Chuyện thương binh liệt sĩ

(Kỳ 1 và Kỳ 2) 

Nguyễn Thông 

Tôi lại kể chuyện thương binh, liệt sĩ khi ngày 27.7 đang đến gần. Những ngày ấy âm khí nhiều lắm.

Kỳ 1:

Tôi vừa đọc bài của bác nhà văn cựu binh Đỗ Trung Lai, một cây đề trong làng văn chương đương đại xứ ta. Bác ấy viết về người chị dâu, vợ liệt sĩ Đỗ Trung Cẩn  anh trai bác. Đọc xong tôi ứa nước mắt, khóc. Thương con người, thương dân tộc mình. Cào phím biên mấy dòng. Lần đầu tiên trong đời tôi viết hai câu sai ngữ pháp, thiếu chủ ngữ.

Đang tháng 7 tây, năm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thứ 80. Hôm nay đã ngày 18, còn 9 ngày nữa là 27.7, ngày Thương binh - Liệt sĩ, dân quen mồm bỏ bớt dấu gạch ngang, gọi thành "ngày thương binh liệt sĩ".

Tháng 7 nói chung, tuần trước "ngày" và nhất là trong "ngày", cả nước nghi ngút khói hương, đặc biệt những trọng điểm tâm linh như nghĩa trang Trường Sơn, nghĩa trang Đường 9, nghĩa trang Vị Xuyên… Thương binh và gia đình liệt sĩ lại bổi hổi bồi hồi nhớ thương trong tháng 7.

Theo quy định của nhà nước, ngày 27.7 lịch dương là ngày tưởng nhớ biết ơn liệt sĩ - thương binh, một dạng lễ kiểu lịch âm, tưởng nhớ người đã khuất. Dĩ nhiên không phải ai chết cũng được nhớ, dù cuộc chiến tranh năm xưa, binh đao máu đổ làm chết biết bao người! Có rất nhiều hồn ma, người cụt, người què khốn khổ bị chôn vùi, quên lãng, chỉ bởi họ bị xô đẩy vào trận tương tàn và bị thua cuộc. Đánh nhau do ý thức hệ thì sự phân biệt cũng từ ý thức hệ.

Xứ ta thời hậu chiến, lực lượng thương binh (của bên thắng) là một dạng vết thương xã hội, lâu lâu gặp khi trái gió trở trời lại sưng tấy, mưng mủ, đau nhức. Một loại đối tượng rất nhạy cảm, nếu không có chính sách đối xử hợp lý hợp tình sẽ dễ sinh chuyện. Điều ấy cắt nghĩa vì sao chính quyền từng phải có hẳn một bộ gọi tên “Lao động - Thương binh - Xã hội” (giờ đất nước vào kỷ nguyên mới thì bị đổi rồi), tức là thương binh được xem như một đơn nguyên ngang hàng với “lao động” và “xã hội”.

Cuộc chiến tranh đã lùi hơn 50 năm, tuy nhiên vấn đề thương binh sẽ còn phải kéo dài vài chục năm nữa. Mai ngày từ “thương binh” sẽ chỉ còn trong quá vãng (mong như thế, đừng bao giờ chiến tranh nữa), những chiếc xe tự chế, những tổ hợp 27.7, nhưng cơ thể “tàn nhưng không phế”, những chính sách ưu tiên, và cả những phũ phàng trong sự đối xử với người có công, v.v. sẽ thưa vắng và tắt dần. Cũng chưa biết rồi cuộc sống, xã hội không còn thương binh sẽ như thế nào, chi bằng lúc này đây, khi thương binh vẫn hiện diện như một thực thể bằng xương bằng thịt, cứ giải quyết sao cho có lý có tình. 

Cả với gia đình liệt sĩ, gia đình và người có công với cách mạng cũng vậy, đừng như gia đình liệt sĩ thiếu tướng Hoàng Sâm (từng là đội trưởng đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của quân đội) mà dư luận đang quan tâm. Nhà văn Phạm Việt Long và con trai Thiếu tướng Sâm là Hoàng Sùng vừa có bài kể lại, rất buồn. Ai chưa tỏ cứ hỏi bác Long.

Trước hết, nói về thương binh. Tôi luôn kính trọng những người đã đổ máu hy sinh. Vẫn hiểu rằng cuộc chiến tranh mà họ tham gia có rất nhiều uẩn khúc, nhưng thời thế đã vậy, phận làm trai phải ra nơi chiến địa, "gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao". Bên thắng giành được phần thắng, điều đương nhiên phải trả món nợ máu xương cho thương binh liệt sĩ.

Phải công bằng nhận xét thế này: Nhà nước đã có rất nhiều ưu đãi cho thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công, nhưng cũng còn không ít sự đối xử phũ phàng. Nhiều người từng bỏ lại phần thân thể ở chiến trường khi trở về quê nhà vẫn chịu cảnh đối xử bất công, cuộc sống cơ hàn, nghèo khó, phận dưới đáy xã hội. 

Nói đâu xa, một nhân vật mà nhiều người biết, nhà văn nhà thơ Hoàng Cát (đã mất), tác giả truyện ngắn nổi tiếng “Cây táo ông Lành”, cụt chân ở chiến trường Quảng Đà, suốt mấy chục năm hậu chiến phải vất vưởng sống vỉa hè, mọi chế độ thương tật bị cắt bỏ, không được thừa nhận là thương binh, dù chỉ còn một chân, mà lý do chính chỉ là cái án văn vớ vẩn. Mãi sau này, người ta mới phục hồi quyền lợi cho ông, lúc ấy cũng muộn rồi. Chả khác gì bê đĩa cơm sườn hoặc bát canh xương ống mời một ông rụng hết răng, bảo mời bác xơi cơm. 

Dạng được đối xử ân cần như bác thương binh nặng nhà văn Sơn Tùng (đã mất) hiếm lắm. Ai muốn biết cách nhà nước đền ơn thương binh thế nào, nên đọc những cuốn sách của cô Phan Thúy Hà, như "Tôi là con gái của cha tôi", "Những trích đoạn của các anh".

Tôi có ông bác, cụ Nguyễn Phẩm Bình cán bộ tiền khởi nghĩa, còn những giấy tờ, chứng cứ về những hoạt động, đóng góp cho cách mạng. Khi nhà nước thực hiện chính sách người có công tiền khởi nghĩa thì cụ đã mất, con cháu ôm hồ sơ tới đủ cửa nhưng người có trách nhiệm cứ lờ đi, thậm chí còn gợi ý này nọ. Rồi con cũng mất, cháu lại đòi tiếp, vẫn không được. Chả biết đến bao giờ. Chính quyền muốn tường tận vụ việc này cứ về thôn Trà Phương, xã Kiến Thụy (mới) hỏi cháu ruột cụ là Nguyễn Hữu Cộng. Tôi từng viết chuyện này mấy lần, người chức việc nhà nước đọc biết cả nhưng lờ đi, mà suốt ngày chỉ nhăm nhe săm soi tìm tòi xem tôi có điều gì trái ý họ không rồi làm khó dễ. Hình như đối với họ, số phận của một cán bộ lão thành cách mạng tiền khởi nghĩa chả là gì, chả đáng quan tâm.

Ở một nước trải qua hết cuộc chiến tranh này tới cuộc đánh nhau khác, hết trong nhà đánh nhau lại tới đánh với “bạn” ngoài, đội ngũ thương phế binh nhiều vô kể. Chỉ kể riêng cuộc chiến 1954-1975, khi chiến tranh kết thúc, bên thắng đương nhiên có chính sách đãi ngộ thương binh, còn thương phế binh phe bại trận tuyệt đối không chút quan tâm gì, cũng là điều dễ hiểu. Nếu có chăng, chỉ được lờ đi, sau đó tự lang thang bến tàu bến xe kiếm sống bằng sự què cụt của mình. Nhiều năm sau “giải phóng”, ở miền Nam nhan nhản những hình ảnh thương phế binh chịu thân phận sống dưới đáy xã hội như vậy. Được làm vua, thua chịu thiệt. Tới ngày 27.7, có lẽ họ là người ngậm ngùi thân phận nhất. Đọc cuốn sách “Những trích đoạn của các anh” của chị Phan Thúy Hà, tôi càng rõ thêm. Tôi thương quý các chú các anh thương binh, gia đình liệt sĩ (như trường hợp nhà thiếu tướng Hoàng Sâm và nhà bác Đỗ Trung Lai) và thấy tội nghiệp cho phế binh. Đều là con người cả. 

 

Kỳ 2:

Tôi lại kể tiếp chuyện thương binh, liệt sĩ khi ngày 27.7 đang đến gần. Những ngày ấy âm khí nhiều lắm.

Thời tôi sống, suốt nhiều thập niên, ngoài chuyện “ra ngõ gặp anh hùng” thì còn “ra ngõ gặp thương binh”. Không cần nói đâu xa, làng tôi trai tráng cứ vừa đủ tuổi 17 là lũ lượt ra trận, có năm vài ba lần bắt lính (còn gọi là đi nghĩa vụ quân sự). Chiến trường A, B, C, D đều khát lính. Bao nhiêu cũng không đủ. Ông Huy anh họ tôi từng ngậm ngùi bảo “các bà mẹ đẻ con không kịp cho người ta bắt”. 

Huyện đội về tuyển quân, khám qua loa xong rồi trai làng về chia tay gia đình, thịt con gà làm mâm cơm tiễn biệt rồi đi. Chia tay chỉ có khóc bởi biết tiễn nhau vào cõi chết. "Gió hiu hiu sông Dịch lạnh lùng ghê". Nhiều người đi mãi không về, không bao giờ về nữa. Xã Thụy Hương quê tôi bé tí, chỉ vài ngàn khẩu nhưng nghĩa trang liệt sĩ hơn trăm ngôi mộ. Trong số những người may mắn thoát khỏi định mệnh “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” (xưa nay ra trận mấy ai trở về), rất nhiều người thành thương binh.

Ông anh ruột tôi, học hết lớp 10, giấy gọi vào đại học có trước, giấy nhập ngũ tới sau nhưng “cái sau đè cái trước”, tháng 10.1969 hành quân vào Nam. Bị thương ở mặt trận Nam Lào, sau đó vào sâu tiếp lại bị thương trên chiến trường Bình Định, năm 1975 ra Bắc nhập trại thương binh bên huyện Vĩnh Bảo (Hải Phòng) chữa trị mấy tháng mới được hồi hương. Vết thương chìm trong người nên trông cơ thể vẫn lành lặn, may không bị què cụt nhưng trong người ông anh vẫn còn một vài viên bi bom chưa lấy ra được. Giờ thì anh tôi đã đem bi về nộp dưới cõi âm mấy năm rồi.

Tôi nhớ như in cái thẻ thương binh của anh tôi do trung tá Lương Tuấn Khang (quân khu 3) ký, sau khi anh tôi đi Liên Xô học bèn giao cho tôi bảo quản, thỉnh thoảng nó được trưng dụng “bất hợp pháp” để mua vé tàu vé xe tuyến Hà Nội - Hải Phòng dịp tết, dịp hè. Dạo thập niên 1970, từ Hải Phòng đi Hà Nội thường phải mất ít nhất 1 ngày mới tới nơi. Có khi mất 2 ngày chỉ cho quãng đường 104 cây số. 

Tết năm Bính Thìn 1976, tôi đi chuyến tàu điện tinh mơ ra bến Nứa, dù có thẻ thương binh vẫn phải chen chúc xếp hàng trong dãy ưu tiên dài dằng dặc (sao mà lắm thương binh thế, nói theo kiểu các cụ  trên giời dưới thương binh) mua được cái vé ô tô khách thì đã 3 giờ chiều, chờ xe mất thêm cả tiếng nữa, xe về tới bến hồ Quần Ngựa Hải Phòng thì đã khuya, không còn xe về huyện. Ngủ vật vạ bến xe, sáng hôm sau lại xếp hàng mua vé về huyện Kiến Thụy, tới trưa mới đến nhà, tính ra hết đúng ngày rưỡi cho hơn 120 cây số (về tận nhà). Lúc quay lại trường, nhờ có bảo bối ưu tiên, chiếc thẻ thương binh, chỉ mất hơn nửa ngày. Giờ nghĩ lại, cũng biết mình sai, tham nhũng vặt, nhưng khổ quá nên làm “bậy”.

Hai thương binh khác ở làng tôi, hơn tôi 1 tuổi, học trước tôi 1 năm, cùng vào Nam năm 1971, là Nguyễn Minh Trí (gọi tôi bằng chú) và anh Nguyễn Đức Vê. Bọn hắn cùng đi và cùng trở về, cùng bị cụt một tay, cùng nhập trại Vĩnh Bảo. Chỉ khác tí xíu: Trí thuận tay phải thì cụt ngay tay phải, cưa tới gần vai; anh Vê thuận tay trái thì mảnh bom xơi béng ngay tay trái; cùng về học sư phạm 10 + 3 Kiến An, ra làm thầy giáo; còn mỗi tay, lại không thuận, học và sinh hoạt rất vất vả. 

Thời khó ấy, mỗi lần mua vé tàu xe, đưa thẻ thương binh ra, thấy nhân viên bán vé ngắm nghía soi mói nghi ngờ có phải thương binh thật không, Trí liền thò cánh tay cụt vào ô cửa ngoáy ngoáy. Khỏi cần giải thích. 

Nhưng Trí đầy nghị lực, làm tới hiệu trưởng nhiều trường cấp 2, về hưu vẫn tham gia vào các hoạt động xã hội. 

Anh Vê từng nổi tiếng với vụ cùng một số thương binh “nhảy dù” chiếm nhà trong khu tập thể mới xây ở đường Trần Nguyên Hãn nội thành. Đầu đuôi là việc thương binh bị đối xử thậm tệ, không nơi ăn chốn ở, làm đơn xin nhà mãi không được, trong khi cán bộ lành lặn trốn ở hậu phương thời chiến tranh lại được cấp, hết đợt này tới đợt khác. Các chiến sĩ què cụt nhà ta bèn tập hợp nhau lại hơn chục vị, thấy khu nhà kia vừa xây xong bèn tiền trảm hậu tấu. Nghe đâu chính quyền Hải Phòng của ông Đoàn Duy Thành hồi đó phải xử lý mãi mới ổn vụ này. Anh mới đi năm ngoái, tìm Diêm vương để đòi lại một cánh tay.

Một ông bạn khác của tôi, cùng lớp suốt thời cấp 3, cũng thương binh. Y tên Vũ Trường Thành, người xã Minh Tân, cùng huyện Kiến Thụy, Hải Phòng. Học toán rất giỏi, cỡ... Ngô Bảo Châu, hì hì. Năm 1972, tháng 3, đang học dở lớp 10, chuẩn bị thi tốt nghiệp thì y và nhiều bạn trong lớp, cùng cả thầy Mễ chủ nhiệm, bị gọi nhập ngũ bổ sung cho chiến trường Quảng Trị, nơi được mệnh danh là cối xay thịt, mỗi ngày mất hẳn một đại đội. Đánh trận Thành Cổ xong, cùng chiến hào với những tên tuổi sau này như Đinh Thế Huynh, Lê Duy Ứng, Nguyễn Quốc Triệu…, y còn bị đưa vào tận mặt trận Quảng Đà, bị thương rồi mới ra Bắc. 

Cũng học sư phạm 10 + 3 Kiến An, sau đó y dạy toán ở nhiều trường, khi An Đà, khi Anh Dũng, có tiếng, học trò rất quý. Tính thẳng thắn, ngang như cua, gặp điều gì vướng tai trái mắt quật luôn, chửi luôn, ban giám hiệu cũng phải sợ và phục. Điều đáng nói, hầu như năm nào dịp 27.7 y cũng lần mò vào tận chiến trường xưa, tới Thành Cổ, tới nghĩa trang Trường Sơn, nghĩa trang Đường 9 thắp hương cho đồng đội trận vong. 

Cứ mỗi lần kể cho tôi nghe những chuyến về nguồn, y đều chảy nước mắt, làm tôi cũng khóc theo. Y thường kết luận, đéo mẹ chúng nó, bao nhiêu người chết vùi thân nơi rừng xanh núi đỏ, bao nhiêu thằng què cụt, thương tật như tao, để bây giờ chúng nó gây ra cái xã hội khốn nạn như thế này, mày thấy có tức không. 

Năm nay 27.7 ngày trận vong, bạn tôi không thể vào các đại nghĩa trang thắp hương và khóc nữa, bởi vết thương đã nổi cơn tàn phá và đưa bạn đi gặp đồng đội cõi âm vào năm 2020 lịch ta mất rồi. 

(Còn tiếp) 

N.T.

Nguồn: FB Nguyễn Thông

 

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn