Cố giữ lúa hay linh hoạt canh tác để nông dân có thu nhập nhiều hơn?

Trung Chánh 

“Chúng ta xuất khẩu nhiều là muốn làm giàu, thu ngoại tệ hay muốn thành tích để ghi nhận?”

(KTSG Online) – Sản lượng cao giúp Việt Nam đạt thành tích là một trong ba quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới nhiều năm qua, nhưng nông dân thường xuyên rơi vào cảnh thu nhập bấp bênh khi lúa rớt giá. Vậy có nên xem xét lại giữa sản xuất nhiều lúa và chuyển đổi một mức độ nào đó sang hướng khác mang lại nhiều lợi ích hơn hay không?

Năm 2025, Việt Nam dư 7,5 triệu tấn gạo phục vụ cho xuất khẩu. Ảnh: Trung Chánh

Lúa gạo là ngành hàng chịu rủi ro biến động giá cả trong tiêu thụ rất lớn, dù Việt Nam là một trong ba quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, thậm chí 70% nhu cầu nhập khẩu của Philippines là từ Việt Nam.

Năm 2025 dư 7,5 triệu tấn gạo cho xuất khẩu

Ông Ngô Hồng Phong, Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) trong báo cáo tình hình sản xuất lúa gạo Việt Nam, cho thấy giai đoạn từ năm 2020-2024, diện tích, sản lượng lúa gạo cả nước không có biến động lớn, tức được duy trì ổn định ở mức khá cao.

Theo đó, năm 2020, diện tích gieo sạ cả nước đạt 7,3 triệu héc ta, sản lượng lúa đạt 42,69 triệu tấn, đến năm 2024, diện tích gieo sạ đạt 7,1 triệu héc ta (giảm 200.000 héc ta so với năm 2020), nhưng sản lượng đạt 43,27 triệu tấn nhờ năng suất sản xuất tăng.

Từ kết quả sản xuất ấn tượng như nêu trên đã giúp Việt Nam “trụ vững” vị trí tốp ba quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới khi khối lượng xuất khẩu năm 2024 đạt 9,034 triệu tấn (theo số liệu báo cáo chính thức của Hiệp hội lương thực Việt Nam - VFA). Tuy nhiên, trong khối lượng gạo xuất khẩu năm ngoái còn có sự đóng góp từ lúa được nhập khẩu từ Campuchia.

Riêng năm 2025, kế hoạch diện tích gieo sạ cả nước đạt 7 triệu héc ta, tức giảm 100.000 héc ta so với năm 2024, nhưng năng suất dự kiến tăng, giúp sản lượng lúa cả năm dự kiến đạt 43,1 triệu tấn, giảm nhẹ khoảng 170.000 tấn so với 2024.

Theo đó, riêng khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), nơi chiếm 90% lượng gạo xuất khẩu hàng năm của cả nước, năm 2025 kế hoạch gieo sạ đạt 3,778 triệu héc ta, sản lượng lúa thu hoạch đạt 23,965 triệu tấn.

Theo ông Phong, sau khi trừ đi cho nhu cầu tiêu dùng nội địa (gồm 28 triệu dân ở ĐBSCL và khu vực TPHCM), làm giống và thức ăn chăn nuôi với sản lượng khoảng 8,9 triệu tấn, thì phần còn dư có khả năng đáp ứng cho nhu cầu xuất khẩu dự kiến trên 15 triệu tấn lúa, tương đương trên 7,5 triệu tấn quy gạo.

Con số nêu trên chưa bao gồm lượng lúa gạo nhập khẩu, trong đó, lớn nhất là từ thị trường Campuchia. Ông Đỗ Hà Nam, Phó chủ tịch Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA) cho biết, hai tháng đầu năm 2025 đã có khoảng 1,269 triệu tấn lúa gạo các loại nhập vào Việt Nam, trong đó có 1,142 triệu tấn lúa từ Campuchia. Trước đó, năm 2024 Việt Nam cũng nhập tổng cộng 4,518 triệu tấn lúa gạo.

Rõ ràng, sản lượng lúa gạo sản xuất quá lớn, như vụ đông xuân 2024-2025, riêng khu vực ĐBSCL có khoảng 10,3 triệu tấn lúa được cung ứng ra thị trường, tạo áp lực tiêu thụ rất lớn, khiến thị trường biến động mạnh. Điều này, làm lợi nhuận vụ lúa quan trọng nhất trong năm của người dân ở ĐBSCL chỉ khoảng 20-25 triệu đồng/héc ta như thực tế đang diễn ra.

Việc linh hoạt trong lựa chọn cây trồng khác ngoài lúa sẽ mang lại lợi ích cao hơn cho nông dân. Ảnh: Trung Chánh

Cần tính toán sản xuất lúa ở mức độ hợp lý hơn

Để giải quyết bài toán ngành gạo, tại một hội nghị mới đây ở thành phố Cần Thơ, ông Lê Thanh Tùng, Phó chủ tịch Hiệp hội ngành hàng lúa gạo Việt Nam (VIETRISA) cho biết, về lâu dài cũng như trước mắt trong vụ hè thu 2025, nông dân/hợp tác xã cần phải giảm giá thành sản xuất.

Theo ông, quy trình sản xuất mới nằm trong đề án 1 triệu héc ta của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) giúp nông dân tiết kiệm 30% lượng giống gieo sạ; 30% phân, thuốc bảo vệ thực vật sử dụng so với phương thức canh tác truyền thống. Việc giảm giống, phân, thuốc cộng với giữ vững hoặc tăng năng suất lên giúp nông dân tăng nguồn thu khoảng 5 triệu đồng/héc ta, đây là giải pháp tăng cường “sức chịu đựng” cho nông dân.

Ông Tùng kiến nghị, cần thực hiện ngay chương trình canh tác giảm chi phí với diện tích 1 triệu héc ta, thay vì 200.000 héc ta như mục tiêu của đề án 1 triệu héc ta nhằm ứng phó với giá lúa thấp.

Trao đổi với KTSG Online, ông Nguyễn Phương Lam, Giám đốc Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chi nhánh ĐBSCL (VCCI ĐBSCL) đặt vấn đề, đảm bảo mục tiêu an ninh lương thực quốc gia là điều phải thực hiện, nhưng có cần thiết sản xuất quá dư thừa hay không?

“Chúng ta xuất khẩu nhiều là muốn làm giàu, thu ngoại tệ hay muốn thành tích để ghi nhận?”, ông Lam đặt câu hỏi và cho rằng, ngành nông nghiệp phải có nhận định, đánh giá tổng thể để đưa ra một lựa chọn mang nhiều lợi ích hơn.

Một lý do khác cho thấy cần tính toán sản xuất lúa ở một mức độ hợp lý hơn, theo vị giám đốc VCCI ĐBSCL. Để có 7-8 triệu tấn gạo dư ra phục vụ cho xuất khẩu hàng năm là sự đánh đổi rất lớn, gồm đất đai bạc màu, ô nhiễm môi trường, trong khi nông dân vẫn nghèo khó. Sản xuất lúa gạo đầu tiên là đảm bảo an ninh lương thực cho quốc gia nhưng phải gắn liền với sự hưởng lợi của người dân, ông nhấn mạnh.

Theo ông Lam, trong khi Việt Nam theo đuổi thành tích bán nhiều gạo, thì Thái Lan đang dần từ bỏ vị trí “vua gạo”, chuyển sang lĩnh vực khác mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn.

Rõ ràng, khi Việt Nam dịch chuyển bớt một phần diện tích lúa sang các lĩnh vực khác, đồng nghĩa áp lực tiêu thụ cũng bớt đi, tức những rủi ro đang xảy ra trong ngành lúa gạo như hiện nay sẽ giảm.

Ông Lam gợi ý, Việt Nam đang có chiến lược phát triển 1 triệu héc ta lúa chất lượng cao, thì chỉ nên duy trì ở mức độ ổn định như vậy nhằm đáp ứng cho nhu cầu tiêu thụ trong nước và phần nhỏ cho xuất khẩu. “Diện tích còn lại có thể chuyển sang các loại khác đã chứng minh được hiệu quả cao hơn trong thực tế”, ông nhấn mạnh và cho rằng, không nên đặt nặng thành tích của một ngành, mà phải nhìn con số tổng thể mới biết được lợi ích nào lớn hơn.

Trao đổi với KTSG Online, khi so sánh với một mặt hàng, cụ thể là trái thanh long, ông Nguyễn Quốc Trịnh, Chủ tịch Hiệp hội thanh long tỉnh Long An nhấn mạnh, dù có thời điểm lên, xuống khác nhau, nhưng lợi nhuận loại trái cây này mang lại cho nông dân không dưới 200 triệu đồng/héc ta/năm, tức cao hơn khá nhiều so với cây lúa.

Theo ông, với giá bán 30.000 đồng/kg như thời điểm hiện tại, sau khi trừ chi phí sản xuất, mỗi công (1.000 m2), một vụ thu hoạch đã giúp nông dân đạt lợi nhuận 15-20 triệu đồng/công và mỗi năm thu hoạch được nhiều lần.

Dĩ nhiên, việc so sánh như nêu trên chỉ ở một mức độ tương đối, nhưng rõ ràng trên cùng một đơn vị diện tích sản xuất, vẫn có sự lựa chọn mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều so với cây lúa.

Như vậy, đã đến lúc cần có nghiên cứu, xem xét một cách tổng thể để vừa đảm bảo được an ninh lương thực quốc gia, nhưng cũng vừa góp phần thúc đẩy tăng trưởng cao hơn giá trị xuất khẩu mang lại khi nhìn trên tổng thể. Qua đó, giúp cuộc sống của người nông dân tốt hơn nhờ thu nhập tăng thêm trên cùng một điều kiện, diện tích đất sản xuất.

T.C.

Nguồn: Thesaigontimes.vn

 

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn