Vị Tuyên úy ở Khe Sanh

Phan Thúy Hà 

Trong cuốn Những ngày tháng năm các bạn còn nhớ nhân vật Ray Stubbe không. Ông chỉ có mấy dòng trong bài Một gia đình ở Khe Sanh. Mình mới viết thêm bài này về Ray Stubbe.

Trong bảo tàng Chiến thắng Khe Sanh có một bức ảnh: Một người trong quân phục thủy quân lục chiến, khoác áo chống mảnh pháo, hai tay nâng cuốn Kinh Thánh, cây thánh giá dựng trên bao cát, và bốn người lính quỳ gối trên bao cát, cúi đầu, phía sau là ngọn núi mờ ảo trong mây.

Đó là Tuyên úy Ray Stubbe đang cử hành lễ tại Khe Sanh.

Lần đầu tiên nhìn thấy bức ảnh tôi rất ngạc nhiên. Giữa trận địa sao có một nghi lễ như ở nhà thờ. Sao có thể bình yên như thế được. Không ai đội mũ sắt. Một khoảnh khắc thiêng liêng và cũng quá đỗi mong manh.

Hai từ “tuyên úy” với tôi khi đó cũng thật lạ. Trong ngôn ngữ chiến tranh từ trước nay tôi chưa từng nghe.

Tuyên úy là chức vụ tôn giáo dành cho linh mục, mục sư, sư, tăng… được cử vào phục vụ trong quân đội với nhiệm vụ chăm sóc đời sống tôn giáo, tâm linh cho binh lính. Làm lễ, cầu nguyện, lắng nghe những lời thú nhận. Tuyên úy không cầm súng, không tham gia chiến đấu.

Trong chiến tranh Việt Nam, Quân lực Việt Nam Cộng hòa và quân lực Hoa Kỳ đều có tuyên úy.

Trước khi đến Khe Sanh, Ray Stubbe đã tốt nghiệp đại học - ngành triết học, tiếp tục học ba năm ở Chủng viện thần học Lutheran, được thụ phong mục sư Lutheran, tham gia thành lập một nhà thờ nhỏ và bắt đầu theo học năm đầu tiên tại một trường thần học hàng đầu cả nước ở Chicago để làm tiến sĩ về đạo đức và xã hội.

Ray Stubbe đến Khe Sanh vì biết ở đó có những con người đang phải sống trong cảnh khốc liệt. Và ông đã có mặt trong suốt thời gian căn cứ Khe Sanh bị bao vây, ở nơi mà những người lính thủy quân lục chiến đã sống sáu tuần đến hai tháng liền không được tắm rửa, quần áo rách nát, ướt, thối rữa ngay trên người, lúc nào cũng có nỗi sợ bị tấn công, thần kinh họ kéo căng đến giới hạn cuối cùng.

Ở đó Ray Stubbe trở thành chỗ dựa tinh thần với hàng ngàn người lính.

Một người lính có khuôn mặt trông như mới 13, 14 tuổi, tìm đến Ray Stubbe, cho biết anh là con của một mục sư, chưa từng đi săn, chưa từng thể thao, chưa từng đánh nhau, thần tượng của anh là Albert Schweizer. Lúc ở trại tân binh, chưa ra chiến trường, anh đã nói với người tuyển mộ tất cả điều đó và họ nói rằng anh sẽ được làm lính huấn luyện chó, không phải ra chiến đấu. Khi biết mình bị đưa vào lính bộ binh, anh đã báo với mọi người trên đường đi rằng mình bị lừa, họ phớt lờ, bảo anh chờ đến đơn vị tiếp theo, và anh bị đẩy đến Khe Sanh. Anh nói, anh không quan tâm chuyện gì sẽ xảy ra với mình, anh chỉ không muốn làm hại ai.

Ray Stubbe ủng hộ những người lính phản đối chiến tranh vì lý do lương tâm. Bộ quốc phòng giao cho ông trách nhiệm xác định một người lính phản đối chiến tranh có lý do chính đáng hay không. Trong khi chờ đợi giải quyết hồ sơ thì anh lính vẫn phải về đơn vị. Rồi căn cứ bị tấn công, anh bị những người lính khác đánh vì không chịu cầm súng lau chùi.

Trong căng thẳng, những người lính phải dựa vào nhau. Anh không muốn làm hại ai nhưng việc anh không tham chiến đấu đang làm hại đơn vị. Ray Stubbe đưa ra giải pháp điều anh sang làm nhiệm vụ cáng thương binh. Anh trở thành lính cáng thương.

Sau trận đánh, một người lính tới gặp Ray Stubbe, anh ta khóc, giọng nói run rẩy, rằng anh đã bắn vào người lính bên kia, gần đến nỗi nhìn thấy mắt của người đó. Stubbe không phán xét, không bao biện, điều ông nhìn thấy là sự sống sót của lương tri. Ông nói với người lính: Con vẫn còn biết khóc, đó là dấu Chúa chưa rời con.

Một thương binh nặng nằm trên cáng xin Ray Stubbe đọc cùng anh Thi thiên 91. Ray Stubbe nắm tay anh lính và đọc, “Ngàn người gục ngã bên trái, muôn người ngã bên phải… Bạn sẽ không sợ, ta ở cùng bạn”.

Stubbe cố gắng ở gần những người lính nhiều nhất có thể, ông không ngồi một chỗ chờ khi người lính tìm đến mà đi tới từng hầm trú ẩn, từng hào công sự.

Sáng chủ nhật, ngày 21/1/1968, khi đang soạn bài giảng, thì Khe Sanh nổ tung trong biển đạn pháo. Biết rằng không được chạy trong lúc pháo cối tập kích nhưng Stubbe vẫn khom người chạy ra giao thông hào, mang theo cây thánh giá bằng đồng và một chai rượu cùng vài cuốn thánh ca nhỏ. Kho đạn đang bốc khói, hơi cay ngạt cả khu căn cứ, kho nhiên liêu đang cháy ngùn ngụt. Stubbe đi loanh quanh căn cứ, sững sờ, biết là không thể tổ chức lễ, ông tham gia đào bới cứu người. Đó là ngày đầu tiên của trận vây hãm.

Mỗi ngày Stubbe tổ chức khoảng hai mươi lễ cầu nguyện. Mỗi lễ diễn ra trong chừng mười phút. Khi tình hình quá tệ, chỉ làm một lời cầu nguyện, không có lễ thánh thể hay đọc kinh thánh. Đôi khi không thể làm lễ được, ông chỉ kịp đến ngồi bên họ.

Bức ảnh cầu nguyện nói trên chụp vào ngày 28/1, khi căn cứ Khe Sanh bị vây hãm đến ngày thứ bảy. Hôm ấy, khi chụp hình Stubbe đang sốt 39-40 độ, người gầy rộc, từ 80 kg còn 54 kg. Một tuần qua, mỗi ngày mỗi người chỉ có một khẩu phần ăn thay vì ba khẩu phần ăn như trước và một bi đông nước. Stubbe kiệt sức nhưng vẫn cố gắng tổ chức các buổi lễ nhỏ. Ngày hôm sau Stubbe gục hẳn, được cáng ra khỏi Khe Sanh, đưa xuống Quảng Trị, rồi Đà Nẵng. Xét nghiệm thấy máu trong nước tiểu. Lời khuyên của bác sĩ là ông không nên trở lại Khe Sanh. Stubbe nói, tôi là tuyên úy Tin Lành duy nhất trong căn cứ, tôi phải quay lại đó.

Khoảng 5600 thủy quân lục chiến Mỹ và 400 binh lính Việt Nam Công hòa bị bao vây bởi 40.000 quân Bắc Việt. Mỗi ngày hứng từ 200-400 quả pháo rối, rocket. Có ngày 1.300 quả đạn pháo. Lượng bom trút xuống Khe Sanh trong trận vây hãm nhiều hơn số bom thả xuống mặt trận Thái Bình Dương năm 1942-1943.

Ngày trôi nhanh và đêm thì quá dài, một người lính đã kịp viết dòng thư về cho gia đình trước khi bị tử thương. Không ai biết lúc nào mình sẽ chết. Stubbe cũng không biết. Đang cử hành lễ, pháo nổ cách vài mét, đất cát trùm lên, tối sầm lại.

Chúa ở đâu trong tất cả những chuyện này? Một người lính hỏi Ray Stubbe.

Chúa ở đây, ngài đang khóc cùng chúng ta.

Chúa toàn năng sao ngài để xảy ra chiến tranh?

Chiến tranh do con người gây ra, chúa không can thiệp được, chúa không điều khiển được đường đạn bay.

Vậy cầu nguyện có ích gì?

Cầu nguyện không thay đổi được hiện thực. Ray Stubbe không cầu cho đạn pháo ngừng rơi, cũng không cầu nguyện cho chúng con chiến thắng bởi vì chúa không thuộc về phe nào, ông cầu nguyện cho họ lòng can đảm để sống.

Đức tin không phải là tin rằng bạn an toàn, mà tin rằng cuộc sống vẫn có ý nghĩa khi chẳng có gì an toàn nữa.

Đó không phải là đức tin của một người truyền đạo mà là đức tin của một người biết sợ nhưng vẫn cần tin vào điều gì đó tốt đẹp hơn.

Ray Stubbe làm cho những người lính cảm nhận được rằng chúa không phải ở trên cao nhìn xuống, mà chúa đang trong căn hầm cùng họ, chia sẻ sợ hãi và nước mắt cùng họ.

Những cựu chiến Khe Sanh kể lại: “Mục sư Ray Stubbe khiến chúa trở nên có thật giữa cái hầm trú ẩn đó, không phải như quyền năng mà như lòng thương”; “Khi tôi sợ đến mức tê liệt, Ray ngồi đó, sự im lặng của ông có ý nghĩa hơn mọi lời nói”.

Hội Cựu binh Khe Sanh có hơn 3000 người, trong đó hai chục người là linh mục, mục sư. Họ nói với Ray Stubbe rằng, ở giữa trận mạc, giữa cái chết, nhìn thấy đồng đội ngã xuống, và họ biết rằng chúa ở đó với họ và đó là lý do sau này họ trở thành tu sĩ hay linh mục.

Trở về từ Khe Sanh, Stubbe viết thư cho một người bạn: Nếu có điều gì tôi học được từ Khe Sanh, thì đó là, mọi mạng sống đều thiêng liêng, cả những người mà ta gọi là kẻ thù. Tôi không thể nói về chiến tranh mà không đồng thời nói về sự sám hối.

***

Đọc hơn 100 trang Ray Sutbbe trả lời phỏng vấn về thời gian làm tuyên úy ở Khe Sanh, tôi thấy ông giống như là một người bạn của những người lính hơn là một tuyên úy. Ông nhớ tên từng người lính, hiểu từng lời họ nói ra, đồng cảm với nỗi ám ảnh đạo đức trong họ, giải đáp những câu hỏi mà có lẽ ngoài ông ra không ai khác làm được.

Nghe vị tuyên úy chia sẻ, một người ngoại đạo như tôi hiểu được rằng, chúa là tên gọi phần tốt đẹp nhất trong chính mình.

Tôi từng thấy bức ảnh một người lính quỳ trong ngôi nhà thờ La Vang bị bom đánh sập. Khi ấy tôi thoáng nghĩ, không biết anh ta cầu điều gì. Một người giữa chiến tranh thì hẳn nhiên là cầu được che chở, được bình yên, được sống. Trong thế giới tôi lớn lên không có nghi lễ cầu nguyện. Hình ảnh đó tôi chỉ thấy từ xa, trong phim và giờ là trong bức ảnh. Giờ đây, nghe Stubbe nói, tôi hiểu, cúi đầu trước thánh giá không hẳn là cầu xin mà là một cách để giữ linh hồn.

Tôi cảm thấy như đang ngồi bên cạnh Ray Stubbe. Nếu tôi kể cho ông nghe về cha tôi, một người lính Bắc Việt không có tuyên úy, một người lính yếu đuối và nội tâm, một người không biết tới cầu nguyện, chưa khi nào nghĩ tới những từ như là “cứu rỗi”, “đức tin”, thì Ray Stubbe sẽ nói gì. Ông chỉ lắng nghe. Tôi đã hiểu mà không cần ông phải nói gì thêm.

Tôi muốn kể cho Ray Stubbe về cha tôi, về những người lính ở bên kia ngọn đồi, cũng hoảng loạn. Không có một nghi thức nào để họ được nói ra, không có ai để họ được nói ra mà không lo bị phê bình tư tưởng.

Stubbe trở về Mỹ, hai lần đến bệnh viện chữa trầm cảm, nằm viện bảy tháng, vì những ám ảnh ở Khe Sanh. Ông tự chữa lành bằng cách viết lại. Ông có thể viết ra mọi ý nghĩ.

“Chỉ hơn một tháng sau có lệnh rút khỏi căn cứ. Toàn bộ công sự bị phá hủy, vũ khí hạng nặng được mang đi hoặc phá hỏng. Điều đó gây sốc cho chúng tôi. Chúng tôi đã chịu đựng 77 ngày, rồi chỉ tháng sau lại bỏ đi. Những máu những xương của đồng đội, những nấm mồ, tất cả bị bỏ lại. Chúng tôi cảm thấy hy sinh của đồng đội trở nên vô nghĩa. Với tôi, Khe Sanh là biểu tượng của kiên cường và cũng là biểu tượng của bi kịch chiến tranh. Cho thấy con người có thể chịu đựng đến mức nào, và cũng cho thấy sự mong manh của mọi toan tính chính trị. Lính thì chiến đấu, hy sinh còn quyết định cuối cùng lại ở nơi xa xôi. Hãy nhớ rằng, mỗi con số thương vong đều là một con người có gia đình, có ước mơ. Đừng bao giờ để sự hy sinh của họ bị biến thành trò mặc cả chính trị.

Trực thăng cất cánh, nhìn xuống căn cứ hoang tàn, chỉ thấy hố bom và đất đỏ, lòng tôi quặn thắt”.

Những dòng u uất vậy không có trong lời kể của người lính như cha tôi.

Trang nhật ký của bác Nguyễn Khương Hoạt nhiều dòng phải viết bằng từ lóng để lỡ ai đọc được người ta không biết mình khổ tâm. Bài thơ dượng Hiền viết về tang thương mất mát bị chính trị viên đưa ra đốt. Chỉ vì một câu hỏi, ta đói ta chết thế này ở ngoài kia họ có biết không, mà bác Ánh bị chính trị viên trừng mắt ghi vào sổ báo lên trên.

Không được nói ra nỗi sợ hãi, hèn nhát, yếu đuối, phân vân. Ngôn ngữ đó bị tước đoạt. Cha tôi, như bao người, đã ở đó, sống, trở về, tiếp tục im lặng, và mất đi khả năng nói về chính mình.

Giờ đây, cha tôi đã mất, một người lính giải ngũ về nhà cày ruộng, lao lực, rồi đổ bệnh. Cha mất khi còn quá nhiều điều về cuộc chiến chưa có cơ hội được biết. Ray Stubbe cũng không còn nữa. Những người lính quỳ dưới bao cát trước cây thánh giá trên tiền đồn năm xưa không còn mấy ai.

Tôi không thể nối lại những điều dang dở. Cho người cha im lặng, cho Ray Stubbe trọn đời day dứt, cho vị tuyên úy của quân lực Viêt Nam Cộng hòa phải vào trại tù cải tạo. Bởi tất cả đã bị chôn vùi.

Viết về vị tuyên úy ở Khe Sanh, tôi muốn kể ra nỗi buồn của tôi. Một người con đi tìm ngôn ngữ cho cha mình.

P.T.H.

Nguồn: FB Phan Thúy Hà

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn