Từ Nghị quyết đến thực tế – khoảng cách của sự thấu cảm

Tô Văn Trường

Theo Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam có khoảng 2 triệu doanh nghiệp hoạt động, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 60% GDP và thực sự trở thành một động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng hai con số trong những năm tới. Đây là một tầm nhìn lớn, thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ trong việc khơi dậy và phát huy các nguồn lực xã hội cho phát triển đất nước.

Tuy nhiên, từ nghị quyết đến thực tế luôn tồn tại một độ trễ nhất định. Rời khỏi các văn bản chính sách và những diễn đàn hoạch định vĩ mô để đi vào đời sống mưu sinh thường nhật của hàng triệu người dân, đặc biệt là khu vực hộ kinh doanh cá thể, có thể nhận thấy một thực tế khác: khát vọng cải cách đang va chạm trực tiếp với những áp lực rất cụ thể của cơm áo, chi phí và rủi ro sinh kế. Khoảng cách giữa chính sách và đời sống, nếu không được nhận diện đầy đủ và xử lý đúng cách, sẽ không tạo ra động lực mà thậm chí có thể trở thành lực cản đối với chính mục tiêu mà nghị quyết đã đặt ra.

Doanh thu không đồng nghĩa với thu nhập

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, đến hết năm 2023 cả nước có khoảng 5,2 triệu hộ 

kinh doanh cá thể, sử dụng hơn 8 triệu lao động và đóng góp xấp xỉ 30% GDP. Đây là khu vực có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo việc làm, duy trì sinh kế và bảo đảm ổn định xã hội, nhất là trong bối cảnh đô thị hóa nhanh và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở khu vực nông thôn.

Trong bối cảnh đó, dự thảo chính sách thuế với ngưỡng doanh thu chịu thuế 500 triệu đồng mỗi năm được kỳ vọng là một bước “nới lỏng” nhằm khuyến khích minh bạch hóa hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi lại nằm ở chỗ doanh thu đang được sử dụng như một chỉ báo thay thế cho thu nhập.

Thực tế khảo sát cho thấy, biên lợi nhuận của phần lớn hộ kinh doanh nhỏ trong các lĩnh vực ăn uống, bán lẻ chỉ dao động khoảng 3 - 5%. Với mức doanh thu 500 triệu đồng mỗi năm, lợi nhuận thực tế chỉ vào khoảng 15 - 25 triệu đồng, tương đương 1,2 - 2 triệu đồng mỗi tháng. Con số này thấp hơn rất nhiều so với thu nhập bình quân tháng của người lao động năm 2023, ở mức khoảng 7,1 triệu đồng theo công bố của Tổng cục Thống kê.

Trong điều kiện như vậy, việc coi hơn 5 triệu hộ kinh doanh cá thể là “nguồn dự trữ” để chuyển đổi nhanh thành doanh nghiệp cần được nhìn nhận một cách thận trọng và thực tế hơn. Một thực thể kinh tế chỉ tạo ra vài chục triệu đồng lợi nhuận mỗi năm khó có thể gánh vác đầy đủ các chi phí kế toán, bảo hiểm xã hội, thuế thu nhập doanh nghiệp cùng nhiều nghĩa vụ tuân thủ khác. Nếu thiếu các cơ chế chuyển tiếp hợp lý, quá trình “lên doanh nghiệp” rất dễ trở thành gánh nặng, thậm chí làm triệt tiêu động lực kinh doanh vốn đã mong manh.

Nghịch lý trong thực thi minh bạch

Minh bạch hóa dòng tiền, mở rộng áp dụng hóa đơn điện tử là chủ trương đúng đắn, 

phù hợp với định hướng xây dựng nền kinh tế số và quản trị hiện đại. Tuy nhiên, minh bạch chỉ thực sự phát huy tác dụng khi đi kèm với năng lực chịu đựng và khả năng tích lũy của đối tượng thực thi.

Một nghịch lý đang hiện hữu là sự chênh lệch trong cách tiếp cận thuế giữa các khu vực thu nhập. Theo Luật Thuế thu nhập cá nhân hiện hành, người làm công ăn lương có thu nhập chịu thuế sau giảm trừ gia cảnh ở mức khoảng 240 triệu đồng mỗi năm có thể không phải nộp thuế. Trong khi đó, một hộ kinh doanh muốn đạt được mức thu nhập ròng tương đương lại có thể phải tạo ra doanh thu lên tới vài tỷ đồng mỗi năm, nhưng vẫn bị đưa vào diện quản lý thuế ngay từ mốc 500 triệu đồng doanh thu.

Sự bất cân xứng này dễ dẫn tới tâm lý e ngại và né tránh. Thay vì mở rộng quy mô để trở thành doanh nghiệp chính thức như mục tiêu của Nghị quyết 68, không ít hộ kinh doanh có xu hướng thu hẹp hoạt động, chia nhỏ doanh thu hoặc lùi sâu hơn vào khu vực phi chính thức. Khi đó, mục tiêu minh bạch không những khó đạt được mà còn tiềm ẩn nguy cơ phản tác dụng.

Tín hiệu cảnh báo từ mặt bằng giá sinh hoạt

Những thay đổi trong chính sách, dù mới ở giai đoạn dự thảo, đã nhanh chóng phản 

ánh vào đời sống kinh tế - xã hội. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) nhóm ăn uống ngoài gia đình trong năm 2024 và những tháng đầu năm 2025 tăng cao hơn mức tăng CPI chung. Việc nhiều món ăn bình dân tăng giá vài nghìn đồng không chỉ là câu chuyện nguyên liệu đầu vào, mà còn phản ánh tâm lý phòng ngừa rủi ro và chi phí tuân thủ gia tăng của các hộ kinh doanh nhỏ.

Đây là tín hiệu sớm của lạm phát chi phí đẩy. Nếu tăng trưởng được xây dựng chủ yếu trên việc gia tăng gánh nặng cho khu vực có khả năng chống chịu thấp, hệ quả có thể là sức mua suy giảm và mức sống của người dân bị ảnh hưởng. Những con số GDP tích cực sẽ khó bù đắp được cảm nhận “đắt đỏ hơn” trong bữa ăn hằng ngày của người lao động.

Kinh nghiệm quốc tế: Không ai đánh thuế bằng doanh thu thô

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các nền kinh tế thành công trong việc nuôi dưỡng khu vực kinh doanh nhỏ đều rất thận trọng trong cách tiếp cận thuế và minh bạch hóa. 

Tại Hàn Quốc, quốc gia từng có tỷ trọng hộ kinh doanh nhỏ lẻ lớn trong giai đoạn công nghiệp hóa, chính phủ áp dụng chế độ thuế khoán đơn giản cho tiểu thương nhưng luôn dựa trên ước tính lợi nhuận, đồng thời miễn hoặc giảm mạnh nghĩa vụ thuế trong giai đoạn đầu. Chỉ khi hộ kinh doanh tích lũy đủ vốn và quy mô, họ mới được khuyến khích chuyển đổi thành doanh nghiệp, kèm theo các gói hỗ trợ về kế toán và tín dụng.

Tại Trung Quốc, khu vực công thương cá thể từng chiếm hơn 60% việc làm đô thị. Trong nhiều năm, các hộ này được miễn thuế hoặc áp dụng thuế suất rất thấp, dựa trên lợi nhuận ước tính thay vì doanh thu danh nghĩa. Cách tiếp cận này giúp duy trì sức sống của kinh tế dân sinh, tạo nền tảng để hàng triệu hộ kinh doanh từng bước lớn lên và đóng góp vào tăng trưởng mà không bị “bóp nghẹt” ngay từ giai đoạn manh nha.

Ngay cả tại các nước OECD, nguyên tắc chung là đánh thuế dựa trên thu nhập ròng, với hệ thống khấu trừ chi phí rõ ràng và ngưỡng chịu thuế cao cho doanh nghiệp siêu nhỏ. Minh bạch hóa được triển khai song song với hỗ trợ kỹ thuật và số hóa chi phí thấp, nhằm giảm gánh nặng tuân thủ trong giai đoạn đầu.

Những kinh nghiệm này cho thấy một điểm chung: không nền kinh tế nào kỳ vọng khu vực kinh doanh nhỏ trở thành động lực tăng trưởng bằng cách đánh thuế trên doanh thu thô và gia tăng nghĩa vụ hành chính ngay từ đầu. Thay vào đó, họ kiên nhẫn nuôi dưỡng, chấp nhận độ trễ cần thiết và coi tích lũy tự nhiên của khu vực này là nền móng cho tăng trưởng dài hạn.

Thu hẹp khoảng cách bằng chính sách thực chất

Khoảng cách từ nghị quyết đến thực tế, xét đến cùng, không chỉ là khoảng cách của cơ 

chế hay kỹ thuật quản lý, mà sâu xa hơn là khoảng cách của sự thấu cảm và tính thực chất trong thiết kế chính sách.

Muốn khu vực hộ kinh doanh trở thành một động lực tăng trưởng bền vững, chính sách không thể chỉ dựa vào các công cụ quản lý và chế tài hành chính. Điều cần thiết là một cách tiếp cận cân bằng và nhân văn hơn: từng bước chuyển sang đánh thuế dựa trên lợi nhuận thực thay vì doanh thu danh nghĩa; đồng thời có chính sách hỗ trợ thiết thực về chuyển đổi số, kế toán, hóa đơn và tuân thủ pháp luật, phù hợp với năng lực chịu đựng của từng nhóm đối tượng.

Quan trọng hơn, cần thiết kế một lộ trình đủ dài và đủ linh hoạt để khu vực hộ kinh doanh có thời gian tích lũy, lớn lên một cách tự nhiên, trước khi được khuyến khích chuyển đổi thành doanh nghiệp. Chỉ khi nào sự trưởng thành của thị trường song hành với sự nâng đỡ của chính sách, mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân mới có thể đạt được một cách bền vững và thực chất.

Khát vọng đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh và bền vững, hướng tới những mục tiêu lớn của thập niên tới, không thể tách rời sức sống của hàng triệu sinh kế nhỏ bé đang vận hành mỗi ngày trong đời sống xã hội. Khi những nền tảng mưu sinh ấy được nhìn nhận đúng, được bảo vệ và được nuôi dưỡng bằng các chính sách hợp lý, nghị quyết sẽ không dừng lại ở văn bản, mà thực sự đi vào cuộc sống, trở thành động lực lan tỏa cho phát triển và đồng thuận xã hội.

T.V.T.

Tác giả gửi BVN

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn