Mối quan hệ giữa Luật pháp và Xã hội: Lý thuyết và thực tế

Đỗ Kim Thêm 

Khi luật pháp trở thành công cụ chính trị, niềm tin của người dân vào hệ thống tư pháp bị xói mòn. Quyền biểu đạt, hội họp và tham gia chính trị bị hạn chế, các sáng kiến xã hội không thể phát triển, và tiến trình dân chủ hóa bị đình trệ – một viễn cảnh mà Đảng CS xem là đe dọa đến sự ổn định chính trị.

Ein Bild, das Hartwaren, Werkzeug, Im Haus, Boden enthält.

Automatisch generierte Beschreibung

Lý thuyết tổng quát

Luật pháp: một thành tố xã hội

Hiểu một cách đơn giản, văn hoá là một khái niệm tổng quát để chỉ sự chung sống của tất cả mọi người trong cùng xã hội, bao gồm ngôn ngữ, phong tục tập quán, tôn giáo và luật pháp. Do đó, luật pháp là một thành tố trong toàn bộ các hoạt động văn hoá và có ảnh hưởng đến tiến trình phát triển xã hội, một vấn đề hiển nhiên. 

Nhìn sâu xa hơn trong toàn cảnh về việc hình thành và phát triển luật pháp trong xã hội có thể thấy rằng kết quả này phụ thuộc vào nhiều yếu tố chính trị, kinh tế, địa lý, thời tiết, dân số, tôn giáo và đạo đức mà Charles de Secondat Montesquieu (1689 - 1755), lý thuyết gia luật học và sử gia của Pháp, trình bày rất chi tiết trong tác phẩm "Tinh thần của Luật pháp" (De l´esprit des lois). Ngay trong lời nói đầu, ông đã nhấn mạnh là các yếu tố này đã gây ảnh hưởng sâu rộng đến sự đa dạng của luật pháp, những quy luật tổng quát và phong tục. Cũng trong tác phẩm này, ông còn phân tích về vai trò của nguyên tắc tam quyền phân lập: Hành pháp, Lập pháp và Tư pháp trong một nền dân chủ chính trị hiến định. Montesquieu chỉ ra rằng học thuyết tam quyền chịu nhiều ảnh hưởng từ Hiến pháp Anh quốc, mà thực ra là không đúng hẳn.

Theo Friedrich Carl von Savigny (1779 - 1861), người lập ra trường phái Luật học theo lịch sử, nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa luật pháp và nền văn hoá tổng thể, đặc biệt là tuỳ thuộc vào quan điểm của đa số dân chúng, còn được gọi chung là tinh thần dân tộc hay tâm trạng chung trong xã hội. Quan điểm này được hầu hết các nhà nghiên cứu hiện đại tán đồng.

Ngày nay, giới phân tích thường phân biệt giữa chính sách pháp lý và xã hội học về pháp lý, nghĩa là, họ tìm hiểu xem một dự luật cần phải cân nhắc đến những điều kiện về thực tại chính trị, kinh tế, hay tâm lý để đáp ứng được nguyện vọng của dân chúng. Dĩ nhiên, trong tiến trình nhận thức, không phải lúc nào các yếu tố này cũng được quan tâm đồng bộ và đúng mức.

Trong nỗ lực dân chủ hoá ở các nước thuộc thế giới thứ ba hay hậu Cộng sản, giới thiết lập chính sách pháp lý thường có khuynh hướng chung là rập khuôn theo các luật lệ có sẵn của các nước dân chủ phương Tây. Về lý thuyết, họ tin rằng kỹ thuật lập pháp dễ khả thi, nhưng khi áp dụng, họ mới nhận ra rằng truyền thống văn hoá, phong tục và tập quán không thích hợp sẽ gây ra nhiều trở ngại.

Tiến trình lập pháp

Tại các nước tiên tiến, mỗi dự luật thường theo đuổi một chính sách pháp lý rõ rệt, nêu rõ các kết quả cho dân chúng biết để hy vọng là sẽ tán đồng. Ngay từ thế kỷ XIX, lý thuyết gia luật học Rudolph von Jehring (1818 - 1892) cho rằng biện minh về mục tiêu và khả năng giải quyết của dự luật là nhu cầu tiên quyết. 

Khi xã hội biến động liên tục, thì việc tu chỉnh các khuôn khổ lập pháp và lập quy hiện hành là một nhu cầu to lớn. Để thoả mãn nhu cầu này, luật lệ mới cần được đưa ra nhanh chóng. Các dự luật thường được đề ra, soạn thảo, tham khảo, chung quyết và ban hành theo một tiến trình lập pháp nhất định. Người dân vốn dĩ quen thuộc với các luật lệ có sẳn, nên việc thay đổi này tất nhiên sẽ gây nhiều ảnh hưởng đến cuộc sống; đôi khi, họ cũng hoang mang khi cho là luật mới có thực sự cần thiết không, hay cuối cùng chỉ gây tác hại nhiều hơn. Kể cả giới luật gia nhiều khi cũng không nắm bắt được hết các cập nhật. 

 

Nhu cầu lập pháp và lập quy thường được các chuyên gia trong các đảng phái chính trị hay các lợi ích nhóm nhận ra và đề xuất. Trong thời gian vận động tranh cử, đảng cầm quyền hay đối lập thường đua nhau hứa hẹn rằng chính sách pháp lý mới của đảng mình sẽ giải quyết thoả đáng các nhu cầu khẩn thiết của dân chúng, thí dụ như họ sẽ gia tăng mức trợ cấp xã hội hay miễn thuế lợi tức để gây thu hút cử tri. Khả năng giải quyết của dự luật luôn gây tranh cãi khi có nhiều quan điểm khác nhau của đảng cầm quyền, đảng đối lập, nhóm lợi ích, báo chí và công luận; đôi khi, ngân sách tài trợ cũng là một trong các trở ngại chính cho việc thực thi.

Hầu hết các dự luật đều được các chuyên gia pháp chế tại các bộ chuyên môn thuộc đảng cầm quyền soạn thảo. Giai đoạn chuẩn bị này thường kéo dài rất lâu, đặc biệt nhất là khi liên quan đến quyền lợi thiết thân của dân chúng. Trong tiến trình này, họ cũng mời các nhóm lợi ích hay giáo sư nổi danh chuyên ngành đến điều trần. Thực tế cho thấy là có nhiều dự thảo bị công luận, báo giới, đoàn thể chuyên môn hay đối lập phản ứng mạnh đến độ cuối cùng phải đành gác lại.

Sau khi dự luật được ban hành, việc giải thích của các học giả và quyết định của các toà án phát sinh nhiều vấn đề mới và cũng gây những hiệu ứng khác nhau trong dư luận xã hội. Qua thời gian dài áp dụng, luật sẽ được kiểm chứng qua các phương thức thống kê; nhờ kết quả này mà vấn đề tu chỉnh có nên đặt ra không cho phù hợp với tình hình.

Điều hướng xã hội qua thực thi pháp luật

Trong lịch sử thế kỷ XX, sự sụp đổ của các thể chế tại Liên Xô và các nước Đông Âu là một biến động xã hội vô cùng quan trọng. Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội như một ý thức hệ lý tưởng thành một xã hội chuyên chính vô sản công bằng tuyệt đối không giai cấp và tự do toàn diện cuối cùng chỉ là chuyện hoang đường.

Trong bối cảnh chuyển hóa một ý thức hệ cực đoan và lỗi thời, thực tế không còn gây tranh cãi nữa là một chính phủ trung ương tập quyền không hiệu năng, một nền kinh tế không tôn trọng quyền tư hữu và một hệ thống chuyên chính không tôn trọng luật pháp đã là những nguyên nhân thất bại trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng việc xây dựng một hệ thống giá trị xã hội mới là vô cùng khó khăn. Ngoài việc tạo dựng cơ chế vận hành cho nền kinh tế thị trường và dân chủ đại nghị, liệu việc cải cách theo chiều hướng nhà nước pháp quyền có nên được đề ra không? 

Thực ra, nhìn chung, ảnh hưởng hỗ tương giữa luật pháp và xã hội hiện đại dễ được nhận ra, đặc biệt là khi luật pháp phát huy ảnh hưởng tích cực, nếu người dân ý thức được mục tiêu áp dụng và thực thi nghiêm chỉnh. Việc đề nghị thay đổi luật pháp để duy trì trật tự xã hội và bảo đảm quyền tự do cá nhân có sức thu hút đặc biệt, vì ai cũng hy vọng là sẽ có một triển vọng tốt đẹp hơn. Chiều hướng này tất nhiên có liên quan đến việc điều hướng xã hội. Dù có nhiều thu hút, nhưng nỗ lực này không phải lúc nào cũng được toàn thể xã hội tán đồng; ngược lại, còn gây tranh cãi với nhiều lý do khác nhau.

Thứ nhất, không giống như trong một xã hội độc tài, trong một xã hội tự do, năng động và đa dạng, chính quyền không thể buộc dân chúng phải theo một khuôn mẫu nhất định về hạnh phúc khi họ phải chịu mất ít nhiều tự do.

Thứ hai, bất cứ một sự thay đổi nào cũng có nghĩa là chính quyền phải can thiệp vào đời sống cá nhân, ví dụ như cơ hội, quyền lợi, tự do kể cả tài sản, tất cả đều có thể bị thay đổi; do đó, nạn nhân thường có các phản ứng đối nghịch, đôi khi họ lập luận thuyết phục cũng không kém.

Thứ ba, đề tài thường gây tranh cãi là mục tiêu của dự luật đề ra có thiết thực để mang lại kết quả không.

Hiện nay, việc chung sống hài hòa trong xã hội là một lý tưởng rất đáng được ca ngợi, nhất là khi chính quyền thực hiện được các mục tiêu cao đẹp như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập. Nhưng đâu là vai trò của luật pháp? Ý chí của giới lập pháp và tinh thần hợp tác của dân chúng là hai yếu tố cần thiết.

Tiến trình năng động trong xã hội hiện đại là kết quả của việc thu thập kinh nghiệm và nỗ lực thích nghi. Bảo vệ hệ thống pháp luật hiện hành và duy trì tự do sẵn có của dân chúng là hai vấn đề then chốt mà giới lập pháp phải cân nhắc để cải thiện xã hội. Do đó, khuôn khổ pháp chế bổ sung không thể quá triệt để, cực đoan vì sẽ dẫn đến hậu quả là gây quá nhiều xáo trộn, không khả thi và thiếu dân chủ. Vai trò của Hình luậttrong việc điều hướng xã hội là một ví dụ và ba khía cạnh chủ yếu thường được đề cập là: Đặc điểm nội dung, chính sách pháp lý và tác động đến xã hội.

Đặc điểm

Luật Hình sự thể hiện một lý tưởng về công bằng tự nhiên, nền tảng pháp lý để bảo vệ an toàn cá nhân và trật tự xã hội. Các hành vi phạm pháp như giết người, cướp của, lường gạt, tống tiền làm cho cuộc sống cá nhân không còn an toàn, mất tự do và xáo trộn sinh hoạt xã hội. Ai vi phạm pháp luật phải bị trừng trị, mục tiêu này nhằm trừng phạt phạm nhân và ngăn cản các tội phạm mới phát sinh cho xã hội.

Theo chiều hướng này, mục tiêu bảo vệ của Hình luật được phân thành hai loại: cá nhân và cộng đồng. Đối với cá nhân, đó là nhắm tới việc an toàn thân thể, danh dự và tài sản; đối với cộng đồng, đó là an toàn giao thông, trật tự công cộng, môi trường và vận hành của các cơ quan chấp pháp. Hai mục tiêu riêng biệt này cho thấy giá trị áp dụng hình luật là thiết yếu và phổ quát.

Chính sách

Để phù hợp với biến chuyển của trào lưu, khuynh hướng chung của giới hoạch định chính sách pháp lý là cải thiện hệ thống Hình luật hiện hành. Nội dung tu chỉnh thường là mục tiêu hay các khuôn khổ giải thích và áp dụng, cụ thể là các yếu tố cấu thành tội phạm sẽ được thay đổi, có thể là nghiêm khắc hơn hoặc ngược lại. 

Hiện nay, hầu hết các bộ Hình luật của các nước phương Tây đều xoá bỏ khung phạt tội hình cho những người đồng tính hay ngoại tình. Ngược lại, sau đợt khủng bố của các nhóm Hồi giáo cực đoan, các nước đã đề ra các loại hình phạt mới như chống khủng bố quốc tế, lừa đảo và rửa tiền xuyên quốc gia. Làn sóng bạo hành phụ nữ trong sinh hoạt gia đình cũng trở thành một khung hình phạt mới. Thực tế cho thấy các luật lệ bổ sung nhằm thích nghi với các biến chuyển xã hội, nhưng không phải lúc nào cũng giải quyết thoả đáng các xung đột.

Ảnh hưởng

Ảnh hưởng của Hình luật trong xã hội đã được các triết gia cổ thời thảo luận sâu rộng. Họ có một nhận định chung là tội ác phải bị trừng phạt nhằm gây tác động tỉnh thức và ngăn ngừa các hành vi tương tự của phạm nhân trong tương lai, tác động răn đe chung cho toàn xã hội; cuối cùng, quan trọng nhất là giá trị của công lý bị tổn thương sẽ được phục hồi. Các triết gia thời Khai sáng cũng tán đồng mục tiêu này, nhất là đề cao vai trò cao đẹp của công lý, trước là Immanuel Kant (1724 - 1804) và sau là Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770 - 1831).

Triết gia Kant đã nêu lên một thí dụ, cho dù hoàn cảnh xã hội có thay đổi đến thế nào đi nữa, thì giá trị của công lý phải luôn được đề cao. Ông đưa ra một trường hợp giả tưởng là khi các cư dân sống trên một hòn đảo quyết định giải thể và nhập cư các nơi khác, thì phạm nhân tội tử hình cuối cùng còn lại trong ngục thất cũng phải được đem ra hành quyết. Quyết định này giúp cho mọi người nhận thức được giá trị trừng phạt của hành vi phạm pháp, vì đã làm tổn thương đến công lý và nợ máu của phạm nhân không thể đổ trách nhiệm cho toàn dân chúng. 

Ngược lại, triết gia Hegel biện minh về ý nghĩa của hình phạt trong hai mức độ khác nhau. Một là trong khuôn khổ của tam đoạn luận: Chính đề, Phản đề và Hợp đề. Nền tảng và nguồn gốc của Hình luật là công nhận hỗ tương của con người trong ý thức trách nhiệm về tự do. Khi phạm nhân bị trừng phạt bằng cách tước đoạt tự do, nghĩa là, không những từ bỏ việc công nhận tự do cá nhân cho phạm nhân mà còn phủ nhận việc công nhận hỗ tương như là nền tảng của tính hợp pháp. Hệ thống pháp luật (chính đề) phải phản ứng trước hành vi phạm pháp. Khi phạm nhân từ bỏ trách nhiệm về tự do và xâm phạm quyền tự do của nạn nhân qua hình thức cưỡng bức, tình trạng mâu thuẫn này cũng phải được giải quyết bằng hình phạt, một hình thức bằng vũ lực này để giải quyết mâu thuẫn (phản đề); cuối cùng, trật tự xã hội và công lý được vãn hồi (hợp đề).

Hai là, ý nghĩa hình phạt của Hình luật bằng biện pháp cưỡng chế với quyền lực nhà nước. Theo Hegel, phạm nhân cũng là một con người bình thường có lý trí, nhưng đặc biệt là khi tự mình ban phát công lý bằng lý trí của mình. Hegel châm biếm rằng khi một phạm nhân tội tử hình bị hành quyết, đây là một hình thức mà hình luật công nhận lý trí riêng của phạm nhân.

Nhìn chung, hiện nay, giá trị của việc phục hồi công lý xã hội phải được xét lại trên một căn bản rộng rãi hơn là chỉ tập trung vào hai phạm vi: khi phạm nhân vi phạm tự do của nạn nhân, thì nhà nước phải tước đoạt tự do của phạm nhân. Giá trị của hình luật phải được đặt ra cao cả hơn. 

Nhìn lại lịch sử phát triển hình luật của các nước phương Tây từ thế kỷ 18 và 19, khuynh hướng chung cho rằng con người là một cá nhân vị kỷ, có đủ lý trí khôn ngoan để cân nhắc lợi hại trước khi quyết định vi phạm luật pháp; do đó, có đủ lý do để nhận biết hậu quả. Cuối cùng, phạm nhân phải bị răn đe và trừng phạt. Hậu quả này cần phải có để nhằm ngăn ngừa chung trong xã hội, nghĩa là, nhằm tổng quát răn đe các phạm nhân còn tiềm tàng và các tội phạm mới. Hiệu quả tiêu cực này sẽ đạt được qua thời gian. 

Gần đây, khảo hướng này được đào sâu hơn theo hai chiều hướng tích cực lẫn tiêu cực, nghĩa là ngoài răn đe còn cải thiện. Chiều hướng nào là chủ yếu, vấn đề tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể. Đối với một vi phạm tội hình không nghiêm trọng, một khung hình phạt nhẹ cũng đủ tác dụng đến việc cải thiện ý thức của phạm nhân. Ngược lại, trước việc vi phạm một tội hình nghiêm trọng, vấn đề bảo vệ xã hội phải được đặt ra, nghĩa là, cần giữ an toàn cho xã hội là ưu tiên, trong nhiều trường hợp, khung hình phạt chung thân khổ sai là tối cần thiết.

Vấn đề còn được thảo luận trên một căn bản khác nhân bản hơn, đó là tìm các biện pháp giáo dục nhằm tạo cho phạm nhân có cơ hội phục hồi nhân phẩm và tái hội nhập xã hội sau khi thi hành án. Học thuyết và án lệ hiện nay cho rằng cần phải thống nhất các biện pháp này để đạt đến một giải pháp tối ưu, nhưng thực ra, đây chỉ là một giải pháp của tình thế hơn là hoàn chỉnh. Phục hồi công lý qua các biện pháp răn đe, trừng phạt, giáo dục để phục hồi nhân phẩm và tái hội nhập đúng hơn là một triết thuyết tổng quát và không thể chung quyết trong thực tế để đem lại một giải pháp thiết thực. Lập luận này khá thuyết phục khi xét đến tình trạng thực tế của việc áp dụng Bộ luật Hình sự Việt Nam ngày nay.

Thực tế về Bộ Luật Hình sự Việt Nam

Nội dung

Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành thể hiện nhiều điểm tích cực, đặc biệt là việc đề cao mục tiêu bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự xã hội, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và tổ chức. Bộ luật không chỉ tập trung vào trừng phạt mà còn hướng đến giáo dục, cải tạo phạm nhân và phòng ngừa tội phạm. Trong thực tiễn áp dụng, bên cạnh các hình phạt nghiêm khắc dành cho tội phạm nghiêm trọng, luật cũng chú trọng đến các biện pháp khoan hồng đối với người có thái độ hối cải.

Về tổng thể, nội dung của Bộ luật chứng tỏ đã phù hợp với các điều ước quốc tế, xu hướng cải cách tư pháp và hội nhập toàn cầu. Trong nước, luật đã góp phần duy trì trật tự xã hội, tạo môi trường sống ổn định cho người dân. Tuy nhiên, trong tiến trình thực thi cũng bộc lộ nhiều hạn chế, trong đó đáng chú ý nhất là vấn đề hình sự hóa quyền tự do chính trị – một chủ đề gây nhiều tranh luận.

Hình sự hóa quyền tự do chính trị

Quyền tự do chính trị là một trong những quyền cơ bản của con người, được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam và các công ước quốc tế như Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR). Tuy nhiên, một số quy định mơ hồ trong Bộ luật Hình sự đã dẫn đến việc hình sự hóa các quyền này, gây ra hệ quả là thu hẹp không gian dân chủ và trấn áp tiếng nói phản biện.

Ba điều luật thường được dư luận trong và ngoài nước nhắc đến là:

·                Điều 117: Quy định về hành vi tuyên truyền chống Nhà nước nhưng không làm rõ thế nào là “chống”. Điều này tạo điều kiện cho cơ quan công quyền diễn giải tùy tiện, dẫn đến việc truy tố những người có quan điểm chính trị trái chiều.

·                Điều 331: Cấm hành vi “lợi dụng quyền tự do dân chủ”, nhưng không phân biệt rõ giữa việc lợi dụngvà thực hành quyền theo luật định. Điều luật này thường bị sử dụng như một công cụ để đàn áp tiếng nói đối lập.

·                Điều 318: Cấm gây rối trật tự công cộng, nhưng chưa làm rõ ranh giới giữa phản kháng ôn hòa và hành vi phạm pháp. Việc quy kết người biểu tình ôn hòa là “gây rối” khi không có hành vi bạo lực là một thực tế đáng lo ngại.

Nguyên nhân

Việc hình sự hóa quyền tự do chính trị không chỉ là vấn đề pháp lý mà còn phản ánh cấu trúc quyền lực mang tính hệ thống. Với vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam, các cơ quan công quyền – bao gồm cả hệ thống tư pháp – đều chịu sự chi phối trực tiếp, dẫn đến tình trạng thiếu độc lập. Báo chí và mạng xã hội bị kiểm duyệt gắt gao, các tiếng nói phản biện thường bị đe dọa hoặc truy tố, làm suy giảm quyền tự do biểu đạt.

Các tổ chức xã hội dân sự, nhóm hoạt động độc lập và cá nhân lên tiếng về các vấn đề nhạy cảm thường bị coi là “thế lực thù địch”. Những đề xuất cải cách dễ bị quy chụp là “kích động”, “bôi nhọ lãnh đạo” hay “gây rối trật tự”, làm suy yếu vai trò giám sát và phản biện xã hội.

Khi luật pháp trở thành công cụ chính trị, niềm tin của người dân vào hệ thống tư pháp bị xói mòn. Quyền biểu đạt, hội họp và tham gia chính trị bị hạn chế, các sáng kiến xã hội không thể phát triển, và tiến trình dân chủ hóa bị đình trệ – một viễn cảnh mà Đảng CS xem là đe dọa đến sự ổn định chính trị.

Giải pháp

Để cải thiện tình hình, nhà nước cần thực hiện các bước sau:

·                Sửa đổi các điều luật 117, 331 và 318 để đảm bảo tính minh bạch và tránh diễn giải tùy tiện.

·                Tăng cường tính độc lập của tòa án và cơ quan tố tụng.

·                Mở rộng không gian cho xã hội dân sự và truyền thông độc lập.

·                Thực thi nghiêm túc các cam kết quốc tế về quyền con người.

·                Giáo dục công dân về các quyền tự do hiến định để tạo nền tảng cho sự thay đổi lâu dài.

Thách thức

Một trong những thách thức lớn nhất là tình trạng mâu thuẫn giữa yêu cầu kiểm soát toàn diện và nhu cầu xây dựng một xã hội mở rộng. Đảng vẫn muốn duy trì kiểm soát tư tưởng và độc quyền chân lý để bảo vệ quyền lực, trong khi xã hội dân sự và báo chí độc lập lại đòi hỏi một không gian cần thiết cho quyền tự do ngôn luận, đa chiều và minh bạch. Đây là một nghịch lý chưa có lời giải đáp.

Trong khi hệ thống Đảng CS đặt việc kiểm soát toàn diện làm nguyên tắc, thì tự do phản biện của xã hội thực sự khó có thể tồn tại. Các tổ chức ngoại vi của Đảng CS, tự bản chất, không thể đóng vai trò đại diện cho tiếng nói phản biện độc lập. Dù tự do ngôn luận đang nở rộ trên không gian mạng với nhiều kênh YouTube, TikTok, podcast, nhưng phần lớn các nội dung trình bày lại thiếu chiều sâu về cải cách chính trị và luật pháp, mà thiên về giật tít, câu view để gây sốc, xuyên tạc thông tin và lịch sử.

Tình trạng hỗn loạn truyền thông khiến người dân hoang mang vì khó phân biệt đúng – sai, phản biện – xuyên tạc. Quyền hiến định về tự do ngôn luận bị đánh đồng với tình trạng hỗn loạn ngôn luận, tạo lý do chính đáng để cho chính quyền càng kiểm soát chặt chẽ hơn, với lập luận rằng “trình độ phát triển xã hội chưa đủ trưởng thành để được hưởng tự do ngôn luận”.

Đây là một bi kịch lớn của thời đại thông tin tại Việt Nam – một thách thức sẽ còn kéo dài trong nỗ lực tu chỉnh Bộ luật Hình sự hiện hành.

Đ.K.T.

Tác giả gửi BVN

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn