“Ai mua trăng, tôi bán trăng cho”

Nguyễn Văn Tuấn

Đến bây giờ tôi mới biết tác giả của câu thơ bất tử trên qua đời vì bệnh kiết lỵ, chứ không phải bệnh phong.

Nằm cách trung tâm Qui Nhơn (nay viết lại là "Quy Nhơn") chỉ vài cây số là nơi an nghỉ cuối cùng của thi sĩ Hàn Mặc Tử. Đi lên núi một chút là tới Trại Phong Quy Hòa, một địa điểm mang đậm dấu ấn lịch sử gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của người thi sĩ trứ danh, khó có người thứ hai như ông.

Tôi tới Trại Phong Quy Hoà lúc gần 6 giờ chiều và cảm nhận được một không gian thanh bình tuyệt vời. Trại này do linh mục người Pháp Paul André Maheu thành lập vào năm 1929, với tên gọi ban đầu là Laproserie de Quy Hoa. Lúc đầu là những ngôi nhà tranh vách đất dành cho bệnh nhân phong ở Bình Định. Với sự hỗ trợ từ các nữ tu Pháp, bệnh viện dần phát triển thành một "thiên đường hạ giới" với nhà thờ, tu viện, 200 ngôi nhà và không gian xanh mát ven biển.

Ngày nay, Trại Phong Quy Hòa đã được đổi tên thành Bệnh viện Phong – Da liễu Trung ương Quy Hòa.

Lần đầu tiên đặt chân tới đây, tôi ngỡ ngàng trước quy mô và vẻ đẹp của Trại. Với diện tích rộng khoảng 6 ha, nằm ngay bên bờ biển Qui Nhơn, nơi cảnh sắc thiên nhiên tuyệt đẹp hòa quyện giữa biển xanh, cát trắng và những hàng cây rợp bóng. Vị trí đắc địa bên bờ biển không chỉ mang lại không khí trong lành mà còn tạo nên một khung cảnh thơ mộng, khiến bất kỳ ai ghé thăm cũng không khỏi bị mê hoặc. Cảnh quan chỉ có thể mô tả là ... majestic.

Nhiều căn nhà được xây dựng từ những năm đầu thế kỷ 20 vẫn còn được bảo tồn khá nguyên vẹn. Những công trình này mang đậm dấu ấn kiến trúc thời bấy giờ. Ngoài ra, một điểm nhấn độc đáo là sáng kiến dựng các bức tượng danh y nổi tiếng của Việt Nam và thế giới. Những bức tượng này không chỉ tôn vinh những đóng góp to lớn của các y bác sĩ trong lịch sử mà còn góp phần biến Trại phong Quy Hòa thành một điểm đến du lịch văn hóa đầy ý nghĩa.

Điều đặc biệt là Trại này không chỉ là một cơ sở y tế mà còn là mái ấm của hàng trăm bệnh nhân phong cùng gia đình của họ. Ngày nay, vẫn còn nhiều bệnh nhân và gia đình của họ định cư ở đây trong những căn nhà rải rác trong khuôn viên Trại.

Trong những người từng tới đây thời xưa, thi sĩ Hàn Mặc Tử là một trường hợp đặc biệt. Ông đến đây để điều trị bệnh phong vào những năm cuối đời, và chính tại nơi đây, trong hoàn cảnh đau thương và cô đơn, Hàn Mặc Tử đã tìm nguồn cảm hứng để sáng tác những vần thơ bất hủ về khát khao sống và yêu thương, bất chấp bệnh tật. Những vần thơ đó đóng góp đáng kể vào nền văn học Việt Nam.

Vài dòng về bệnh phong

Bệnh phong, còn gọi là bệnh Hansen, do trực khuẩn Hansen gây ra. Bệnh này tấn công da và dây thần kinh, dẫn đến tổn thương, dị tật và mất cảm giác với nhiệt độ hay đau đớn. Dù không dễ lây lan như nhiều người lầm tưởng, nhưng vào những thập niên 1930-1940, khi chưa có thuốc chữa hiệu quả (phải đến năm 1940 mới có tiến bộ y khoa), bệnh phong bị coi là căn bệnh nan y truyền nhiễm nguy hiểm.

Sự thiếu hiểu biết khoa học thời đó đã dẫn đến những quan điểm sai lệch và kỳ thị nghiêm trọng trong xã hội Việt Nam. Người bệnh thường bị cô lập, hắt hủi, thậm chí bị đối xử tàn nhẫn như chôn sống, dìm nước hoặc đẩy vào rừng sâu. Gia đình họ cũng chịu áp lực từ cộng đồng và chánh quyền, buộc phải che giấu hoặc trốn tránh.

Hàn Mặc Tử cũng không phải là ca ngoại lệ. Dấu hiệu bệnh xuất hiện từ đầu năm 1935 (lúc 23 tuổi) với những đốm đỏ trên da. Thoạt đầu, ông nghĩ chỉ là phong ngứa thông thường mà thôi, nhưng đến năm 1936, khi bệnh lan rộng, gia đình phải đưa ông trốn tránh khắp nơi từ Bồng Sơn, Gò Bồi đến Qui Nhơn, thay vì đưa ngay vào bệnh viện. Điều này phản khoa học và làm tình trạng tồi tệ hơn, vì ông uống nhiều thuốc tạp nham từ lang băm, dẫn đến nội tạng hư hỏng.

Năm 1938-1939, ông chịu đau đớn dữ dội nhưng không than vãn, chỉ "gào thét" qua thơ ca. Theo người em ruột Nguyễn Bá Tín, da ông khô cứng, tay co quắp, khó cầm nắm.

Ngày 20/9/1940 (28 tuổi), Hàn Mặc Tử nhập Trại Phong Quy Hòa, với với số danh 1134. Rạng sáng ngày 11/11/1940 ông từ trần do chứng kiết lỵ kết hợp biến chứng từ thuốc chữa bệnh phong. Như vậy, tuy ông bị bệnh phong, nhưng chứng kiết lỵ cướp mạng ông.

Đám tang lặng lẽ chỉ với 4-5 người và cha xứ. Đồ đạc để lại chỉ một bộ bà ba trắng, áo veston cũ, đôi giày rách, sách và bài văn Pháp.

Sau khi ông qua đời, người ta mới biết ông là một nhà thơ nổi tiếng và phát hiện bài văn "La pureté de l’âme" (Sự trong sạch của tâm hồn) trong đồ đạc cá nhân.

Sau khi mất, Hàn Mặc Tử được an táng ngay tại Trại Phong Quy Hòa, với nhà tưởng niệm để tri ân.

Năm 1959, Thi sĩ Quách Tấn và bạn bè đã di dời mộ phần về Đồi Ghềnh Ráng, nơi mộ ông hướng ra vịnh biển hình vầng trăng khuyết, lưng tựa núi Xuân Vân. Khu mộ được xây dựng đơn giản nhưng trang nghiêm: hình chữ nhật ốp đá hoa, dưới chân là đá ong xếp chồng, trên có cây thánh giá và tượng Đức mẹ Maria dang tay che chở, biểu tượng cho niềm tin Công giáo của gia đình. Xung quanh là cây xanh mát, tạo không gian yên bình, thoáng đãng, nơi du khách có thể ngắm cảnh Ghềnh Ráng Tiên Sa. Trên bia mộ khắc tiểu sử, thơ nổi tiếng và tên những người góp công xây dựng.

Ngày nay, căn phòng ông từng nằm trong những ngày cuối đời trở thành nhà lưu niệm. Cái giường ông nằm vẫn còn được lưu giữ cẩn thận. Ngoài ra, các di bút và di ảnh của thi sĩ cũng được lưu giữ trong phòng.

Chính tại căn phòng này, giữa nỗi đau thể xác, Hàn Mặc Tử đã sáng tác những bài thơ hay và đặc sắc nhứt trong sự nghiệp, như tập "Thơ điên". Cảnh sắc thiên nhiên – biển sạch, rừng dừa, cây dương – và tình người nơi đây đã khơi dậy cảm hứng, giúp ông vượt qua mặc cảm. Như đề cập trên, các bệnh nhân ở đây không ai biết ông là một nhà thơ nổi tiếng và giỏi Pháp văn.

Một trong những di bút làm tôi xúc động là những câu văn nhắn gởi thân mẫu ông:

“A maman de Quy Nhon … viết mấy hàng chữ nầy để lạy từ tạ Mẹ.

Con bất hiếu

TRÍ”.

Về bút danh Hàn Mặc Tử và Hàn Mạc Tử

Hồi xưa, khi học văn học, tôi mặc định rằng bút danh của ông là Hàn Mặc Tử. Nhưng khi ghé qua đây, tôi mới biết ông còn có một bút danh khác là Hàn Mạc Tử. Hoá ra, các nhà nghiên cứu vẫn còn tranh cãi chung quanh hai bút danh này.

Hiện nay, trên mộ phần của ông, người ta đề tên là "Hàn Mạc Tử". Trong nhà lưu niệm thì có văn bản ghi là Hàn Mạc Tử, nhưng cũng có văn bản ghi là Hàn Mặc Tử.

Tại sao có sự khác biệt? 

Một bài viết trên Tạp chí Sông Hương cho biết [1]:

"… căn cứ vào bút hiệu HÀN MẠC TỬ đã ghi dưới TỰA tập Tinh huyết, dưới bài BẠT tập Một tấm lòng và dưới năm bài thơ Đường luật in trong tập Một tấm lòng (cả hai tập Tinh huyếtMột tấm lòng đều in năm 1939) thiết tưởng giả thiết của chúng tôi về bút hiệu của thi sĩ tác giả Gái quê, đã ký là HÀN MẠC TỬ (a, không phải ă) trong những năm sau cùng của đời thi sĩ (1939, 1940) không phải là vô căn cứ. Do sự lưu ý, biền biệt đó của chúng tôi, trong tiểu luận này, chúng tôi xin phép được gọi là HÀN MẠC TỬ – bút hiệu đã được thi sĩ dùng trong những năm cuối cùng đời thi sĩ".

Nhưng theo một tài liệu khác [2], thi sĩ chọn bút danh Hàn Mặc Tử từ năm 16 tuổi. Đến năm 1936, khi đảm nhiệm phụ trương báo Sài Gòn ở tuổi 24, ông đổi sang Hàn Mạc Tử, nhưng sau đó trở lại với Hàn Mặc Tử.

Bút danh Hàn Mạc Tử có nghĩa là "chàng trai đứng sau bức rèm lạnh lẽo, cô đơn". Sau gợi ý từ bạn bè, ông thêm hình ảnh Mặt trăng khuyết vào chữ "Mạc", biến thành chữ "Mặc", tượng trưng cho sự cô đơn trước thiên nhiên và vạn vật. Do đó, Hàn Mặc Tử được hiểu là "chàng trai bút nghiên".

Mặc dù cả hai cách viết Hàn Mặc Tử và Hàn Mạc Tử đều xuất hiện, các nhà nghiên cứu và tài liệu xác nhận bút danh chính xác là Hàn Mặc Tử, với chữ "Mặc" (墨) trong Hán tự nghĩa là mực, biểu thị cho cây bút và văn chương, phù hợp với hình ảnh một thi sĩ [2].

***

Tôi đã có một chuyến đi ngắn nhưng đầy cảm xúc. Tôi cũng học thêm vài điều về cuộc đời và cái chết của người thi sĩ lừng danh. Hay hơn nữa, tôi biết được hai bút danh thú vị của ông.

Nhiều khi tôi suy nghĩ lan man về những tài năng lớn nhưng yểu mệnh. Ở bên Anh có thi sĩ John Keats (1795-1821) qua đời vì bệnh lao phổi ở tuổi 25, nhưng ông để lại cho đời những bài thơ tình kinh điển như Ode to a Nightingale và Endymion.

Cũng như Hàn Mặc Tử, ông là người nhạy cảm và có khả năng biến đau khổ thành nghệ thuật.

Một người khác cũng có tài và yểu mệnh: Đặng Thế Phong (1918 - 1942). Ông là người gốc Nam Định, chỉ để lại cho đời 3 ca khúc: Đêm Thu, Con Thuyền Không BếnGiọt Mưa Thu. Bài nào cũng hay. Có một giai thoại nổi tiếng về nhạc sĩ Đặng Thế Phong. Chuyện kể rằng khi học dự thính tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương ở Hà Nội, trong một kỳ thi, Đặng Thế Phong vẽ bức tranh cảnh một thân cây cụt, không cành lá. Giáo sư người Pháp, được cho là họa sĩ Tardieu, chấm bài và khen bức tranh rất đẹp, nhưng dự báo rằng Đặng Thế Phong sẽ không sống lâu được! Chẳng biết dựa vào đâu mà ông dự đoán như vậy, nhưng quả thật Đặng Thế Phong qua đời ở tuổi 24 vì bệnh lao phổi.

Thời gian có khi là định mệnh. Nếu Đặng Thế Phong, John Keats và Hàn Mặc Tử sống vào thời này thì họ sẽ không qua đời ở tuổi trẻ như vậy. Với sự tiến bộ của y học, những bệnh như phong và lao phổi được chữa trị dễ dàng.

Nhiều khi tôi tự hỏi: Mối quan hệ giữa tài hoa và bạc mệnh có thật? Hàn Mặc Tử với căn bệnh phong, Đặng Thế Phong, John Keats đều là minh chứng cho hình ảnh những tài năng rực rỡ nhưng yểu mệnh.

Một giả thuyết cho rằng những căn bệnh quái ác hoặc hoàn cảnh khắc nghiệt có thể kích thích sự sáng tạo. Đau khổ, bệnh tật đẩy con người vào trạng thái nhạy cảm cao độ, nơi họ đối diện với cái chết, sự cô đơn, và những câu hỏi lớn về tồn tại. Hàn Mặc Tử, trong những ngày cuối đời tại trại phong, đã viết Thơ điên với những hình ảnh ma mị, siêu thực, như thể ông đang đối thoại với cõi hư vô.

Nói vậy thôi, chớ nhiều thiên tài như Leonardo da Vinci, Johann Sebastian Bach sống lâu và cống hiến bền bỉ. Bệnh tật hay cái chết sớm không phải điều kiện tiên quyết cho tài năng, mà có thể chỉ là một yếu tố tình cờ làm nổi bật sự mong manh của họ trong mắt hậu thế. Hàn Mặc Tử hay Đặng Thế Phong có thể đã tạo ra nhiều kiệt tác hơn nếu không bị bệnh tật cướp đi mạng sống quá sớm.

Dù sao thì Hàn Mặc Tử (hay Hàn Mạc Tử) không chỉ là một tài năng lớn, mà còn là biểu tượng của sự đấu tranh giữa ánh sáng nghệ thuật và bóng tối của số phận.

Nếu có dịp ghé qua Qui Nhơn, tôi khuyên các bạn nên ghé qua khu lưu niệm Hàn Mặc Tử một lần cho biết. Nhiều cảm xúc lắm.

Sau khi qua đời, ông được an táng tại Trại Phong Quy Hoà. Đến năm 1959, Quách Tấn và bạn cải táng mộ và di dời về đây (Ghềnh Ráng - Tiên Sơn). Năm 2008, nhờ sự giúp đỡ của ông Trần Bắc Hà, ngôi mộ được chỉnh trang lại như trong hình.

Đường lên mộ phần của Hàn Mặc Tử ở Ghềnh Ráng - Tiên Sa. 

___

[1] http://tapchisonghuong.com.vn/.../Ban-ve-but-hieu-Han-Mac...

[2] https://goldenlife.vn/han-mac-tu-va-quy-nhon

Căn phòng lưu niệm thi sĩ Hàn Mặc Tử tại Trại Phong Quy Hoà, nay là "Bệnh viện Phong – Da liễu Trung ương Quy Hòa".
Năm 1991, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh (Nhật Trường), tác giả bài hát Hàn Mặc Tử, đã cùng một số anh chị em nghệ sĩ, bảo trợ kinh phí để ban giám đốc Trại Phong Quy Hoà xây đài tưởng niệm Hàn Mặc Tử. Và nơi trút hơi thở cuối cùng, đã được biến thành Phòng Lưu Niệm, trong đó trưng bày một cái giường, tượng bán thân, những tác phẩm và các bài báo viết về Hàn Mặc Tử.
Trong nhà lưu niệm có lưu giữ vài hiện vật về thi sĩ Hàn Mặc Tử.

Hiện nay, trên mộ phần của ông, người ta đề tên là "Hàn Mạc Tử". Trong nhà lưu niệm thì có văn bản ghi là Hàn Mạc Tử, nhưng cũng có văn bản ghi là Hàn Mặc Tử.
Trong nhà lưu niệm có lưu giữ vài hiện vật về thi sĩ Hàn Mặc Tử.

Ngày 20/9/1940 (28 tuổi), Hàn Mặc Tử nhập Trại phong Quy Hòa, với với số danh 1134. Rạng sáng ngày 11/11/1940 ông từ trần do chứng kiết lị kết hợp biến chứng từ thuốc chữa bệnh phong.

Ngày 20/9/1940 (28 tuổi), Hàn Mặc Tử (tên thật là Nguyễn Trọng Trí) nhập Trại phong Quy Hòa, với với số danh 1134. Rạng sáng ngày 11/11/1940 ông từ trần do chứng kiết lị kết hợp biến chứng từ thuốc chữa bệnh phong.

Một trong những di bút làm tôi xúc động là những câu văn nhắn gởi thân mẫu ông: 
“A maman de Quy Nhon … viết mấy hàng chữ nầy để lạy từ tạ Mẹ. 
Con bất hiếu
TRÍ”.


Cái giường Hàn Mặc Tử từng nằm và qua đời ở đây (Trại Phong Quy Hoà).




Trời hỡi! Nhờ ai cho khỏi đói
Gió trăng có sẵn làm sao ăn
Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù duyên kiếp phụ phàng


Vài dòng tiểu sử Nhà thơ Hàn Mặc Tử

Chuyện bên lề:

Thi sĩ Hàn Mặc Tử, một cách tình cờ, gắn liền với chữ 'Bình'. Ông tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sanh ngày 22/9/1912 tại làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Ông lớn lên ở Qui Nhơn, thuộc tỉnh Bình Định. Ông làm cho báo Tân Bình. Ông có người yêu ở Bình Thuận và mất tại Bình Định. Một sự tình cờ thú vị.

Tài năng thơ ca của nở rộ từ năm ... 16 tuổi. Ở tuổi đó mà ông đã có những vần thơ đẹp và nổi tiếng. Sự nghiệp của Hàn Mặc Tử gắn liền với nhóm "Bàn thành tứ hữu", gồm các thi sĩ Quách Tấn, Yến Lan và Chế Lan Viên. Ông từng tiếp kiến chí sĩ Phan Bội Châu, chịu ảnh hưởng lớn từ vị chí sĩ này, và được giới thiệu bài thơ "Thức khuya" lên báo chí. Dù nhận học bổng du học Pháp nhưng ông từ chối. Năm mới 21 tuổi, ông vào Sài Gòn lập nghiệp, làm việc tại Sở Đạc Điền, chủ trương phụ trương báo Sài Gòn, và xuất bản tập "Gái quê" năm 1936.

Về cuộc đời cá nhân, Hàn Mặc Tử nổi tiếng với những mối tình dang dở. Những người tình của ông toàn có tên đẹp: Hoàng Cúc, Mai Đình, Mộng Cầm, Thương Thương, Ngọc Sương, Thanh Huy và Mỹ Thiện. Họ cũng là những nàng thơ đã khơi dậy cảm hứng sáng tác của ông.

Nguồn: FB Nguyễn Tuấn

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn