Kiến nghị bày binh bố trận lại hệ thống giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học (Phần 2)

Nguyễn Thiện Tống

Phần 2Kiến nghị về chiến lược phát triển khoa học - công nghệ của Việt Nam

2.1. Chiến lược Phát triển Khoa học, Công nghệ và Đổi mới Sáng tạo đến năm 2030 đã được ban hành theo Quyết định 569/QĐ-TTg ngày 11/5/2022 của Thủ tướng chính phủ.

Theo yêu cầu của chính phủ Việt Nam thông qua Bộ Khoa học và công nghệ, Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Cơ quan Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp Khối thịnh vượng chung Úc (CSIRO) đã có Báo cáo Khoa học, Công nghệ và Đổi mới Sáng tạo Việt Nam năm 2020 với các phân tích hỗ trợ quan trọng cho việc xây dựng Chiến lược Phát triển Kinh tế - Xã hội và Chiến lược Phát triển Khoa học, Công nghệ và Đổi mới Sáng tạo giai đoạn 2021-2030. 

Chiến lược Phát triển Khoa học, Công nghệ và Đổi mới Sáng tạo đến năm 2030 được ban hành theo Quyết định 569/QĐ-TTg ngày 11/5/2022 của Thủ tướng chính phủ có quan điểm mới rất quan trọng là ưu tiên thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp tại Việt Nam để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và để hướng tới mức tăng trường cao và bền vững cho nền kinh tế cả nước. 

Các định hướng phát triển nghiên cứu khoa học, phát triển ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo cũng như các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đã được vạch ra. Tuy nhiên rất nhiều vấn đề cùng nhiều giải pháp tương ứng cần được nghiên cứu cụ thể và tránh mâu thuẫn nhau. Chẳng hạn quan điểm mới là ưu tiên thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp thì doanh nghiệp phải được đặt ở trung tâm của các chính sách đổi mới sáng tạo với tư cách là chủ thể chính sử dụng tri thức, thay vì chỉ chú trọng khu vực hàn lâm thực hiện hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), và doanh nghiệp cần được ưu tiên phát triển năng lực bắt kịp “đường biên công nghệ”  thông qua việc tiếp thu và phổ biến công nghệ tiên tiến từ nước ngoài thay vì cố gắng thúc ép đại học nghiên cứu ra công nghệ mới thông qua hoạt động phát minh sáng chế. Thế nhưng Chiến lược lại có mục tiêu cụ thể là số lượng công bố quốc tế tăng 10% hàng năm, mà đây là các nghiên cứu hàn lâm ở các đại học vốn không có hay có rất ít liên quan đến nhu cầu đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp. 

Mặt khác giải pháp “thống nhất quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, thúc đẩy mạnh mẽ đổi mới sáng tạo gắn khoa học và công nghệ, nâng cao hiệu quả phối hợp đồng bộ trong xây dựng và thực thi các cơ chế, chính sách thúc đẩy khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo…” (trang 14) vẫn còn là một khẩu hiệu, chứ chưa cho thấy một cách tổ chức để thống nhất quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. 

Đáng ra việc xây dựng đề án thành lập Hội đồng Quốc gia về Khoa học, Công nghệ và Đổi mới Sáng tạo phải là giải pháp căn cơ và ưu tiên nhất, chứ không chỉ là nhiệm vụ thứ 6 của Bộ Khoa học và Công nghệ trong việc tổ chức thực hiện (trang 22), vì Hội đồng Quốc gia này mới thúc đẩy sự phối hợp giữa các cơ quan xây dựng chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nâng cao hiệu quả hoạt động giữa các bộ, ngành và các cấp trong phát triển và ứng dụng kết quả khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo vào phát triển kinh tế - xã hội. 

2.2. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Quyết định số 598/QĐ-TTg ngày 13/3/2025 thành lập Ban Chỉ đạo của Chính phủ về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và Đề án 06 (Ban Chỉ đạo). 

Ban Chỉ đạo có chức năng nghiên cứu, đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, phối hợp thực hiện các chủ trương, chiến lược, cơ chế chính sách, các giải pháp quy mô quốc gia phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, triển khai Đề án 06 và cải cách hành chính.

Theo Quyết định, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính làm Trưởng Ban Chỉ đạo và các Phó Thủ tướng là Phó Trưởng Ban Chỉ đạo. 

Thành lập 03 Tiểu Ban giúp việc cho Ban Chỉ đạo bao gồm:

- Tiểu Ban Triển khai Đề án 06 do đồng chí Bộ trưởng Bộ Công an làm Trưởng Tiểu Ban.

- Tiểu Ban Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số do đồng chí Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ làm Trưởng Tiểu Ban.

- Tiểu Ban Cải cách hành chính do đồng chí Bộ trưởng Bộ Nội vụ làm Trưởng Tiểu Ban.

Tất cả chỉ mới bắt đầu. Nhân lực quan trọng là các nhà chuyên môn thì không biết là ai. 

2.3. Chúng ta nên có giải pháp gì?

Rất nhiều vấn đề và nhiều giải pháp cần được các think tanks (tổ tư duy) nghiên cứu cụ thể để cho những quyết sách tương ứng với cấp độ của tổ chức, của cơ quan có thẩm quyền.

Quá trình tổ chức để tìm ra giải pháp cho một vấn đề có lẽ quan trọng hơn bản thân giải pháp vì nó còn giúp tìm thấy vấn đề mới và giải pháp mới tương ứng. 

Do đó cần xây dựng hệ thống think tanks ở các cấp để có những giải pháp cho những vấn đề về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo: 

- Think tanks cấp chính phủ, cấp bộ, cấp tỉnh thành về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

- Think tanks cấp trường đại học, viện nghiên cứu, doanh nghiệp về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Mặc dầu thực tế chưa có nhiều think tanks ở Việt Nam, nhưng chúng ta cần thành lập và phát triển hệ thống think tanks này. 

2.4. Cốt lõi của vấn đề đó là gì?

Vấn đề cốt lõi là nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của Việt Nam vừa thiếu về số lượng vừa yếu về chất lượng. Đó cũng là nhận định trong Báo cáo Khoa học, Công nghệ và Đổi mới Sáng tạo Việt Nam năm 2020 của Ngân hàng Thế giới và Cơ quan Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp Khối thịnh vượng chung Úc.

Trong Chiến lược có nêu một trong 9 nhiệm vụ giải pháp chủ yếu phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là phát triển các viện nghiên cứu, các trường đại học và các tổ chức khoa học công nghệ khác trở thành các chủ thể nghiên cứu mạnh. Ở phần cuối của nhiệm vụ giải pháp này còn “thu hút các tập đoàn đa quốc gia thành lập các cơ sở nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, các trung tâm đổi mới sáng tạo quốc tế đặt tại Việt Nam”. 

Tuy nhiên với tình hình nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của Việt Nam hiện nay thì khó phát triển các viện nghiên cứu, các trường đại học thành chủ thể nghiên cứu mạnh và rất khó thu hút các tập đoàn đa quốc gia thành lập các cơ sở nghiên cứu quốc tế đặt tại Việt Nam. 

Nhiệm vụ giải pháp thứ 5 là giải pháp cốt lõi, đó là phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo có trình độ và năng lực cao. Một phần của nhiệm vụ giải pháp này là phát triển các mạng lưới kết nối nhân tài khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo người Việt Nam ở nước ngoài, và thu hút sự tham gia của họ vào các đại học, các viện nghiên cứu…

Trong 50 năm qua Việt Nam bị mất mát chất xám rất nhiều. Những người đi du học phần lớn không trở về mà ở lại nước ngoài làm việc, nếu có trở về rồi cũng đi lại. Mất mát đáng kể nhất là thành phần xuất sắc được học bổng đi du học phần lớn không trở về. Việc mất đi nguồn nhân lực có trình độ cao này gây ra những vấn đề lớn cho Việt Nam, đặc biệt là làm chậm lại việc phát triển để chuyển đổi từ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sang một nước công nghiệp hóa, hiện đại. 

Việc mất mát chất xám (brain drain) như thế là hiện tượng chung của các nước đang phát triển. Nhưng khi các nước này phát triển dần và gia tăng mức thu nhập thì có hiện tượng hưởng lợi chất xám (brain gain), những người đi du học và ở lại nước ngoài một thời gian lại quay trở về mang theo nhiều vốn chất xám hơn. Nhiều nước có chương trình chủ động chuẩn bị người cho đi du học và chấp nhận việc họ ở lại nước ngoài làm việc một thời gian rồi thu hút họ trở về làm việc trong nước mà rồi một số người này lại đi ra nước ngoài làm việc và sau đó lại quay trở về nữa. Như thế là từ mất mát chất xám và hưởng lợi chất xám đến tuần hoàn chất xám (brain circulation). Đó cũng là một phần của nhiệm vụ giải pháp thứ 5 trong Chiến lược va được ban hành.

2.5. Trong định hướng nhiệm vụ trọng tâm của Chiến lược có việc sắp xếp hệ thống tổ chức khoa học công nghệ công lập phù hợp với các định hướng ưu tiên về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Chiến lược có nêu nhiệm vụ giải pháp thứ 4 là phát triển các viện nghiên cứu, các trường đại học và các tổ chức khoa học công nghệ khác trở thành các chủ thể nghiên cứu mạnh, trong đó có việc sắp xếp thu gọn đầu mối hệ thống tổ chức viện nghiên cứu công lập, xây dựng và thực hiện đề án chuyển một số viện nghiên cứu công lập hoạt động trong các lĩnh vực cơ bản về trực thược các trường đại học, học viện để thúc đẩy gắn kết giữa nghiên cứu với đào tạo.

Cuộc khủng hoảng kép về số lượng và chất lượng của giáo dục đại học nước ta kéo dài trong bốn thập niên qua có nguyên nhân chủ yếu ở việc tổ chức quản lý hệ thống các trường đại học, trong đó có sự tách rời giữa các trường đại học và các viện nghiên cứu khoa học. Sự tách rời này làm cho những người làm khoa học ở các viện nghiên cứu ít được tham gia giảng dạy và giảng viên đại học bị hạn chế tham gia việc nghiên cứu khoa học, sinh viên đại học và nghiên cứu sinh ở đại học cũng ít được tiếp cận những nhà khoa học giỏi ở viện nghiên cứu. Các trường đại học nhận được kinh phí nghiên cứu rất ít so với các viện nghiên cứu. Chính sự tách rời này làm cho trường đại học chưa thực sự là trung tâm chất lượng về đào tạo và nghiên cứu khoa học. Do đó cần phải cải tổ tổ chức triệt để hệ thống giáo dục đại học và viện nghiên cứu để đào tạo nhân lực chất lượng cho phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, đó là chuyển tất cả các viện nghiên cứu về trực thuộc các trường đại học lớn và việc đào tạo sau đại học được sử dụng kinh phí nghiên cứu để cấp học bổng cho các nghiên cứu sinh toàn thời gian. 

2.6. Vai trò quan trọng trong mô hình liên kết nhà nước - đại học - doanh nghiệp để phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo 

Các Viện Đại học đa lĩnh vực cần được tổ chức lại bao gồm các viện nghiên cứu về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo để trở thành bên cung cho bên cầu là doanh nghiệp về các giải pháp khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Mặt khác thị trường khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa phát triển thì cần nhà nước can thiệp bằng chính sách trong đó việc hỗ trợ kinh phí nghiên cứu là cần thiết để tạo ra động lực cho mô hình liên kết nhà nước - đại học - doanh nghiệp. 

Các Viện Đại học cần có phòng quan hệ doanh nghiệp để nắm bắt và đón đầu nhu cầu cụ thể của doanh nghiệp về nghiên cứu khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo cũng như về đào tạo nhân lực. Kinh phí nhà nước của tỉnh thành, của ngành, của bộ có thể được chi trả cho 30% đến 70% kinh phí nghiên cứu khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong hợp đồng giữa đại học và doanh nghiệp. 

Hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là giữa đại học Việt Nam với đại học nước ngoài hay với doanh nghiệp FDI đang hoạt động ở Việt Nam. Năng lực nhân sự nghiên cứu khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của đại học Việt Nam có vai trò quyết định trong việc hợp tác quốc tế này. Khi các đại học Việt Nam có nhiều chuyên gia từng du học và làm việc ở nước ngoài trở về thì khả năng hợp tác quốc tế này càng cao. Đáng tiếc là năng lực nhân sự nghiên cứu khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của đại học hiện nay chưa đạt được như kỳ vọng.

N.T.T.

Nguồn: FB Tong Nguyen Thien 

 

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn