hoạt động".
Mục đích này nổi bật lên ở hầu hết mọi trang sách. Hai tác giả đã sử dụng những câu tục ngữ của người Việt để làm sáng rõ sự tương đồng trong tín ngưỡng của người Bahnar cũng như người Việt. Những nghi lễ của người Bahnar được giải thích bằng cách đối chiếu với những lễ nghi tương ứng của người Việt: ví dụ, cả hai dân tộc đều tổ chức lễ mừng một đứa trẻ chào đời và cũng có những nghi thức nghiêm ngặt khi một đứa trẻ qua đời [MKT, tr. 101-102]. Các tác giả đã chỉ ra những cơ cấu xã hội song song: Trong cả hai nhóm dân tộc, đàn ông giàu có được quyền lấy vợ hai [MKT, tr. 107]. Họ cũng chỉnh lại những nhận thức sai lầm, khẳng định người Bahnar “ăn ở nhất định chớ không rày đây mai đó như các dân du mục” [MKT, tr. 69]. Sự tương đồng được các tác giả nêu bật lên: “Cái lối tình cảm huyền bí ấy không riêng chi người cổ sơ, mà đến người văn minh cũng có một cái tâm lý tương tợ như vậy. Chẳng nói chi xa như người mình đây, khi nghe một người ngoại nào hà hiếp một kẻ đồng bang – dầu là người cả đời không quen biết – thời mình tức giận, có khi đem lòng oán hận hết cả người nước ấy” [MKT, tr. 71] (19. Các tác giả đưa ra những so sánh với quá khứ: Họ cho chúng ta biết rằng ngày xưa người Việt cũng đã từng như người Bahnar, chỉ dùng một cái tên để phân biệt, trước khi học cách đặt họ theo người Trung Quốc [MKT, tr. 81]. Đồng thời, các tác giả cũng tìm cách tránh hai cái bẫy: họ không bao giờ đưa ra giả thuyết rằng người Bahnar là người Việt nguyên thủy (proto-Việt), và họ không bao giờ khẳng định những sự tương đồng vô căn cứ. Trên tất cả, Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi muốn phủ định quan điểm phổ biến thời bấy giờ rằng Bahnar là một dân tộc mọi rợ.
Điều này lý giải vì sao cuốn sách lại có một đoạn dài về thói quen lối vệ sinh trong sinh hoạt hàng ngày của người Bahnar. Các tác giả miêu tả chi tiết cách người Bahnar vệ sinh thân thể và giặt giũ quần áo. Họ nhận xét người Bahnar cũng giống như “người nhà quê ta” là có nhiều chấy rận, nhưng cách họ giết chấy rận thì khác, họ dùng hai ngón tay cái kẹp chết chấy rận, chứ không cho vào miệng, dùng răng cắn như người nhà quê ta [MKT, tr. 96]. Nguyễn Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi mở đầu cuốn sách với nhận xét về người Bahnat rằng “tục lệ của họ chẳng những không mọi rợ chút nào mà trái lại có nhiều đều thuần tuý hơn ta kia! [MKT, tr. 1].
Trong mục tiêu cuốn sách đặt ra và ở cả những khía cạnh khác, Mọi Kontum là một sản phẩm ở thời của nó. Điều này là sự thật, thứ nhất, bởi sự phân tích của chính cuốn sách:
Ngày nay, không ai còn thực hiện phương pháp nhân học thể chất [MKT, tr. 34-37], và ngay cả các tác giả xử lý điều đó cũng chỉ xét qua. Thứ hai là thái độ của các tác giả đối với nhiệm vụ bắc cầu văn hóa có mang dấu ấn gia trưởng của nền giáo dục Nho giáo: Không ai ngày nay gọi người Bahnar là “một dân tộc cổ hủ” [MKT, tr. 2] hoặc cho là người Việt đóng vai trò “một dân tộc anh (...) có tư cách dìu dắc một dân tộc em” [MKT, tr. 3]. Cuối cùng là về ngôn ngữ: Ngày nay, không ai sử dụng từ người An Nam (hoặc người Nam) để nói về người Việt và không ai gọi người Bahnar là mọi. Đến giờ, từ mọi vẫn bị phản ứng trên vùng cao nguyên, vì thế trong lần tái bản cuốn sách này, chúng tôi đã chọn tên mới đặt cho sách: Người Ba-na ở Kon Tum. Nhưng từ này vẫn được giữ lại trong bản tiếng Việt, vì các tác giả giải thích rằng họ không dùng nó với bất kỳ ý nghĩa miệt thị nào [MKT, tr. 1; chú thích MKT tr. 9] (20). Trong bản dịch tiếng Pháp, nhà dịch giả tài tình Nguyễn Văn Ký gửi đến bạn đọc những từ như "người Thượng", "bộ tộc", "người bản địa" v.v...
Bởi ý nghĩa lịch sử của nó, sách tái bản lần đầu tiên này tôn trọng nguyên bản của hai tác giả. Không có bất cứ một chỉnh sửa hay thay đổi nào, và điều này kéo theo hệ quả là khi đọc văn bản cần phải thận trọng đôi chút. Trong sách còn vài vấn đề liên quan đến nội dung, ví dụ một số chi tiết trong truyền thuyết Bahnar về sự sáng tạo ra loài người qua trận đại hồng thủy (MKT, tr. 33-34), khiến chúng ta nghĩ ngay đến trận đại hồng thủy trong sách Sáng thế ký, với giả thiết rằng các nhà truyền giáo chắc hẳn phải biết lồng ghép tình tiết của Kinh thánh vào truyền thuyết. Nhiều lỗi vẫn còn, ví dụ cách giải thích nguồn gốc từ yoan, mang nghĩa miệt thị mà người Bahnar dùng để chỉ người Việt (cách dùng từ kiểu này cũng giống như người Việt dùng từ mọi để gọi người Bahnar) [MKT, tr. 13]. Thêm nữa, đây đó trong cuốn sách, chính tả và một số từ thuộc phương ngữ Bắc Trung Bộ, quê hương của hai tác giả, khá lạ lẫm với độc giả Việt Nam bây giờ (ví dụ từ xe điện chỉ ô tô). Nhưng thật ngạc nhiên là những hạn chế này không ảnh hưởng đến chất lượng của chuyên khảo, cũng không làm người đọc thấy chán.
Bản in Mọi Kontum năm 1937 giờ trở nên cực kỳ hiếm, khó mà tìm được ngay cả trong các thư viện lớn của Việt Nam. Việc tái bản toàn bộ tác phẩm cho phép người đọc thưởng thức hai giá trị quan trọng của cuốn sách gắn liền với lịch sử. Giá trị thứ nhất là cuốn sách chứa đựng một kho tri thức về lịch sử tỉnh Kon Tum và văn hóa người Bahnar. Thứ hai là sự đóng góp lớn của cuốn sách cho sự phát triển của khoa học xã hội Việt Nam: Mọi Kontum, xét đến cùng, là công trình đầu tiên của ngành dân tộc học được viết bằng tiếng Việt.
Ngoài những hình ảnh mà các tác giả đã chọn để công bố trong bản in lần đầu, lần tái bản này còn bổ sung ba phần tư liệu ảnh, mỗi phần nhằm chuyển tải một khía cạnh của nội dung cuốn sách đến bạn đọc. Trước hết là một sưu tập ảnh về chân dung các cư dân người Thượng ở Kontum. Tiếp theo, chúng tôi xen vào giữa bản gốc tiếng Việt và bản dịch tiếng Pháp một sưu tập ảnh về các buôn làng, các công trình xây dựng hình thành nên Kontum thời bấy giờ, trong đó có cả nhà truyền giáo Công giáo và Tòa Công sứ Pháp, được chụp vào những thập niên đầu của thế kỷ XX. Để khép lại cuốn sách, chúng tôi tái hiện những hình ảnh gần đây hơn: đó là những hình vẽ mô tả cuộc sống sinh hoạt của người Bahnars ở làng Kon Mahar vào khoảng những năm 1950, đã được cha Clément thuộc Hội Truyền giáo Công giáo chụp lại.
Trước khi để Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi dẫn chúng ta ngược lên thế giới của người Bahnar ở Kon Tum những năm 1930, chúng ta hãy lang thang chút nữa trong thế giới của chính hai tác giả. Tôi muốn kết thúc lời giới thiệu này với những dòng hồi ức của người con trai cả của Nguyễn Đổng Chi, những điều ông nhớ và suy nghĩ về công việc nghiên cứu và viết Mọi Kontum:
Việc bố tôi, Nguyễn Đổng Chi, lên Kontum với bác tôi trong năm 1933, là việc xảy ra khá lâu trước khi tôi sinh, nên tôi không thể nói gì về nó với tư cách một người đồng thời. Nhưng khi lớn lên, trong ngôi nhà Chi gia trang rộng lớn (ngôi nhà chung của đại gia đình ba anh em Nguyễn Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi và Nguyễn Hưng Chi) (21), có thư viện Mộng Thương thư trai mà chúng tôi gần như có mặt hàng ngày, tôi vẫn thấy treo trên tường thư viện một chiếc cung, một chiếc nỏ, mấy mũi tên trong một cái ống có hoa văn, một cái tù và bằng sừng để thổi cũng có chạm hoa văn, và một cặp sừng hươu hay nai gì đó. Ở trong tủ kính còn có bày một bộ quần áo Bahnar, bên cạnh lại có một tượng Chàm bằng đất nung, loại tượng bán thân, gây ấn tượng ở hai cặp vú lớn. Lớn lên chút nữa, tôi được nghe mọi người trong nhà kể rằng tất cả những thứ ấy là do bố tôi mang về từ Kontum. Vào khoảng 1952, bố tôi và chú tôi cùng xin nghỉ công việc nhà nước (lúc bấy giờ bố tôi là Giám đốc Nhà xuất bản Dân chủ mới Liên khu IV, ở Đô Lương, Nghệ An, còn chú tôi là Quản đốc Xưởng giấy Đông Nam hình như ở Đức Thọ, Hà Tĩnh). Bố tôi và chú tôi về quê hăm hở thực hiện giấc mộng thành lập một kiểu làm ăn theo phương thức XHCN ở trong đại gia đình mà các ông đọc được trong sách Kinh tế chính trị học tiếng Pháp dịch từ LX, dành cho cán bộ trí thức học. Chúng tôi là những thành viên của cái hợp tác xã XHCN kia. Mỗi khi cả nhà làm việc mệt nhọc các vị chủ nhân thường bày trò kể chuyện hoặc đọc sách giải khuây, và chúng tôi hết sức hưởng ứng. Chính là chú tôi đã kể câu chuyện bố tôi đi Kontum cho chúng tôi nghe trong khi bố tôi chỉ lặng im và mỉm cười. Theo lời chú tôi thì vào năm 1933 bố tôi là một thanh niên (bố tôi sinh năm 1915) nghịch ngợm và hiếu kỳ, vừa học ở Trường Cao đẳng tiểu học tại Vinh (khi học tiểu học thì bố tôi học ở Đồng Hới, ở với bác tôi), lại vừa học võ nên rất giỏi võ, và rất thích nghĩ ra những việc như kinh doanh hàng mây tre, mở hiệu thuốc Nam để làm sao đưa công nghệ nước nhà phát triển. Ông lại thích làm báo nên đã làm trợ bút cho tờ Thanh Nghệ Tĩnh tuần báo ở Vinh. Năm 1933, khi biết mình phải đổi từ Huế lên Kontum, bác tôi viết thư ra Vinh cho bố tôi đề nghị ông nghỉ học một năm để theo bác tôi lên Kontum khảo sát phong tục người Mọi ở đây và cũng để hai anh em sống với nhau ở nơi heo hút, bởi nói đến Mọi thì ai cũng sợ lên xứ ấy một mình. Bố tôi nghe lời và bỏ tất cả đi theo anh. Đến Kontum, do trẻ trung xông xáo, bố tôi tìm vào các buôn làng làm quen với người Bahnar rất nhanh. Chính ông phát hiện ra rằng dân tộc Bahnar là một dân tộc có văn hóa chứ không phải như thành kiến mà mình tưởng lúc còn ở nhà. Về phần bác tôi thì cũng tiếp xúc với người Bahnar qua những người phụ tá ở Bệnh viện Kontum, nhất là vợ chồng thầy Khán hộ Hlưlh đã giúp đỡ ông hết lòng và sau khi về xuôi một thời gian thì thầy khán hộ này bị bạo bệnh và qua đời. Hai anh em cùng có ấn tượng tốt về người Bahnar và họ đi đến quyết định tìm tư liệu để viết một cuốn sách về dân tộc này, nhằm giới thiệu với người Kinh – vốn còn thành kiến nặng nề về "Mọi", thường đi kèm những tin đồn về "Mọi có đuôi", "Mọi đánh thuốc độc"... – những phong tục tập quán tốt đẹp và sinh hoạt cộng đồng của một trong những sắc dân mà mình bắt đầu thấy mến, có thể gần gũi được chứ không phải nghi kỵ, cảnh giác như lúc mới đến. Họ bèn phân công nhau: bác tôi lấy tư liệu chủ yếu từ những người ở ngay trong Bệnh viện của ông, còn bố tôi thì phải tiếp tục thâm nhập vào các buôn làng, sống chung với cư dân ở những nơi đó để tìm hiểu mọi chuyện và làm trắc nghiệm (teste) về các vấn đề do hai anh em đặt ra. Bố tôi liền sắm một bộ áo quần Bahnar và làm theo lời người anh và cũng là niềm thích thú của mình. Tuổi trẻ, ông đã làm thân được với các trai làng nhất là với các cô gái Bahnar rất nhanh, và qua các cô gái này cũng đã có những mối tình nẩy nở, chủ yếu về phía các cô gái. Bằng chứng là họ đã mời bố tôi cùng đi tắm suối chung (ảnh tắm truồng của một cô gái do bố tôi chụp), và mỗi khi từ biệt ra về thường ông vẫn được các cô tặng cho những cái cấu véo vào da thịt (một cách tỏ tình của người Bahnar). Thời gian bố tôi thâm nhập vào các làng Bahnar có lẽ phải đến nhiều tháng, vì ông đã ghi được rất nhiều truyện cổ tích, và ca dao tục ngữ do người Bahnar kể lại, lúc về ông đem về cả một bó tài liệu to tướng, buộc dây để ở trên gác nhà Chi gia trang cùng với các ảnh chụp ở Kontum (khi lớn lên chúng tôi vẫn thấy, và PGS Vũ Ngọc Khánh (người huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh) lúc đến đọc sách ở Thư viện nhà tôi cũng còn được tham khảo), tuy nhiên, cuốn Mọi Kontum do Mộng Thương thư trai xuất bản ở Huế năm 1937, vì eo hẹp về tiền nong nên chỉ trích ra được một phần nhỏ mà thôi. Bố tôi ghi chép ca dao và truyện cổ là ở những nguời già làng và những người này suốt ngày ngồi quanh bếp ở trên nhà sàn, muốn ghi chép được thì phải lân la làm thân mà càng thân với con gái họ thì các già làng sẽ thân với mình. Tất nhiên, những mối tình giữa chàng trai người Kinh và các nàng thiểu số không đi đến đâu bởi như tôi nói, đây là tình yêu đơn phương. Tôi cũng không rõ giữa họ có la relation sexuelle hay chưa, vì chú tôi rất ý nhị chỉ nói như nói đùa: "Giá mà chậm một ít nữa thì bố chúng mày đã rước một ả Mọi về nhà mình rồi và chúng mày sẽ là một lũ Mọi con". Có lẽ lúc ấy trong nhà đã có mẹ tôi, một nàng dâu thảo, xinh đẹp, nên chú tôi tế nhị không nói. Chú tôi kể những chuyện ấy không phải một lần mà rất nhiều lần, nhiều chuyện chi tiết bây giờ tôi không nhớ nữa nhưng khi kể về đám tang một ông quan lang Mọi thì bố tôi xen vào, kể rất kỹ cách trồng cây tre và cách buộc trâu ở quanh mộ trước khi làm lễ "bỏ mả" như thế nào. Bố tôi nói họ có đốt pháo, và để chứng minh, ông liền vào nhà trong lên gác, lục ra 2 quả pháo của người Bahnar, loại pháo vuông chứ không tròn, ở ngoài dùng dây mây chẻ ra quấn lại rất chặt và đẹp, chỉ ở trên đầu thò ra cái ngòi pháo. Chúng tôi ngắm nghía chán chê rồi nài bố tôi cho đem ra đốt. Sau một lúc lâu ngẫm nghĩ ông bằng lòng. Thế là hai quả pháo được đốt ngay hôm đó nhưng tiếc chẳng quả nào nổ, chỉ cháy phì khói ra mà thôi.
Đấy, những gì về bố tôi thuở đi điền dã Kontum trong ký ức tôi lưu lại còn có ngần ấy, mặc dầu chuyện kể về nó thì rất nhiều. Còn nhớ cuối năm 1952, hai vợ chồng bác tôi về chơi, cũng lại nhắc lại chuyện này, bác trai tôi có nói một cách khôi hài: "Gióng (tên trong nhà gọi bố tôi) hồi ấy ăn nắng đen thui, giống hệt Mọi, mà "lan man" với các cô Mọi thì không dứt ra được. Có hôm có cô còn theo về đến nhà (ở thị xã Kontum)". Bác gái tôi đế theo: "Thì cái thằng Huệ (chỉ tôi), nhìn con mắt có đuôi dài, rồi cũng thế đấy". Từ đó các chị con bác tôi thường lấy chuyện này ra đùa cợt tôi.
Tôi nghĩ, ở thời điểm 1933, hai tác giả Mọi Kontum, có thể do có ít nhiều kiến thức, mà cũng có thể chỉ là vô thức mà thôi, nhưng đã biết đi đúng phương pháp điều tra dân tộc học, mà chủ yếu là: hóa thân thành dân bản địa để sống với họ trong khi khảo sát về họ. Sau này, anh trai con bác tôi, nhà dân tộc học Nguyễn Từ Chi, cũng sử dụng đúng phương pháp ấy khi đi sâu vào người Mường. Chỉ có khác là ông có nhiều thời gian hơn, và đi vào người Mường rất nhiều đợt, mỗi đợt có một yêu cầu cụ thể, nên kết quả thu hoạch được được trình bày thành một chủ để tuy hẹp nhưng sâu là vũ trụ quan người Mường (22).
A.H.
(1) Cảm ơn Cô Nguyễn Hoàng Diệu Thủy và Ông Đào Hùng đã dịch sang tiếng Việt.
(2) Xã Ích Hậu, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Xin cảm ơn Ông Nguyễn Huệ Chi đã cung cấp những thông tin riêng về Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi.
(3) Các cuốn sách này có tên Du lịch Quảng Bình và Công nghệ Quảng Bình.
(4) Câu chuyện này được giới thiệu trưng bày tại bảo tàng của Hội Truyền giáo Công giáo (Catholic Mission) ở Kontum.
(5) Pierre Dourisboure, Les sauvages ba-nhars (Cochinchine orientale), souvenirs d’un missionnaire, Paris: Le Soye, 1873, tr. 376-379.
(6) Henri Maitre, Les Jungles Mois, Paris: Larose, 1912, tr. 210-215.
(7) Chỗ này người viết bị nhầm. Trong thập kỷ 1920 cũng như bây giờ, đó là đường 19.
(8) Claudius Madrolle, Manuel du voyageur en Indochine du Sud, Paris : Hachette, 1928, tr. 222-223.
(9) Claudius Madrolle, Manuel du voyageur en Indochine du Sud, Paris : Hachette, 1928, tr. 222-223.
(10) ‘Lược khảo về tỉnh Kontum/Notes sur la province de Kontum’, Nam Phong, supplément en français, no. 74, 1923 (?), tr. 19-20.
(11) Trung tâm lưu trữ NAOM, Quỹ Madrolle 42 PA 18, d. 2. Lettre du Résident de Kontum à Madrolle, ngày 9/10/1923.
(12) Những tác phẩm chính của ông gồm Túp lều nát, Việt Nam cổ văn học sử, Lược khảo về thần thoại Việt Nam và Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam.
(13) Hồi ký của ông Nguyễn Hưng Chi. Xin cảm ơn ông Nguyễn Huệ Chi đã chia sẻ với tôi bản viết tay này.
(14) Thông tin riêng do Nguyễn Huệ Chi cung cấp, tháng 11/2009 (xem đầy đủ thông tin này dưới đây).
(15) J.P. Combes, lettre à MM. les Directeurs du Séminaire des Missions-Étrangères, trong Dourisboure, Les sauvages ba-nhars, tr. 405-445. Các công trình chính của Jean-Baptiste Guerlach là Chez les sauvages bahnars, Angers: Arcob, 1894 và Théogonie, génies ou Iangs supérieurs : Mœurs et superstititons des sauvages Bahnars, Angers: Arcob, 1887. Các công trình chính của Émile Kemlin đã được tái bản trong Les Reungao, rites agraires, songes et alliances, Paris: EFEO, 1998.
(16) Xem ‘Une industrie annamite. Les norias de Quảng Ngãi’, BAVH, 1926, 2, p. 97-232; ‘Une forme originale d’organisation commerciale. Les démarcheurs banhars’, Revue indochinoise juridique et économique, 8, 1938-IV, Hanoi, tr. 704-719; Coutumier de la tribu Bahnar, des Sedang et des Jarai de la province de Kontum, Paris: EFEO, 1952; Dictionnaire Bahnar-Français, Paris: EFEO, 1959, tập 1, tr. ix (cùng biên soạn với Jules Alberty). Xem thêm Louis Malleret: Tiểu sử ‘Paul Guilleminet (1888-1966)’, BEFEO, 54, 1968, tr. 1-8.
(17) Năm 1932, có 14 nhà truyền giáo người Pháp và 15 linh mục địa phương (12 người Việt và 3 người Ba-na) làm việc tại Kon Tum, theo Rapport no. 1435, mission de Qui Nhơn, 1932, Archives des Missions étrangères de Paris, http://www.mepasie.org/?q=node/19125 (tra cứu ngày 4/11/2009).
(18) Điền dã, thành phố Kontum, tháng 3/2004.
(19) Ví dụ này đặc biệt đáng quan tâm, bởi chắc chắn nó ám chỉ tình cảnh của người Việt dưới thời Pháp thuộc.
(20) Các tác giả tìm ra nguồn gốc của từ mọi trong tiếng Việt là từ tơmoi (khách) trong tiếng Bahnar. Theo tôi, cần phải tìm thêm các cách giải thích khác nữa. Xem cuộc thảo luận đầy đủ hơn trong Lưu Đình Tuân và Nguyên Ngọc, ‘Lời người dịch và hiệu đính’, Rừng người thượng, Hanoi: EFEO/Nxb Trí Thức, 2008, tr. 19-20.
(21) «Chi gia trang»: Hồi trẻ, 3 anh em sống cùng nhau; họ của gia đình là Nguyễn, nhưng mỗi người đều được ông bà cha mẹ đặt tên là Chi, vì thế cả gia đình mang tên «Chi».
(22) Thông tin riêng do Nguyễn Huệ Chi cung cấp, tháng 11/2009, ông dẫn tác phẩm của Nguyễn Từ Chi, La Cosmologie Mường, Paris: L’Harmattan, 1997, 249 tr.
Sáng lập:
Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng
Điều hành:
Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]
Liên lạc: bauxitevn@gmail.com
boxitvn.net
boxitvn.blogspot.com
FB Bauxite Việt Nam

Bài đăng phổ biến
- Nhiệm vụ đích thực của quân Trung Quốc ở miền Bắc Việt Nam trong chiến tranh Việt Nam
- Nhân - Quả cay đắng (1)
- Bạn trẻ “bắt trend” giỏi quá
- Quốc hội ta... nó thế (đêk) nào ấy...
- Nhân loại vong ân
- Một nén nhang kính viếng Tổng thư ký Hội Trí thức Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh Huỳnh Kim Báu
- Liên quan việc ứng cử ĐBQH của GS Nguyễn Đình Cống – Các mức thắng lợi
- Bắc Kinh lúng túng sau phát ngôn của người đứng đầu WHO
- Phan Châu Trinh - Nhà Cách mạng vĩ đại nhất của VN hiện đại


Nhãn
- Giáo Dục
- Sử Liệu
- chính phủ
- Pháp Luật
- Nhân quyền
- "Cuồng Trump" tại Mỹ
- "Dịch hạch"
- "phản động"
- 10 năm Bauxite Việt Nam
- 1000 năm
- 14/3
- 2638349
- 30/04/1975
- 30/4
- 30/4/1975
- 30/4/1975. Bên thắng cuộc
- 39 người chết ở Anh
- 40 năm Chiến tranh biên giới
- 90 năm
- 99 năm
- ADIZ
- Ải Nam Quan
- Albert Camus
- Alexandre de Rhodes
- Algerie
- an ninh
- An ninh CS
- an ninh mạng
- an ninh quốc phòng
- An ninh tiền tệ
- án oan
- án tử hình
- Án văn tự
- An Viên
- André Menras
- Anh hùng
- Anh hùng Lê Mã Lương
- Ảo vọng trí thức
- ASEAN
- AVG
- Ăn cắp công nghệ
- Âm mưu Tàu Cộng
- Âm mưu phá hoại kinh tế của Trung Quốc
- Âm mưu Tàu Cộng
- Âm mưu Tàu Cộng
- Âm mưu Tàu cộng biến các nước đang phát triển thành con nợ
- Âm mưu Tàu Cộng. Đảng CSTQ
- Âm mưu Trung Cộng
- Âm mưu Trung Quốc
- Ấn độ
- Ấn Độ Dương
- Âu châu
- ấu dâm
- Ba Lan
- Bà Nà
- Bá quyền nước lớn
- Bá quyền Trung Cộng
- Ba Sàm
- Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh
- Bạch Long Vĩ
- bachkhoadanang.net
- Bãi Ba Đầu
- bài Trung
- Bãi Tư Chính
- Bản chất thâm hiểm của Đại Hán
- Bản chất thể chế
- Ban Công lý và Hoà Bình GP Vinh
- Bàn cờ thế giới
- bản đồ
- Bản đồ đường lưỡi bò
- bán nước
- Ban Tổ chức trung ương
- Ban tuyên giáo
- bành trướng
- báo cáo
- Bao cấp
- Bao cấp quyền lực
- Báo chí
- Báo chí đảng
- Báo chí độc tài
- Báo chi lề phải
- Báo chí quốc doanh
- Báo chí thời đổi mới
- Báo chí tự do
- Báo chí xuất bản tự do
- bạo động
- Bạo hành trong lứa tuổi họ trò
- Bảo hiểm xã hội
- bạo loạn
- bạo lực
- Bạo lực CS
- Bạo lực cướp đất
- Bạo lực và chuyên chính
- Báo Tuổi Trẻ
- Báo Tuổi trẻ bị đình bản
- Báo Văn nghệ thời Đổi mới
- Bảo vệ đảng
- Bảo vệ nhân quyền
- Bảo vệ rừng
- Barack Obama
- Bauxite
- Bauxite Tây Nguyên
- Bắc Hàn
- Bắc Mỹ
- bắc vân phong
- Bằng câp quan chức
- bằng giả
- Bắt bớ giam cầm
- Bắt cóc
- Bắt dân
- Bần cùng hóa
- Bần cùng hóa trong thể chế cộng sản
- bất công
- Bất đồng chính kiến
- Bất động sản
- Bầu cử
- bầu cử Mỹ
- Bầu cử Mỹ 2020
- Bầu cử Quốc hội
- bầu cử Tổng thống Mỹ
- Bẫy nợ
- Bẫy nợ Trung Quốc
- BBC
- bè phái
- Bên thua cuộc
- bệnh thành tích
- Bệnh viện Bạch Mai
- Bí mật thông tin
- Biden
- Biden và chiến lược mới với Tàu Cộng
- Biden và chiến lược toàn cầu
- Biến chủng virus
- Biến đổi khí hậu
- biển Đông
- Biên giới
- biểu tình
- Bình đẳng cộng sản
- bình ổn
- Blog
- bóng đá
- Bóng đá và lòng dân
- BOT
- BOT bẩn
- Boudarel
- bộ chính trị
- Bộ luật hình sự
- Bộ máy chính quyền
- Bộ máy chính quyền CS
- bộ máy công an
- Bộ máy CS
- Bộ máy quan chức
- Bộ máy thi hành luật
- Bộ mặt thạt quan chức cộng sản
- Bộ mặt thật của quan chức cộng sản
- Bộ Quốc phòng và nhiệm vụ quốc phòng
- Bộ Tứ
- Bô Xít
- bồi thường
- Brexit
- BRI
- BS Lý Văn Lượng
- BS Nguyễn Đan Quế
- Bùi Minh Quốc
- Bùi Thị Nối
- Bùi Tín
- Bùi Viết Hiểu
- Buôn người
- buồn vui Chủ nhật
- Bức tranh thế giới
- Bước đường cùng của nông dân Việt
- CA bắt cóc
- Cà Mau
- Ca sĩ Thủy Tiên
- Cạc Ma
- Các tổ chức chân rết của đảng
- cách mạng
- Cách mạng 4.0
- Cách mạng dân chủ
- Cách mạng tháng Tám
- Cách mạng tháng Tám Con đường dân chủ hóa đất nước
- Cách mạng thàng Tám và bước lùi của lịch sử
- Cái ác
- cải cách
- Cải cách chính trị
- Cải cách tư pháp
- Cái chết cụ Kình
- Cái chết của quan chức Cộng sản
- cải tổ
- Cam kết nhân quyền
- Campuchia
- Canada
- Cảnh báo đỏ
- Cảnh giác Tàu Cộng
- cánh tay của đảng
- Cánh tay nối dài của đảng
- canh tân
- Cao Bằng
- cáo buộc chống nhà nước
- Cáo phó
- Cao tốc Bắc - Nam
- Cao tốc Bắc Nam
- Cắt điện
- Cầm nhầm thương hiệu
- cấm nhập cảnh
- cấm vận
- Cận huyết chính trị
- Cận huyết khoa học
- Cấn thị Thêu
- Câu đối Tết
- Cháy rừng
- Chân lý nước Tàu
- Chân Phương
- Chân vạc Mỹ - Nga - Trung
- Châu Á
- Cheonan
- chế độ
- chế độ công an trị
- Chế độ cộng sản
- Chế độ Cộng sản TQ
- Chế độ CSVN
- Chế độ dân chủ
- Chế độ Việt Nam Cộng hòa
- Chế độ VNCH
- Chết dưới tay Trung Quốc
- Chia buồn
- Chiếc ghế Hội đồng nhân quyền
- Chiến dịch "đốt lò" của Nguyễn Phú Trọng
- Chiến lang của Tàu Cộng
- Chiến lược bành trướng
- Chiến lược mềm thôn tính các nước của Tàu cộng
- Chiến lược ngoại giao
- Chiến lược toàn cầu
- Chiến lược Trung Quốc
- Chiến thuật vùng xám
- chiến tranh
- Chiến tranh biên giới
- Chiến tranh lai
- Chiến tranh lạnh mới
- chiến tranh nguyên tử
- Chiến tranh sinh học
- chiến tranh thương mại
- Chiến tranh thương mại Mỹ Trung
- Chiến tranh Việt Nam 1959-1975
- chiến tranh Việt Trung
- Chinalco
- Chinanazi
- Chinazi
- Chính khách Dân chủ & Độc tài
- chính phủ
- Chính phủ Tràn Trọng Kim
- Chính phủ Trần Trọng Kim
- Chính Quyền
- Chính quyền Cộng sản
- chính sách
- Chính sách 4 không
- Chính sách ba không
- Chính sách đối ngại của J. Biden
- Chính sách đối ngoại của chính quyền Biden
- Chính sách đối ngoại Joe Biden
- Chính sách Joe Biden
- Chính sách thuế
- Chính sách xoay trục 2.0 của Mỹ
- Chính trị
- Chính trị Mỹ
- Chính trị thế giới
- Chính trị thống soái
- Chính trị Xã hội VN
- Cho thuê rừng
- Chống diễn biến tư tưởng
- Chống tham nhũng
- Chống tham nhũng & Phe phái trong đảng
- chống Trung Quốc xâm lược
- Chống Trung Quốc xâm lược mềm
- Chu Ân Lai
- Chu Hảo
- Chu Hảo Tuyên bố
- Chủ nghĩa bành trướng Đại Hán
- Chủ nghĩa bầy đàn
- Chủ nghĩa cộng sản
- Chủ nghĩa Dân túy
- chủ nghĩa Đại Hán
- chủ nghĩa Mác
- Chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa nhân văn
- Chủ nghĩa Mác-Lê
- Chủ nghĩa thân hữu
- Chủ nghĩa Trump
- Chủ nghĩa Trump và CNCS Trung Quốc
- Chủ nghĩa tư bản thám sát (surveillance capitalism)
- Chủ nghĩa Tư bản Thân hữu
- Chủ nghĩa vô sản quốc tế
- chủ nghĩa xã hội
- Chủ quyền
- Chủ quyền biển đảo
- Chủ quyền Biển Đông
- Chủ quyền lãnh thổ
- Chú Tễu
- Chùa chiền và Phật giáo Cộng sản
- Chúc mừng năm mới
- Chúc Tết
- Chuyên chính
- Chuyên chính trong thể chế Cộng sản
- Chữ quốc ngữ
- Chức năng của quân đội và công an dưới thể chế đảng trị
- Chức năng quân đội
- Chương trình "Thách đố & Cộng hưởng"
- Climate Central
- coi thường luật pháp
- Con cái quan chức
- Con đường dài hạn của kinh tế Mỹ
- Con đường dân chủ hóa
- Con đường đổi mới
- Con đường lây lan Covid-19
- Con đường ngầm của giới doanh nhân Việt
- Con đường phát triển
- Con đường quyền lực
- Con đường Việt Nam
- Con người mới hôm nay
- Con số người chết dịch Coronavirus ở Trung Quốc
- Corona
- Coronavirus
- COVID 19 ở VN
- COVID-19
- COVID-19 ở VN
- Cộng sản cướp đất
- Công an
- công an đánh dân
- Công an trị
- Công an và văn hóa nhân văn
- Công an Việt Nam trong chế độ độc tài
- công đoàn
- Công đoàn CS
- Công đoàn độc lập
- Cộng đồng người Việt ở nước ngoài
- Công đồng người Việt tị nạn
- Công giáo
- Công giáo hôm nay
- Công giáo và CS
- Công hàm Phạm Văn Đồng
- Công lý
- Công lý cộng sản
- Công nghệ giáo dục
- Công nghệ hóa và vấn đề quyền con người
- Công nghệ xe ô tô
- Công nghiệp hóa
- công nhân
- Công pháp quốc tế
- Cộng sản
- Cộng sản & mê tín
- Cộng sản đối thoại với dân
- Cộng sản phản tỉnh
- Cộng sản sụp đổ
- Cộng sản tha hóa
- Cộng sản Trung Quốc
- Cộng sản Trung Quốc và sự áp chế dân chúng
- Cộng sản và chủ quyền đất nước
- Cộng sản và đảng viên phản tỉnh
- Cộng sản và Luật sư
- Cộng sản và trí thức
- Cộng sản và tự do ngôn luận
- Cộng sản và vấn đề bán nước
- Cộng sản và Xã hội dân sự
- Cộng sản vàvấn nạn cải thiện đời sống nhân dân
- Cộng sản Việt Nam và luật pháp quốc tế
- Công ty làm giả cho ngành giáo dục
- Công ước Liên hợp quốc 1982
- Công ước quốc tế
- Cơ chế và tham nhũng
- Cờ tổ quốc
- Cờ vàng ba sọc
- cởi truồng
- CPJ
- CPTPP
- Crimea
- Crưm
- CS ám sát
- CS suy vong
- Cù Huy Hà Vũ
- Cuba
- Cuba tỉnh giấc
- Cùng chung ý thức hệ
- cung đình
- Cùng ý thức hệ
- Cuộc chiến giữ đất
- Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung
- Cuộc chiến thương mại Mỹ Trung
- Cuốc chiến trang thương mại Mỹ Trung
- Cuộc xâm lược mềm của Đại Hán
- Cuồng chống Trump
- Cuồng Trump
- Cưỡng chế
- Cưỡng chế đất đai
- cướp bóc
- Cướp đất
- cướp đất của dân
- Cướp đất của dân
- cựu binh
- Cứu đói
- Cứu trợ
- Cứu trợ bão lũ
- Danh dự nhà khoa học
- Danh nhân văn hóa
- Davos
- Dân chủ
- Dân chủ & Độc tài
- Dân chủ Cộng hòa
- Dân chủ của đảng
- dân chủ giả hiệu
- Dân chủ hóa
- Dân chủ Hoa Kỳ
- Dân chủ kiểu cộng sản
- Dân chủ Mỹ
- Dân chủ ở Việt Nam
- Dân khí
- dân nghèo
- Dân oan
- dân quyền
- Dân sinh
- dấn thân
- dân tộc
- Dân tộc dân chủ
- Dân tộc Uighur
- Dân tộc Việt
- Dân trí
- dân túy
- Dân vận
- Dân Việt ở Campuchia
- Dấu ấn một năm
- Dầu mỏ
- Di chúc Hồ Chí Minh
- Di dân
- di sản cuộc chiến
- di tích
- dịch thuật
- Diệt chủng
- Diệt chủng Tân Cương
- Dìm giá
- doanh nghiệp nhà nước
- Doanh nghiệp TQ và đút lót
- Donald Trump
- Dộc tài Trung Cộng với bầu cử tự do
- du lịch 0 đồng
- dùng tiền TQ trên đất VN
- Duy Ngô Nhĩ
- dự án
- Dự án đường cao tốc Bắc Nam
- Dự án kinh tế
- dự án từ Trung quốc
- Dư luận viên
- Dư luận viên của Đảng
- Dự luật đặc khu kinh tế
- Dự ngôn
- Dư Thị Thành
- Dương Danh Dy
- Dương Thu Hương
- Dương Trung Quốc
- Dương Tường
- Đa dạng sinh học
- Đa đảng
- Đà Lạt
- Đà Nẵng
- Đa nguyên
- đại án
- Đại án Đồng Tâm
- Đại án Thủ Thiêm
- đại biểu hội đồng nhân dân
- Đại biểu quốc hội
- Đại dịch Corona
- Đại dịch Coronavirus
- Đại dịch Covid-19
- Đại dịch Covid-19 và Việt Nam
- Đại dịch Trung Quốc
- Đại dịch virus Trung Quốc
- Đại dịch virus Trung Quốc và người nghèo
- Đại dịch Vũ Hán
- Đại dịch Vũ Hán và Việt Nam
- Đại Hán
- Đại học
- Đại hội 13
- Đại hội Đảng
- Đại hội Đảng XIII
- Đại hội ĐCSVN XIII
- Đại hội XIII
- Đại hội XIII & các mục tiêu
- Đài Loan
- đại lộ Đông-Tây
- Đàm phán biên giới
- đàn áp
- Đàn áp báo chí
- Đàn áp biểu tình
- Đàn áp dân chống BOT bẩn
- Đàn áp dân chủ
- Đàn áp dân quyền
- Đàn áp người biểu tình
- đàn áp người hoạt động nhân quyền
- Đàn áp nhà báo tự do
- Đàn áp nhân quyền
- Đàn áp tôn giáo
- Đàn áp xã hội dân sự
- Đàn áp XHDS
- đàn bầu
- đảng cầm quyền
- Đảng Cộng sản
- Đảng Cộng sản Trung Quốc
- Đảng Cộng sản và vấn đề cán bộ
- Đảng Cộng sản Việt Nam
- Đảng CS Việt Nam
- Đảng CSTQ
- Đảng CSVN
- Đảng CSVN và mục tiêu giành độc lập
- Đảng hóa
- Đảng lãnh đạo
- Đảng phái
- Đảng sợ dân
- Đảng và Dân
- Đảng với dân
- Đảo chính
- Đảo chính Myanmar
- Đảo chính quân sự
- Đạo đức
- Đạo đức cộng sản
- Đạo đức ngành y
- Đạo đức nghề giáo
- Đạo đức suy đồi
- Đạo đức xã hội
- Đạo luật Magnitsky
- Đào tạo cán bộ cộng sản
- Đạo văn
- đặc khu
- Đặc khu kinh tế
- đặc xá
- Đặng Quốc Bảo
- Đặng Tiểu Bình
- Đặng Văn Hiến
- Đặt tên đường
- đâm chìm tàu cá
- Đập thủy điện Mekong. Đập thủy điện Lan Thương
- Đất đai
- đất hiếm
- Đấu đá nội bộ
- Đấu tranh dân chủ
- đầu tư
- Đầu tư Dự án Hải cảng Khu kinh tế
- Đầu tư Trung Quốc & Nguy cơ xâm lược mềm
- ĐCS & Dân chủ hóa
- ĐCSTQ
- ĐCSVN
- ĐCSVN và việc làm trong sạch đảng viên
- ĐCSVN với Trung Cộng
- Đê điều và sông ngòi Hà Nội
- Địa-chính trị Việt Nam
- Điềm gở
- Điện
- Điện ảnh Việt Nam
- Điện ảnh Việt Nam tại Pháp
- Điện hạt nhân
- điện lực Việt Nam
- Điện mặt trời
- Điện Việt Nam
- Điều lệ Đảng
- Đình bản báo
- Định chế quốc gia
- Đình chỉ báo Tuổi trẻ
- đình công
- Định hướng xã hội chủ nghĩa
- Đinh Quang Anh Thái
- Đoàn kết
- Đoan Trang
- Đoàn Văn Vươn
- Đoàn viên
- Đọc sách thời đại loạn thông tin
- Đón thời cơ
- Đóng cửa
- Đỗ Minh Tuấn
- Đỗ Mười
- Đỗ Ngọc Bích
- Đỗ Nguyễn Mai Khôi
- độc tài
- độc đảng
- Độc lập dân tộc
- độc quyền
- độc tài
- Độc tài cộng sản
- Độc tài Cộng sản Trung Quốc
- Độc tài cộng sản và khoa học kỹ thuật
- Độc tài Trung Cộng
- Độc tài tư bản và độc tài cộng sản
- Độc tài và kỳ thị
- Đổi mới
- Đổi mới tư duy
- đội ngũ
- Đội quân chân rết
- đối thoại
- đối thoại giữa nhà cầm quyền và người hoạt động nhân quyền
- Đồng bằng sông Cửu Long
- đồng hoa
- đồng hóa
- Đồng hóa sắc tộc
- Đông Nam Á
- Đông Ngàn
- Đồng Sĩ Nguyên
- Đồng Tâm
- Đốt lò
- Đốt rừng
- Đời sống
- đơn từ
- Đường cao tốc Bắc Nam
- Đường lối đảng
- Đường lối thoát hiểm
- Đường lưỡi bò
- Đường sắt cao tốc
- Đường sắt Cát Linh
- Đường sắt Cát Linh - Hà Đông
- Đường sắt liên vận VN - Trung Quốc
- Đường về nô lệ
- EVFTA
- EVFTA và thể chế
- EVIPA
- EVN
- ExsonMobil
- ExxonMobil
- Facebook điều trần
- Facebook và Luật AN mạng
- Facebook và luật an ninh mạng
- Fake news
- FDI
- FOIP
- Formosa
- Francisco de Pina
- Frank Fenner
- G20
- Gạc Ma
- gạo
- Gắn bó ý thức hệ
- GDP
- Ghét Tàu yêu Mỹ
- giả dạng thương binh
- Giá xăng phi mã
- Giải ảo siêu cường Trung Quốc
- Giai cấp lãnh đạo
- Giải giới hạt nhân Triều Tiên
- Giải Nobel
- giải pháp
- Giải phóng
- Giải thưởng Phan Chu Trinh
- Giải trừ hạt nhân
- Giải trừ vũ khí hạt nhân Bắc Hàn
- Giam cầm kiểu CS
- Giám đốc thẩm
- Giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải
- Giám mục Nguyễn Thái Hợp
- gián điệp
- giàn khoan TQ
- gian lận
- Gian lận thi cử
- Gian lận thương mại
- Giáng Sinh
- Giáo
- Giáo Dục
- Giáo dục CS
- Giáo dục và chính trị
- Giáo dục Việt Nam
- Giáo dục Việt Nam trong tương quan Hàn quốc
- Giao Thông
- Giàu nghèo
- giấc mộng siêu cường
- Giấc mộng Trung Quốc
- Giấc mơ cộng sản
- Giấy tờ công văn
- giết chóc
- giết người
- Giống và khác giữa Triều Tiên và Việt Nam
- Góp ý
- Gốc rễ hư hỏng của quan chức Cộng sản
- Gương mặt trí thức Việt
- H. Kissinger
- Hạ Đình Nguyên
- Hà Đình Sơn
- Hà Giang
- Hà Nội
- Hà Sĩ Phu
- Hà Thị Nhung
- Hà Văn Thịnh
- Hải chiến Hoàng Sa
- Hải Phòng
- Hải quân
- Hạn hán
- hạn mặn
- Hàn quốc
- Hàng giả
- Hàng không Việt Nam
- Hàng không VN
- Hàng rong
- hành chính
- Hành hung
- Hạt giống đỏ
- hấm điểm công dân Nguyễn Anh Tuấn
- Hậu bầu cử Mỹ 2020
- Hệ lụy Đồng Tâm
- hiểm hoạ
- Hiến pháp
- Hiện tại và quá khứ
- Hiện tượng của năm
- Hiệp định thương mại
- Hiệp định TPP
- Hiệp địnnh CPTPP
- Hiệp ước EVFTA
- hòa giải
- Hòa hợp dân tộc
- Hoà hợp hoà giải
- Hòa hợp hòa giải
- Hoa Kỳ
- Hoạ mất nước
- Hoàng Cầm
- Hoàng Công Lương
- Hoàng Hưng
- Hoàng Ngọc Hiến
- Hoàng Sa
- Hoàng Tụy
- Hoàng Xuân Tuyền
- Hoạt động của Việt kiều Úc
- học tập cải tạo
- Hong Kong
- HongKong
- Hồ Cẩm Đào
- Hồ Chí Minh
- Hồ Duy Hải
- Hồ Ngọc Đại
- Hỗ trợ xã hội
- Hội chứng Việt Nam
- Hội đoàn Cộng sản
- Hội đồng Bảo an LHQ
- Hội đồng Lý luận
- hồi ký
- Hối lộ
- Hội nghị TU đảng
- Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam
- Hội Nhà văn Việt Nam
- Hồng Kông
- Hồng và chuyên
- Hợp nhất Tổng bí thư và Chủ tịch nước
- Hợp tác
- Hợp tác năng lượng
- Huawei
- hủy bỏ
- Huy Cận
- Huy động tiền dân
- Huy Đức
- Huỳnh Thục Vy
- Hữu nghị Cộng sản
- Hữu nghị Việt - Trung
- ICOR
- IDS
- IJVN
- Internet
- IPA
- Italia và Tàu Cộng
- J. Biden
- Jeo Biden
- Joe Biden
- John McCain
- John Steinbeck
- Junin 2
- Kẻ thù truyền kiếp
- Kênh đào Suez
- Kêu gọi
- khai dân trí
- Khai thác
- Khát vọng thoát Trung của người Việt
- Khắc phục án tử
- khiếu kiện
- Khoa học
- Khủng bố
- Khủng hoảng
- Khủng hoảng giáo dục
- khủng hoảng kinh tế
- khủng hoảng thể chế
- Khủng hoảng xã hội
- Kịch bản thú tội
- Kiểm duyệt
- Kiểm soát quyền lực
- Kiến nghị
- Kiện Trung Quốc
- Kiều hối
- Kim Dung
- Kim Jong Un
- Kình chống
- Kinh Tế
- Kinh tế cạn kiệt
- Kinh tế Mỹ
- Kinh tế ngầm
- Kinh tế thế giới
- Kinh tế Trung Quốc
- Kinh tế trung ương và kinh tế địa phương
- Kinh tế tư nhân
- Kỷ luật Đảng
- Kỳ thị
- kỳ thị chủng tộc
- Kỳ thị Mỹ
- Kỳ thị trí thức
- Kyal Sin
- lạc hậu
- Lách luật
- Làm chủ
- lạm phát
- Lãng phí
- Lạng Sơn
- Làng ung thư
- lãnh đạo
- Lãnh đạo cộng sản
- Lào
- Lao động
- Lao động nhập cư
- Lao động Việt
- Lao động xuất khẩu
- Lâm tặc
- lập hội
- Lấy dân làm gốc
- Lê Anh Hùng
- Lê Công Phụng
- Lê Duẩn
- Lê Đăng Doanh
- Lê Đình Kình
- Lê Đình Lượng
- Lê Đức Anh
- Lê Hiếu Đằng
- Lê Mã Lương
- Lê Quốc Trinh
- Lễ tang Nguyễn Trọng Vĩnh
- Lê Thanh Hải
- Lê Thị Thu Hà
- Lê Xuân Khoa
- Lên tiếng
- Lệnh không nổ súng trước quân xâm lược Trung Quốc
- Lịch sử
- Liêm khiết
- Liêm sỉ
- Liên Hiệp Quốc
- Liên Hợp Quốc
- Liên minh
- Liên minh chống Chinazi
- Liên minh quân sự Nga - Trung
- Liên Xô
- Linh mục Đặng Hữu Nam
- Lính thợ Việt Nam tại Pháp trong các cuộc Thế chiến
- LivenGuide
- lòng dân
- Lỗ hổng pháp luật Việt Nam
- Lỗ hổng trong Pháp Luật Việt Nam
- Lộc Hưng
- Lời hứa
- lợi ích
- Lợi ích nhóm
- Lời kêu gọi
- Lời Vĩnh biệt
- Lũ lujt miền Trung
- lũ lụt
- Lũ lụt miền Trung
- Luận tội tổng thống
- Luật An ninh mạng
- Luật biển
- luật biểu tình
- Luật dẫn độ
- Luật dẫn độ Hồng Kông
- Luật Đặc khu
- luật đất đai
- Luật điều ước quốc tế
- Luật Hải cảnh
- Luật Hộ tịch
- Luật lao động
- Luật lập hội
- Luật Magnisky
- Luật pháp
- Luật pháp cộng sản
- Luật pháp Việt Nam
- Luật quốc phòng Mỹ
- Luật sư
- Luật sư và Tòa án CS
- Lực cơ bản
- Lực lượng 47
- lương hưu
- Lưu hành đồng Nguyên Trung Quốc
- Lưu Quang Vũ
- Lý Đông A
- Lý Sơn
- Lý tưởng tự do bình đẳng
- Mã Lai
- Mahathir Mohamad
- Mai Thái Lĩnh
- Mai Triệu Quang
- mạng xã hội
- Mao Trạch Đông và ĐCSTQ
- Marx hết vai trò trong các nước tư bản đỏ
- máy bay rớt
- mặt thật Cộng sản
- Mặt thật cộng sản
- Mặt thật CS
- Mặt thật của CSVN
- Mặt thật của những kẻ thèm khát EVFTA
- Mặt thật quan chức
- Mặt thật Tàu Cộng
- Mắt thật Tập Cận Bình
- Mặt thật Trung Cộng
- Mặt thật Trung Cộng
- Mặt thật Trung Quốc
- Mặt thật xã hội
- Mặt thật XHCN
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
- Mặt Trận TQVN
- Mầm non
- Mẹ Nấm
- Mekong
- Mẹo Cộng sản
- Miến Điện
- miền Tây Nam Bộ
- miễn thị thực
- Mike Pompeo
- Mikhail Gorbachev
- Mỏ Cá Voi Xanh
- Mobifone
- Món nợ khổng lồ từ ODA
- Mồ mả lăng tẩm
- Môi sinh
- Môi trường
- Môi trường đồng bằng sông Cửu Long
- Môi trường sinh thái
- Môi trường Thủ đô
- Mộng bá chủ của Trung Cộng
- Một vành đai một con đường
- Một vành đai một con đường đang dần lộ tẩy
- mua dâm
- Mua quan bán chức
- Mua quan bán tước
- Mưu đồ bành trướng của Trung Cộng
- Mưu Tàu Cộng
- Mỹ
- Mỹ - Đài - Trung
- Mỹ - Trung
- Mỹ cấm vận Iran
- Mỹ và thế giới hậu Trump
- Mỹ và Việt Nam hậu Trump
- Mỹ-Trung
- Mỹ-Việt
- Myanmar
- Nam Trân
- nạn buôn người
- Nạn ô nhiễm môi trường
- National Geographic Society
- Năng lượng
- năng lượng điện
- nâng cao dân trí
- nâng điểm
- Nền dân chủ Mỹ
- Nền kinh tế XHCN
- Nga
- Ngày nhân quyền
- ngày nói dối
- Ngày phụ nữ
- Ngày Phụ nữ quốc tế
- Ngày Quốc khánh và lòng dân
- Ngăn sông cấm chợ
- ngân hàng VN
- ngân sách
- Ngân sách nhà nước CS
- Ngân sách quốc gia
- ngập úng
- Nghệ sĩ thứ thiệt
- Nghệ sĩ và thể chế
- Nghệ sĩ và tự do
- Nghị định 15/2020/NĐ-CP
- Nghị định và lòng dân
- Nghị quyết Đảng
- Nghiệp đoàn
- nghiệp đoàn độc lập
- Ngoại Giao
- Ngoại giao chiến lang
- ngoại lai
- Ngoại ngữ
- Ngón nghề mật vụ
- Ngô Bảo Châu
- Ngô Đình Diệm
- Ngô Vĩnh Long
- ngu dân
- Ngủ gật tronng phiên họp Liên hợp quốc
- Nguồn gốc dân tộc Việt
- ngụy biện
- Ngụy biện cộng sản
- Nguy cơ Trung Quốc
- Ngụy Hữu Tâm
- Ngụy Kinh Sinh
- nguỵ quân nguỵ quyền
- Nguyễn Đức Kiên
- Nguyễn Trường Tô
- Nguyễn Bắc Son
- Nguyễn Biên Cương
- Nguyễn Du
- Nguyễn Duy Trinh
- Nguyễn Đình Cống
- Nguyễn Đức Chung
- Nguyễn Hải Long
- Nguyễn Hòa Bình
- Nguyễn Huệ Chi
- Nguyễn Huy Hoàn
- Nguyễn Huy Thiệp
- Nguyễn Hữu Đang
- Nguyễn Khắc Mai
- Nguyên Ngọc
- Nguyễn Ngọc Ân
- Nguyễn Ngọc Như Quỳnh
- nguyễn phú trọng
- Nguyễn Quang A
- Nguyễn Quang A & Viện IDS
- Nguyễn Tấn Dũng
- Nguyễn Thanh Giang
- Nguyễn Thế Hùng
- Nguyễn Thị Kim Ngân
- Nguyễn Thiện Nhân
- Nguyễn Thúy Hạnh
- Nguyễn Thượng Long
- Nguyễn Trần Bạt
- Nguyễn Trọng Tạo
- Nguyễn Trọng Vĩnh
- Nguyễn Trung
- Nguyễn Trung Trực
- Nguyễn Trường Tô
- Nguyễn Tường Thụy
- Nguyễn Văn Bình
- Nguyễn Văn Bông
- Nguyễn Văn Thanh
- Nguyễn Văn Thể
- Nguyễn Văn Vĩnh
- Nguyện vọng hòa bình của họ nhà Kim
- Nguyễn Xuân Diện
- Nguyễn Xuân Phúc
- ngư dân
- Ngừng cáp visa cho Việt Nam
- Người Bảo vệ Nhân quyền
- Người Cộng sản
- Người Đông Nam Á tị nạn tại Hoa Kỳ
- Người lính VNCH
- Người Trung Quốc
- Người Việt
- Người Việt "cuồng Trump" và "chống Trump"
- Người Việt anh hùng
- Người Việt bỏ nước
- Người Việt bốn phương
- người Việt hải ngoại
- Người Việt ở nước ngoài
- Người Việt tị nạn tại Hoa Kỳ
- Người Việt và bầu cử Mỹ
- Người Việt và khuynh hướng chống Trung Cộng
- Ngyên Ngọc
- Nhà báo
- nhà máy alumin nhân cơ
- nhà máy nhiệt điện
- nhà nước
- Nhà nước kiến tạo
- Nhà nước Liên bang Trung Quốc Mới
- nhà nước Việt Nam
- Nhà nước Việt Nam và hội nhập quốc tế
- Nhà nước Việt Nam và việc chi tiêu ODA
- Nhà nước XHCN
- Nhà thầu Trung Cộng
- Nhà thờ Bùi Chu
- Nhà tù CS
- Nhà văn Liên Xô phản kháng
- Nhà xuất bản Tự do
- nhạc vàng
- Nhân cách quan chức cộng sản
- Nhân cơ
- nhân dân
- Nhân dân thức tỉnh
- Nhân quyền
- Nhân quyền Việt Nam
- Nhân sự Cộng sản
- Nhân sự của Đảng
- Nhân sự Đại hội Đảng
- Nhân sự đảng
- Nhân sự thể chế
- Nhân sự trong guồng máy đảng hiện nay
- Nhân tài
- Nhân tài Việt Nam
- Nhận tội
- Nhật - Việt
- Nhật Bản
- Nhật ký trong tù
- Nhất thể hóa
- Nhậtt Bản trong khu vực
- Nhiệm kỳ Donald Trump
- Nhiệt điện
- nhiệt điện ô nhiễm
- Nhiệt điện than
- Nhiệt điện Vĩnh Tân
- Nho giáo
- Nhóm lợi ích
- Nhu cầu tự do dân chủ
- Những bức ảnh biết nói
- Những cái chết bí ẩn của lãnh đạo Việt Nam
- Những gương mặt thân Tàu
- niềm tin
- Nịnh hót và thể chế
- Nọc Nạn
- Notre Dame de Paris
- NoUFC
- Novaland
- Nỗi buồn chiến tranh
- Nội tình đảng CSVN
- nội xâm
- nông dân
- Nông dân và bần cùng hóa
- Nông dân Việt Nam và sự bần cùng hóa
- Nông dân VN và sự bần cùng hóa
- Nông Đức Mạnh
- nông nghiệp
- Nông thôn
- nợ
- Nợ nần
- Nợ nước ngoài
- Nợ Trung Quốc
- nợ xấu
- Nước biển dâng
- nước lạ
- nước mắm truyền thống
- Nước Mỹ
- Nước Mỹ hậu Trump
- Nước Mỹ thời Biden
- Nước Mỹ trong đại dịch
- Nước Nga hậu Xô Viết
- Nước Pháp
- nước sạch
- Obama
- ODA
- Ô nhiễm
- Ô nhiễm không khí
- ổn định
- ổn định xã hội
- Paris
- PCI
- phá hoại môi trường
- phá rừng
- Phạm Bình Minh
- Phạm Chí Dũng
- Phạm Chi Lan
- Phạm Đoan Trang
- Phạm Nhật Vũ
- Phạm Nhật Vượng
- Phạm Quyết Thắng
- Phạm Thanh Nghiên
- Phạm Toàn
- Phạm Văn Nhận
- Phạm Viết Đào
- Phạm Xuân Nguyên
- Phản biện
- Phản biện của báo chí
- Phan Châu Trinh
- Phan Châu Trinh
- Phan Chu Trinh
- Phan Đình Diệu
- Phản đối
- Phan Ngọc
- phản quốc
- Phản ứng của Việt Nam
- Pháp chế Cộng sản
- Pháp lệnh
- Pháp Luân Công
- Pháp Luật
- Pháp luật Việt Nam
- Pháp lý
- Pháp quyền XHCN
- Phạt giao thông
- Phát ngôn
- Phát ngôn người cầm cân nẩy mực
- phát ngôn quan chức
- phát triển
- Phát triển đất nước
- Phát triển kinh tế
- Phát xít
- phẩm chất cộng sản
- phẩm chất dân tộc
- Phẩm chất người cầm quyền
- Phân hóa đối với Myanmar
- Phân ưu
- Phật giáo dưới chế độ cộng sản
- Phật giáo và Nhóm lợi ích
- Phật giáo và tư bản đỏ
- Phe nhóm
- Phe phái & công cuột "đốt lò"
- Phe thân Tàu
- Philippines
- Phim ảnh
- Phòng ngự Biển Đông
- Phòng thí nghiệm virus ở Vũ Hán
- phong thủy
- Phong thủy Thăng Long
- Phong trào Áo Vàng
- phong trào dân chủ
- Phong trào dân chủ châu Á
- Phong trào đấu tranh dân chủ
- Phổ biến kiến thức
- phố cổ
- Phú Mỹ Hưng
- Phụ nữ
- phú quốc
- Phùng Liên Đoàn
- Putin
- quan chức
- Quan chức cộng sản
- Quan chức cộng sản hưu trí trước nhu cầu thức tỉnh
- Quan chức cộng sản thời nay
- Quan chức Cộng sản vào lò
- Quan chức CS
- Quan chức đảng
- Quan chức nói
- Quan chứcCS
- Quan hệ Châu Âu - Trung Cộng
- Quan hệ chiến lược Hoa Kỳ-Trung Quốc
- Quan hệ chiến lược Mỹ - Trung
- Quan hệ Czech - Việt Nam
- Quan hệ EU - Hoa Kỳ
- Quan hệ EU - Hoa Kỳ - Trung Quốc
- Quan hệ EU - Trung Quốc
- Quan hệ hai đảng
- quan hệ môi răng
- Quan hệ Mỹ - Đài Loan - Trung
- Quan hệ Mỹ - EU - Trung Quốc
- Quan hệ Mỹ - Nhật - Trung
- Quan hê Mỹ - Trung
- Quan hệ Mỹ - Trung
- Quan hệ Mỹ - Úc
- Quan hệ Mỹ - Việt
- Quan hệ Mỹ & đồng minh - Trung Quốc
- Quan hệ Mỹ Trung
- Quan hệ Mỹ-Trung
- Quan hệ Nga - Trung
- Quan hệ ngoại thương Trung Quốc - thế giới
- Quan hệ quốc tế
- Quan hệ Trung - Mỹ
- Quan hệ Trung - Việt
- Quan hệ Trung Quốc - EU
- Quan hệ Trung Quốc - Thế giới tự do
- Quan hệ Úc - Trung
- Quan hệ Việt - Mỹ
- Quan hệ Việt - Trung
- Quan hệ Việt - Trung - Mỹ
- quan hệ Việt Đức
- Quan hệ Việt Mỹ
- quản lý
- Quản lý công nghệ
- Quản lý hàng không
- Quản lý nhà nước
- Quản trị quốc gia
- Quân Đội
- Quân phiệt
- quân sự
- Quốc gia
- Quốc hoa
- Quốc Hội
- Quốc hội châu Âu
- Quốc khánh trong nỗi sợ
- Quốc khánh trong nỗi sợ lòng dân
- Quốc khánh Trung Cộng
- Quốc phòng Việt Nam
- Quốc tang
- Quốc Tế
- Quỹ 50K
- Quỹ đất Hà Nội
- quy định 214
- quy hoạch
- Quy hoạch cán bộ
- Quy hoạch nhân sự
- Quy luật thị trường
- Quyền con người
- Quyền công dân
- quyền hạn
- Quyền lợi
- Quyền lực
- Quyền lực đảng
- Quyền lực và tha hóa
- Quyền riêng tư
- Quyền tự do dân chủ
- Quyền tự do thông tin
- RFI
- Rọ mõm
- Rodrigo Duterte
- RSF
- Rửa tiền
- Rừng
- Sách giáo khoa
- Sách trắng Quốc phòng
- Sài Gòn
- sai lầm
- Samsung
- Sáp nhập tiền tệ
- Sarkozy
- Sáu Dân
- Sáu Tường
- Sầm Đức Xương
- Sân bay Long Thành
- Sân bay Tân Sơn Nhất
- SEARAC
- Shangri-la
- Siêu cử tri
- sòng bạc
- Song Chi
- Số hóa
- sổ hộ khẩu
- Số phận Chinazi
- Số phận người bất đồng chính kiến
- Số phận nông dân
- sông Hồng
- Sông Mekong
- Sông Mékong
- Sống nhân văn
- Sở hữu đất đai
- Sở hữu đất đai & Thu hồi đất đai
- Sở hữu đất đai và Thu hồi đất đai
- Sở hữu toàn dân
- Sở hữu toàn dân và tình trạng và cướp đất
- sri lanka
- Stalin
- Stasi
- Sun Group
- Sùng bái cá nhân
- Suy nghĩ
- Suy thoái kinh tế
- suy tư
- Sử Liệu
- Sức sống dân tộc
- Sức sống XHDS
- Tạ Phong Tần
- tái cấu trúc
- Tài nguyên
- Tam Đảo
- Tam quyền phân lập
- Tàn dư phe XHCN hiện nay
- tản mạn
- Tản mạn chính trị
- tàn phá
- Tang lễ Nguyễn Trọng Vĩnh
- Tàu cá Trung Quốc
- Tàu Cộng
- Tăng giá điện
- tăng thuế
- tăng trưởng
- Tâm linh
- Tâm lý thời đại
- Tầm nhìn của Đảng Cộng sản
- Tân Cương
- Tân Rai
- Tập Cận Bình
- Tập Cận Bình Chiến lược Vành đai và con đường
- Tập đoàn xe Grab biểu tình
- Tập quyền
- Tập quyền tham nhũng
- tập thể
- Tập trận RIMPAC
- Tẩy chay Trung Quốc
- Tây Nguyên
- Tây sơn
- Tây tạng
- Tedros Adhanom Ghebreyesus
- Tệ nạn
- tên lạ
- Tết
- Tết Trồng cây
- Tha hóa xã hội
- Thả thơ Rằm tháng Giêng
- Thái Anh Văn
- Thái Lan
- Tham
- Thảm họa Cộng sản
- Thảm họa môi trường
- Tham nhũng
- Tham nhũng chính sách
- Tham nhũng nhiệm kỳ
- Tham nhũng quyền lực
- Thảm sát Gạc Ma
- Tham vọng quyền lực
- thanh lọc
- Thành thật
- thành tích dổm
- Thanh toán Nhân dân tệ
- thanh trừng
- Thành ủy Hà Nội
- Thành viên Liên hợp quốc
- thao túng chính trị
- Thao túng tiền tệ
- Thặng dư thương mại
- Thăng Long
- Thân phận dân tộc Việt Nam dưới thời Cộng sản
- Thân phận dân Việt
- Thân phận người Việt
- Thất nghiệp
- thầy giáo
- Thẻ đảng
- thể chế
- Thể chế cận huyết
- Thể chế chính trị
- Thể chế chính trị Việt Nam
- Thể chế Cộng sản
- Thể chế cộng sản bế tắc
- Thể chế dân chủ
- Thể chế độc tài
- Thế chế trong buổi mạt vận
- Thể chế và đồng tiền
- Thể chế và lòng dân
- Thể chế và lối thoát
- Thể chế và pháp luật
- Thể chế và phát triển
- Thế chiến thứ Ba
- Thế giới cảnh giác Trung Cộng
- Thế giới chống Trung Quốc
- Thế giới tẩy chay Trung Quốc
- Thế gới quan tâm tù nhân lương tâm ở Việt Nam
- thế hệ trẻ
- Thế lực thù địch
- Thềm lục địa
- thi đua
- thị trường chứng khoán
- Thị Vải
- Thích Quảng Độ
- Thích Trí Quang
- Thiên An Môn
- thiên nhiên
- Thiên tai
- thiết chế xã hội
- Thiểu số thức tỉnh
- thiếu văn hóa
- thoả ước Thành Đô
- thòa ước Thành Đô
- Thoái Đảng
- Thoái hóa đoàn thể cánh tay của CS
- Thoát Cộng
- Thoát Trung
- Thống nhất đất nước
- Thông tin giả
- Thông tư 19
- thơ ca
- Thơ văn Lý - Trần
- Thời cơ
- Thời đại
- Thủ đoạn Tàu Cộng
- thu hồi đất
- Thủ Thiêm
- Thủ tướng
- thuế
- thùng nhân
- Thuốc giả
- thủy điện
- Thủy điện Lan Thương
- Thủy điện Lancang (TQ)
- Thủy điện Luang Prabang
- Thủy điện Mekong
- Thủy điện Mékong
- Thủy điện thượng nguồn Mékong
- Thủy điện và môi trường
- Thủy hải sản
- Thủy lợi
- Thủy Tiên
- thuyền nhân
- Thuyết âm mưu
- thư bạn đọc
- Thư giãn
- Thư giãn Chủ nhật
- Thư giãn CN
- thư giãn cuối tuần
- thư gửi bạn đọc
- Thư ngỏ
- Thực chất quan hệ Trung - Việt
- Thực hành dân chủ
- Thức tỉnh ý thức dân chủ trong dân chúng
- thực trạng đất nước
- Thương chiến Mỹ - Trung
- Thương chiến Nỹ - Trung
- Thượng đỉnh Trump - Kim
- Thương hiệu
- thương mại quốc tế
- Thương mại Việt - Mỹ
- Thương mại Việt Mỹ
- tiềm lực
- tiến sĩ
- Tiền TQ
- Tiếng dân
- Tiếng nói của Tuổi trẻ
- Tiếng nói của xã hội dân sự
- Tiếng nói trí thức Việt Kiều góp phần xây dựng đất nước
- Tiết kiệm
- tiêu tiền TQ trên đất VN
- tin giả
- Tin tặc
- tin tặc tấn công
- Tin tức
- Tính chính danh của nhà nước cộng sản
- tính đảng
- Tình hữu nghị vô sản
- Tình người Cộng sản
- Tinh thần công dân
- Titan
- TKV
- tòa án
- Tòa trọng tài Quốc tế
- toàn cầu hóa
- tố
- Tố Cáo
- Tổ chức nhà nước
- Tổ chức quần chúng của đảng
- Tô Hải
- Tô Huy Rứa
- Tội ác Đồng Tâm
- Tội ác Đồng Tâm
- Tội phạm tham nhũng
- Tôi phạm VN tại Czech
- tôn giáo
- Tôn Quốc Tường
- Tổng liên đoàn lao động Việt Nam
- TP Hồ Chí Minh
- TQ bị tẩy chay
- TQ che dấu dịch bệnh
- Trả nợ nước ngoài
- tra tấn
- Tra tấn và nhục hình
- trách nhiệm Trung Quốc
- Trái đất
- Trang Bauxite Việt Nam
- tranh chấp ruộng đất
- Tranh cử Tổng thốn Mỹ
- tráo trở Tàu Cộng
- Trấn áp bất đồng
- Trấn áp công luận
- Trần Đại Quang
- Trần Độ
- Trần Đức Thạch
- Trần Hồng Hà
- Trần Huỳnh Duy Thức
- Trần Khải Thanh Thủy
- Trần Ngọc Ninh
- Trần Nhương
- Trần Thị Nga
- Trần Thị Trường
- Trần Trọng Kim
- Trần Vũ Hải
- Trật tự thế giới trong Toàn cầu hóa
- Trẻ em
- Trí thức
- Trí thức bỏ đảng
- Trí thức dấn thân
- Trí thức miền Nam
- Trí thức miền Nam sau 1975
- Trí thức theo đảng
- Trí thức tinh hoa
- Trí thức và hiện tình đất nước
- Trí thức Việt Nam
- Trí thức yêu nước
- Trí tuệ nhân tạo trong công nghệ truyền thông
- Triều Tiên
- Trịnh Bá Phương
- Trịnh Vĩnh Bình
- Trịnh Xuân Thanh
- trò hề bầu cử
- Trọng dụng người tài
- trốn chạy cộng sản
- Trồng cần sa xứ người
- Trumpism
- Trung - Mỹ
- Trung Cộng & mưu mô bành trướng
- Trung Cộng phát triển thần kỳ
- Trung Quốc
- Trung Quốc bành trướng
- Trung Quốc cướp đảo
- Trung quốc thao túng
- Trung Quốc và Đông Nam Á
- Trung Quốc xâm chiếm Gạc Ma
- Trung Quốc xâm nhập biên giới
- Trung Quốc xâm nhập trái phép
- trung với Đảng
- Truyện chưởng
- truyền hình
- truyền thông
- Truyền thông cộng sản
- truyền thông mạng
- Truyền thông ở Việt Nam
- Truyền thông quốc gia và sự trục lợi
- Truyền thông về cứu trợ bão lụt
- Truyên truyền CS
- Trương Duy Nhất
- Trường Sa
- Trương Tấn Sang
- Trương Tuần
- Trường viết văn Nguyễn Du
- Trương Vĩnh Ký
- TS Nguyễn Văn Tuấn
- Tù ngục và tự do
- tù nhân chính trị
- tù nhân lương tâm
- Tù nhân lương tâm dưới chế độ Cộng sản
- Tù nhân tâm thần
- Tù nhân trong đại dịch
- Tuổi trẻ
- Tuổi trẻ thức tỉnh
- Tuổi trẻ Việt Nam
- Tuyên bố
- Tuyên bố chung Hoa Kỳ - Phillippines
- Tuyên truyền
- Tuyên truyền Cộng sản
- Tuyên truyền xã hội chủ nghĩa
- Tuyệt thực
- Tự tử
- tư bản đỏ
- Tư bản thân hữu
- Tự bào chữa
- từ chức
- Tự do
- Tự do báo chí
- Tự do dân chủ
- Tự do lập hội
- tự do ngôn luận
- tự do thông tin
- tự do tôn giáo
- Tự do tư tưởng
- Tự do và giới hạn
- Tự do và nô lệ
- Tư duy quan chức
- Tư liệu
- Tư pháp
- Tư pháp CS
- Tự sát ở đồn công an
- tự tôn dân tộc
- Tứ trụ phát ngôn
- Tử tù Đặng Văn Hién
- Tử tù Hồ Duy Hải
- Tự tử
- Tự ứng cử
- Tường biên giới
- Tượng đài
- Tương lai dân tộc
- Tướng lĩnh CS
- Tưởng niệm
- Úc
- Úc Châu
- Úc-Trung Quốc
- Ukraine
- Ủy ban Âu châu
- Ứng cử vào Hội đồng Bao an LHQ
- Vaccine Trung Quốc
- Vai trò cá nhân trong lịch sử
- Vai trò của Mỹ hậu Trump
- Vai trò trí thức trong thể chế
- Vãn hóa
- Vành đai và Con đường
- VASFCESR
- văn chương "cách mạng"
- Văn Giang
- văn hoá
- Văn hóa
- Văn hóa bạo lực
- Văn hóa công chức
- Văn hóa tên đường
- Văn học nghệ thuật bao cấp
- Văn học nghệ thuật Chủ nhật
- Văn học nghệ thuật XHCN
- Văn học thời đổi mới
- văn học Việt Nam
- Văn kiện Đảng
- văn minh sông Hồng
- Văn nghệ XHCN
- Văn Việt
- vân đồn
- Vận mệnh Đảng Cộng sản Việt Nam
- Vấn nạn giáo dục khó gỡ
- Vấn nạn TPHCM
- Vật lý học
- Vedan
- Venezuela
- vì dân
- Vị Xuyên
- viettel
- Viện Khổng Tử
- Viện NA
- Viếng tang
- Việt - Mỹ
- Việt - Trung
- Việt Kiều về xây dựng đất nước
- Việt Nam
- Việt Nam - Hoa Kỳ
- Việt Nam 2018
- Việt Nam 2019
- Việt Nam bắt cóc người tại Đức
- Việt Nam Cộng hòa
- Việt Nam là bãi rác của thế giới
- Việt Nam trên bàn cờ thế giới hiện tại
- Việt Nam trong ASEAN
- Việt Nam trong Liên Hợp Quốc
- Vinashin
- Vingroup
- virus nhân tạo
- Virus Trung Quốc
- Virus Trung Quốc và CS Việt Nam
- Virus Trung Quốc và người nghèo
- Virus Trung Quốc và Việt Nam
- Virus Vũ Hán
- Virus Vũ Hán và ĐCSTQ
- Virus Vũ Hán và Việt Nam
- VN cấm lãnh đạo tổ chức nhân quyền nhập cảnh
- Võ An Đôn
- Võ Nguyên Giáp
- Võ Tòng Xuân
- Võ Văn Kiệt
- vỡ nợ
- Vụ án Chất độc Da cam
- Vụ án Đồng Tâm
- Vụ án Hồ Duy Hải
- Vụ AVG
- Vũ Cao Đàm
- Vu cáo học thuật
- Vũ Đình Huỳnh
- Vũ Huy Hoàng
- vũ khí
- vũ khí hạt nhân
- Vu khống chữ nghĩa
- Vụ kiện Trung Quốc về Biển Đông của Philippines lên Tòa án quốc tế
- Vũ Ngọc Hoàng
- Vũ Ngọc Tiến
- Vũ Thư Hiên
- Vụ Trịnh Xuân Thanh
- Vũng Áng
- Vùng EEZ
- Vườn rau Lộc Hưng
- Vượt biên
- Vượt biên trái phép
- WHO
- Will Nguyễn
- World Bank
- World cup
- Xã Hội
- Xã hội công dân
- Xã hội cộng sản
- Xã hội dân chủ
- xã hội dân sự
- Xã hội dân sự đang lớn mạnh
- Xã hội Mỹ
- Xã hội tha hóa
- Xã hội Trung Quốc
- Xâm lược kinh tế
- Xâm lược mềm
- Xâm lược mềm của Tàu Cộng
- Xâm phạm quyền riêng tư
- xây dựng
- XHDS
- Xô viết
- Xu hướng thoát Trung
- Xuất khẩu
- Xuất khẩu chính ngạch sang TQ
- Xuất khẩu gạo
- Xuất khẩu lao động
- xung đột
- Ý dân
- Y đức
- Ý kiến
- Y tế
- Y tế Việt Nam
- Yêu cầu Tập Cận Bình từ chức
- yêu nước
- Yêu sách
- Yêu sách 8 điểm năm 2019
- Yêu Trump và ghét Trump
- ���Giáo Dục�
- ���Pháp Luật�
- ���Sử Liệu�
