Nâng "vượt cấp" quan hệ với Mỹ thúc đẩy cải cách thể chế ở Việt Nam thế nào?

Phạm Quí Thọ 

Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden phát biểu tại Hà Nội ngày 11/9/2023

Ngày 10/9/2023, hai nhà lãnh đạo của hai chế độ chính trị khác biệt Việt Nam và Mỹ, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống Mỹ Joseph R. Biden Jr. đã gặp và hội đàm tại Hà Nội, Việt Nam. Họ đã ký “Tuyên bố chung về nâng cấp quan hệ Việt Nam - Mỹ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện (Tiếng Anh: Joint Leaders’ Statement: Elevating United States - Vietnam Relations To A Comprehensive Strategic Partnership)”.

 Có nhiều bình luận xoay quanh chủ đề này, nhấn mạnh “điều đặc biệt” rằng ông Trọng là người đứng đầu chế độ Đảng CS toàn trị và ông Biden là Tổng thống Mỹ đương nhiệm của chế độ dân chủ kiểu phương Tây. Điều đặc biệt này gây sự chú ý và sẽ vẫn cần giải mã. Một trong những mối quan tâm của giới nghiên cứu chính sách công là liệu việc nâng “vượt” cấp quan hệ Việt - Mỹ sẽ thúc đẩy cải cách thể chế ở Việt Nam thế nào?

Tích cực là một cách nhìn lạc quan nên được ủng hộ. Giả sử “cực đoan” rằng không có mối quan hệ này thì cải cách thể chế ở Việt Nam không dễ gì đảo ngược. Đường lối Đổi mới ở Việt Nam do Đảng CS độc tôn lãnh đạo, đã đề xướng và thực hiện, trong quá trình này có lúc thăng lúc trầm, phải điều chỉnh, dù nhanh chậm, tiến lùi nhưng vẫn trong xu hướng tích cực: tăng trưởng kinh tế, hội nhập với khu vực và thế giới, trong đó nhấn mạnh những vấn đề chung: tăng trưởng xanh, năng lượng sạch, chống biến đổi khí hậu… Và, cải cách thể chế được xác định trong các văn kiện chính thức của Đảng CS là một trong ba đột phá chiến lược phát triển đất nước.

Mặc dù Việt Nam còn nghèo, khó khăn về kinh tế… nhưng đã “dám” cam kết mạnh mẽ trong những vấn đề trên, tất nhiên, mong muốn được quốc tế ủng hộ, các nhà đầu tư quan tâm. Nghĩa là vấn đề tăng trưởng kinh tế luôn được ưu tiên đồng thời với duy trì chế độ khiến giới đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền “không hài lòng”. Hơn thế, ở Mỹ, ông Biden còn bị chỉ trích là đã “nhượng bộ” Hà Nội cho chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, kiềm toả sự trỗi dậy hung hăng của Trung Quốc và kinh tế. Có lẽ ông ấy không chia sẻ quan điểm của Việt Nam về nhân quyền như kinh tế trước nhân quyền sau hay kiểu “dân chủ xã hội chủ nghĩa”, nhân quyền theo pháp luật chủ quyền. Và, thực tế, trong cuộc hội đàm nêu trên ông Biden đã có đề cập về khía cạnh nhân quyền phổ quát (dù không nhiều), nhưng truyền thông Nhà nước Việt Nam đã “lược bỏ”. Vô tình, các nhà tuyên huấn của chế độ đã bộc lộ sự yếu kém trong ngoại giao và sự thiếu “tôn trọng” đối với người dân.

Sự khác biệt chế độ chính trị được lãnh đạo cả hai nước Việt Mỹ cam kết tôn trọng lẫn nhau nhưng trong thực tế quan hệ sự ảnh hưởng qua lại là không tránh khỏi. Và, việc nâng “vượt” cấp quan hệ Việt Mỹ sẽ thúc đẩy cải cách thể chế ở Việt Nam, trước hết theo hướng thị trường và, về lâu dài, theo hướng dân chủ hoá đất nước. Một số luận cứ cho nhận xét này là:

Một, mặc dù khác biệt về thể chế dân chủ phương Tây, chế độ Đảng CS toàn trị ở Việt Nam sau hơn 30 thực hiện đường lối Đổi mới, đã phải dựa vào tăng trưởng kinh tế nhờ thị trường để đảm bảo tính chính danh của nó. Cần tiếp tục hoàn thiện kinh tế thị trường để phát triển, trong đó cải cách thể chế kinh tế còn nhiều khó khăn ở phía trước, nhưng không thể đảo ngược xu hướng. Và, nếu quay lại, thì có thể sẽ là mô hình Kim Jong Un, cô lập với thế giới. Phía Việt Nam đề nghị Mỹ công nhận nền kinh tế thị trường nhưng rõ ràng còn nhiều việc cần cải cách theo các nguyên tắc thị trường.

Hai, việc nâng vượt cấp quan hệ với Mỹ lên “hết cỡ” sẽ mở ra cơ hội tăng cường buôn bán và đầu tư song phương, chẳng hạn Hàng không Việt Nam sẽ mua máy bay của hãng Boing với tổng trị giá gần 8 tỷ đô la, Apple, Intel… mở một số cơ sở ở Việt Nam…, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều sâu chất lượng và hiệu quả, như các ngành kỹ thuật số, chất bán dẫn, năng lượng sạch, đón dịch chuyển vốn tư bản từ Trung Quốc… Từ đó, từng bước có thể thay đổi mô hình kinh tế hiện thời, dựa chủ yếu vào hai trụ cột là bất động sản (lợi dụng về sở hữu công đất đai) và đầu tư nước ngoài (chủ yếu là gia công, lắp ráp) đang trong cơn khủng hoảng. Thời kỳ hoàng kim của mô hình Trung Quốc đang trong hồi kết đang hàm ý về sự thay đổi “đột phá” chính sách cải cách thể chế ở Việt Nam, liệu có cần thiết cuộc “Đổi mới” lần 2 và như thế nào?!

Ba, để hiện thực hoá hai điểm trên, thể chế kinh tế cần được thiết lập tương ứng. Sự biện minh rằng thị trường là sản phẩm chung của nhân loại, không thuộc về chủ nghĩa tư bản, đang là rào cản từ ý thức hệ xã hội chủ nghĩa. Các nguyên tắc chủ yếu để thị trường vận hành như sở hữu tư nhân, tự do kinh doanh, động cơ lợi nhuận, tự do cạnh tranh bình đẳng và chủ quyền của người tiêu dùng không được xác lập chắc chắn, minh bạch và khả thi. Các điều luật có liên quan hoặc có “tuổi thọ ngắn, hay phải sửa đổi, tính khả thi thấp” hoặc “bế tắc” trong thể chế hoá chẳng hạn Luật Đất đai sửa đổi 2023 mâu thuẫn giữa “s hữu toàn dân, nhà nước quản lý” và thị trường…

Bốn, sự tách rời thể chế kinh tế và thể chế chính trị là không thể về lý luận và thực tiễn. Một trong hậu quả nặng nề là sự tha hoá quyền lực công mang tính hệ thống, mà biểu hiện rõ ràng trong nghịch lý tăng trưởng tương đối cao đồng thời với vấn nạn tham nhũng tràn lan, nghiêm trọng. Quốc nạn tham nhũng đã huỷ hoại niềm tin về sự trong sạch của Đảng CS, đòi hỏi công khai minh bạch về nguồn gốc tài sản quan chức nói riêng và tăng cường dân chủ hoá nói chung, thức tỉnh đòi hỏi về quyền con người được hiến định… Thử hỏi nghịch lý trên sẽ có thể kéo dài bao lâu? Liệu có thể phòng chống tham nhũng nếu thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả, bền vững? Dân chủ hoá đất nước liệu có là giải pháp và như thế nào? Cải cách là không thể đảo ngược nhưng có liệu hướng đến chế độ dân chủ với nền tảng kinh tế thị trường hay sẽ là mô hình gì?

Việc nâng vượt cấp quan hệ với Mỹ sẽ thúc đẩy cải cách thể chế, nhưng quả bóng đang ở phần sân Việt Nam, giới lãnh đạo và người dân. Sau sự kết thúc “vội vã” sự ủng hộ chính quyền Ashraf Ghani ở Afganistan năm 2021, nước Mỹ dường như “mệt mỏi” với việc “xuất khẩu” mô hình dân chủ kiểu phương Tây, và chiến lược quan hệ quốc tế đang thay đổi để thích ứng với trật tự thế giới mới đang định hình. Tuy nhiên, cuộc cạnh tranh thể chế, trong đó có cả cạnh tranh về ý thức hệ giữa Mỹ  và Trung Quốc, vẫn căng thẳng. Và, việc nâng vượt cấp quan hệ với Mỹ, theo góc nhìn của Tập Cận Bình, liệu có là “sự tự diễn biến, tự chuyển hoá” của giới lãnh đạo Việt Nam?

Dẫu biết rằng không dễ gì để thoát khỏi chế độ Đảng CS toàn trị, khi giới lãnh đạo phải là một phần “cơ hữu” của tháp quyền lực tập trung, nghĩa là chế độ “còn đảng còn mình” được duy trì bởi gieo rắc nỗi sợ hãi và tuyên truyền một chiều, sai lệch về chủ nghĩa xã hội, biện minh cho những sai lầm. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay việc phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, sự đảm bảo tính chính danh cho chế độ, đang cần sự đột phá cải cách. Vì vậy, việc nâng “vượt” cấp quan hệ với Mỹ lên đối tác chiến lược toàn diện nên chăng được coi như sự thay đổi “khôn khéo”, một cú huých cho cải cách thể chế?

P.Q.T.

---

Ông Phạm Quý Thọ: PGS. TS, nguyên Trưởng Khoa Chính sách Công, Học Viện Chính sách và Phát triển, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Việt Nam

Nguồn: RFA Tiếng Việt

 

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn