Tiêu chuẩn quốc gia cho tín chỉ carbon rừng: Giải pháp giảm chi phí cho thị trường Việt Nam?

Mỹ Hạnh

08/11/2025 

Hiện nay, các chương trình chuyển nhượng, trao đổi tín chỉ carbon trong lâm nghiệp ở Việt Nam đều tuân theo các quy định về đo đạc, báo cáo, thẩm định của các tổ chức quốc tế và tiêu chuẩn carbon quốc tế, dẫn đến chi phí cao và khó khăn trong thẩm định.

Do đó, tiêu chuẩn quốc gia cho tín chỉ carbon rừng, đang trong quá trình lấy ý kiến dự thảo, được kỳ vọng sẽ giúp giảm chi phí xây dựng, thẩm định, đăng ký,... dự án và dễ tiếp cận hơn cho các đơn vị trong nước.

Ảnh: Shutterstock

Tiêu chuẩn quốc gia đầu tiên

Trên thế giới, thương mại carbon tại thị trường carbon tự nguyện đang áp dụng các tiêu chuẩn carbon khác nhau, như tiêu chuẩn carbon được xác minh (VCS), tiêu chuẩn tối ưu môi trường (REDD+ Environmental Excellence Standard – 10 TREES), tiêu chuẩn vàng (Gold standard), tiêu chuẩn khí hậu, cộng đồng và đa dạng sinh học (CCB)...

Mỗi tiêu chuẩn carbon quốc tế tự nguyện có một quy định riêng biệt, nhưng phần thông tin chung thường bao gồm: Quy định các hoạt động, biện pháp giảm nhẹ; Phạm vi không gian, thời gian thực hiện; Giai đoạn tham chiếu, giai đoạn cấp tín chỉ; Bể carbon, khí nhà kính; Phương pháp đo đạc, tính toán, báo cáo, thẩm định; Rủi ro về việc quản lý, dịch chuyển, đảo nghịch phát thải; Yêu cầu về tính bổ sung của lượng giảm phát thải hoặc lượng tăng hấp thụ so với giai đoạn tham chiếu; Yêu cầu về đánh giá độ không chắc chắn; Yêu cầu tuân thủ các nguyên tắc đảm bảo an toàn môi trường và xã hội. Bên cạnh đó, quá trình triển khai dự án còn cần một tổ chức khác thẩm định, độc lập với tổ chức tiêu chuẩn carbon nói trên. Và tổ chức tiêu chuẩn carbon cũng chỉ xác nhận và cho phép giao dịch tín chỉ carbon một khi công nhận báo cáo của tổ chức thẩm định này.

Những điều kiện ngặt nghèo như vậy không có gì quá khó hiểu bởi tín chỉ carbon biểu thị cho quyền phát thải một tấn khí CO2 hoặc một tấn khí CO2 tương đương và có thể giao dịch thương mại, cho nên phải có cơ sở để xác tín kết quả giảm phát thải từ một dự án carbon rừng. Kết quả giảm phát thải được thể hiện ở báo cáo, trong đó có mô tả phương pháp để tính toán số lượng carbon hấp thụ, lượng rò rỉ và lượng bị giải phóng trở lại môi trường nếu có. “Khi phương pháp ấy được công nhận thì kết quả giảm phát thải trong báo cáo mới có tính trung thực, khách quan và tương đối chính xác, và từ đó mới có thể trở nên đáng tin cậy hơn. Các tiêu chuẩn carbon ra đời và tồn tại vì nhu cầu này”, TS. Trương Văn Vinh - Phó trưởng Khoa Lâm nghiệp (trường Đại học Nông Lâm, TP.HCM) và TS. Trịnh Thục Hiền - Phó Viện trưởng Viện Pháp luật Quốc tế và So sánh (trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG-HCM) cho biết trong một bài viết trên Tia Sáng.

Do đến nay Việt Nam chưa có tiêu chuẩn carbon cho thực hiện Đóng góp quốc gia tự quyết định (NDC) và thương mại carbon đối với lĩnh vực lâm nghiệp và sử dụng đất, theo bà Nghiêm Phương Thúy - chuyên viên thuộc Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), các dự án về carbon rừng hiện nay như chương trình của Ngân hàng Thế giới ở Bắc Trung Bộ hay chương trình LEAF ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên đều đang sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế như FCPF và TREES. Song, việc xây dựng dự án và các tài liệu theo tiêu chuẩn quốc tế như vậy đã gây ra không ít khó khăn cho các đơn vị tại Việt Nam. “Nhiều tiêu chuẩn quốc tế đặt ra yêu cầu rất khắt khe về điều kiện hoạt động và các biện pháp giảm nhẹ phát thải khí nhà kính. Chẳng hạn, theo tiêu chuẩn TREES, rừng được công nhận tín chỉ phải được trồng trên diện tích đất trống trong ít nhất 5 năm trước đó”, bà Nghiêm Phương Thúy cho biết. Trong thực tế, rất khó tìm được diện tích đất trống đủ điều kiện như vậy ở nhiều khu vực hiện nay. Chính vì vậy, hai chương trình do Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì đến nay chưa được cấp tín chỉ từ rừng trồng. “Nguyên nhân không phải vì rừng trồng không được cấp tín chỉ, mà do chưa đáp ứng được các tiêu chí cụ thể của tiêu chuẩn quốc tế”, bà Nghiêm Phương Thúy cho biết tại cuộc họp kỹ thuật vào cuối tháng 10.

Bên cạnh đó, các tiêu chuẩn quốc tế yêu cầu tuân thủ nghiêm ngặt các biện pháp bảo đảm an toàn môi trường và xã hội, trong đó bao gồm quy trình tham vấn cộng đồng, thiết lập cơ chế khiếu nại - hòa giải, và dự phòng rủi ro đảo nghịch. Song, những yêu cầu này cũng khiến quá trình xây dựng dự án mất nhiều thời gian và chi phí hơn, đồng thời kéo dài thời gian đăng ký để được cấp tín chỉ. Chưa kể đến, chi phí cho việc xây dựng, đăng ký và thẩm định dự án rất lớn. Phần lớn các dự án phải thuê chuyên gia tư vấn, trong đó có những dự án cần thuê chuyên gia quốc tế. “Hiện nay, Việt Nam chưa có tổ chức nào được các tiêu chuẩn carbon quốc tế công nhận là đơn vị thẩm định, nên toàn bộ việc thẩm định độc lập đều phải do các tổ chức quốc tế thực hiện. Điều này dẫn đến chi phí cao và thời gian kéo dài, gây khó khăn cho quá trình phát triển dự án carbon trong nước”, bà Nghiêm Phương Thúy cho biết.

Trong khi đó, hiện nay, cơ chế trao đổi bù trừ tín chỉ carbon trong nước được Nghị định 119/2024/NĐ-CP của Chính phủ quy định rõ với ba phương pháp triển khai dự án là: phương pháp được Công ước khung của Liên Hợp Quốc công nhận, áp dụng cho các dự án theo Điều 6.4 của Thỏa thuận Paris; phương pháp do tổ chức, cá nhân xây dựng và trình các bộ quản lý lĩnh vực công nhận; và phương pháp thứ ba do các bộ quản lý lĩnh vực xây dựng, công nhận và công bố trên hệ thống đăng ký quốc gia và trang thông tin điện tử quản lý lĩnh vực. Tuy nhiên, cả hai phương pháp đầu đều đang trong quá trình xem xét hoặc chưa có hiệu lực nên chưa thể áp dụng, do đó phương pháp thứ ba là phương pháp hiện hành được triển khai trong giai đoạn hiện nay. Và do tín chỉ carbon là một sản phẩm hàng hóa đặc biệt, phải được chứng nhận bởi bên thứ ba độc lập nên để tổ chức thẩm định này có cơ sở chứng nhận, phương pháp phải được chuẩn hóa thành tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN).

Bởi vậy, từ năm 2024, Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm đã chủ trì, đề xuất Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng tiêu chuẩn quốc gia về tín chỉ carbon rừng, với sự hỗ trợ từ USAID và UNDP, dự kiến sẽ công bố vào năm 2026. Bản dự thảo, mới được đăng tải để lấy ý kiến, cho thấy các loại dự án có thể tạo tín chỉ, bao gồm: giảm phát thải từ mất rừng và suy thoái rừng (REDD+), trồng rừng mới (A/R), cải thiện quản lý rừng tự nhiên (IFM-N), nâng cao năng suất rừng trồng (IFM-P) và mô hình nông - lâm kết hợp (AFP). “Đây là bộ tiêu chuẩn quốc gia đầu tiên tại Việt Nam quy định cụ thể các yêu cầu liên quan đến tín chỉ các bon rừng, tạo hành lang kỹ thuật và pháp lý cho việc phát triển thị trường carbon rừng trong nước, đồng thời hỗ trợ Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính (NDC, Thỏa thuận Paris)”, theo bản thuyết minh của Văn phòng Chứng chỉ quản lý rừng bền vững.

Trong dự thảo này, tiêu chuẩn đưa ra hệ thống yêu cầu rõ ràng về quản lý, đo đạc, báo cáo và thẩm tra tín chỉ carbon rừng. Tiêu chuẩn cũng được xây dựng theo hướng có thể áp dụng cho nhiều loại hình quản lý rừng khác nhau (rừng tự nhiên, rừng trồng, rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng), phù hợp với điều kiện của cả các chủ rừng là tổ chức và cá nhân, từ đó khuyến khích sự tham gia đa dạng của các bên.

Hướng tới thị trường trong nước

Giai đoạn đầu, nhóm xây dựng chưa hướng tới thị trường carbon quốc tế, mà tập trung vào việc hoàn thiện cơ chế trong nước nhằm đảm bảo tính khả thi và đồng bộ, theo bà Nghiêm Phương Thúy. Khác với các tiêu chuẩn quốc tế thường tách riêng từng hoạt động giảm nhẹ phát thải (như REDD+, trồng rừng, hay phục hồi rừng), tiêu chuẩn quốc gia được thiết kế theo hướng tổng hợp và thống nhất, giúp đơn giản hóa việc xây dựng, ban hành và vận hành trong điều kiện Việt Nam. Tiêu chuẩn này đóng vai trò định hướng nguyên tắc chung, sau đó sẽ được cụ thể hóa bằng bộ hướng dẫn kỹ thuật chi tiết để áp dụng trong thực tế.

Bà Thúy cũng cho biết thêm, tiêu chuẩn được ban hành sẽ phải phù hợp với các biện pháp giảm nhẹ khí nhà kính trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) và các chính sách giảm phát thải của Việt Nam, đảm bảo nhiều loại rừng và hoạt động lâm nghiệp có thể được đánh giá và cấp tín chỉ carbon. “Việc này nhằm mở rộng khả năng tham gia của các chủ rừng, thay vì bị giới hạn bởi các tiêu chuẩn quá khắt khe như một số hệ thống quốc tế hiện nay”, bà Thúy giải thích. Nhằm giúp thị trường trong nước dễ triển khai hơn, tiêu chuẩn này cũng được nghiên cứu và soạn thảo với mục tiêu giảm chi phí và rút ngắn thời gian xây dựng, đăng ký, đo đạc, báo cáo và thẩm định dự án, hạn chế sự phụ thuộc vào đơn vị tư vấn hoặc thẩm định quốc tế. Điều này giúp chủ rừng và các đơn vị trong nước có thể chủ động hơn trong việc phát triển và vận hành dự án carbon.

Nhưng việc nới lỏng hơn so với một số tiêu chuẩn quốc tế có khiến quy định của Việt Nam trở nên “thiếu chặt chẽ” hơn không? Theo nhóm soạn thảo, các yêu cầu trong dự thảo cũng được tham khảo và đối chiếu với các tiêu chuẩn, phương pháp luận quốc tế uy tín (như IPCC, VCS/Verra, Gold Standard), “bảo đảm tín chỉ carbon rừng của Việt Nam có thể được công nhận và giao dịch ở thị trường trong nước và quốc tế”, nhóm xây dựng tiêu chuẩn cho biết.

Bên cạnh đó, dự án cũng phải đảm bảo tuân thủ nghiêm ngặt quy định về việc không được trùng lặp với dự án carbon khác cũng như tính bổ sung - một trong những điểm quan trọng nhất trong một dự án carbon, thể hiện khả năng cắt giảm hoặc loại bỏ khí nhà kính thực sự của dự án.

Hiện nay, dự thảo Nghị định quy định dịch vụ hấp thu và lưu giữ carbon của rừng, dự kiến được trình vào tháng 12, cũng đã được xây dựng và có dẫn chiếu đến tiêu chuẩn này. “Mặc dù tiêu chuẩn mang tính tự nguyện, nhưng khi được dẫn chiếu trong Nghị định, nó trở thành văn bản có hiệu lực pháp lý và phải áp dụng. Vì vậy, tiêu chuẩn này đóng vai trò then chốt trong việc triển khai cơ chế tín chỉ carbon rừng”, ông Trần Hiếu Minh - Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm. “Tới đây, chúng tôi sẽ xây dựng hướng dẫn kỹ thuật chi tiết, đồng thời tổ chức tập huấn và nâng cao năng lực cho các bên liên quan, nhằm đảm bảo việc áp dụng tiêu chuẩn carbon được thực hiện một cách hiệu quả và đồng bộ”.

Trong nước, Việt Nam hiện sẽ áp dụng cơ chế hạn ngạch phát thải. Theo đó, từ nay đến cuối năm, hạn ngạch sẽ được thiết lập cho ba ngành trọng điểm gồm nhiệt điện, sản xuất thép và xi măng. Khi hạn ngạch được ban hành, các ngành này được phép mua, bán và trao đổi tín chỉ bù trừ tối đa 30% hạn ngạch phát thải. Hoạt động này có thể thực hiện thông qua cơ chế tự nguyện, chẳng hạn mua tín chỉ từ các dự án lâm nghiệp hoặc từ các cơ sở nhiệt điện khác.

Theo TS. Vũ Tấn Phương - Văn phòng Chứng chỉ Quản lý rừng bền vững, hiện tại, phát thải của Việt Nam vào năm 2020 là khoảng 528 triệu tấn CO2. Nếu không có biện pháp can thiệp, con số này dự kiến sẽ tăng lên gần 1 tỷ tấn CO2 vào năm 2030. Theo NDC 2021-2030, Việt Nam cần giảm tổng cộng 767 triệu tấn CO2trong giai đoạn này. “Như vậy, nhu cầu trao đổi tín chỉ trong nước là rất lớn. Mặc dù mỗi ngành đều có các biện pháp giảm nhẹ riêng, ngành lâm nghiệp có lợi thế đặc thù, giúp cung cấp tín chỉ bù trừ để hỗ trợ các cơ sở đang chịu hạn ngạch, đồng thời mở ra cơ hội thương mại tín chỉ

trong nước”.

Bài đăng KH&PT số 1369 (số 45/2025)

M.H.

Nguồn: Khoahocphattrien.vn



 

 

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn