Tương lai: Vàng hay người?

Ngô Nhân Dụng

Ðộc giả Người Việt đang bàn tán về kế hoạch “huy động vàng” của Nhà nước Cộng sản Việt Nam. Ngày đầu Tháng Bảy, ông Nguyễn Xuân Phúc họp chính phủ đã “giao Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu” vấn đề “huy động vàng” để lấy vốn tăng tưởng kinh tế. Bên ngoài, Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam đã đề nghị thành lập sàn giao dịch vàng, tương tự thị trường mua bán chứng khoán.

Dân Việt Nam đang cất giữ một “kho vàng”, hơn 13 triệu lượng, khoảng 20 tỷ đô la, bằng 10% Tổng sản lượng nội địa. Ðảng Cộng sản chắc vẫn nhìn vào 500 tấn vàng của dân với con mắt thèm thuồng. Bây giờ họ không thể tổ chức “Tuần lễ vàng” như thời 1946, vì dân Việt đã mở mắt rồi. Nay bỗng nhiên, đảng lại đưa vấn đề “huy động vàng” lên hàng quốc sách! Một lý do dễ hiểu là “đảng ta” cần tiền! Một nguồn thu lớn trước đây trong ngân sách là dầu lửa. Từ ba năm nay, giá dầu thô thế giới tụt từ 140 đô la xuống dưới 50 đô la một thùng. Tiền bán dầu giảm 57%, ngân sách, mất 255 triệu đô la. Huy động vàng có hy vọng bù lấp vào lỗ hổng đó chăng?

Nhưng muốn phát triển kinh tế, “thấy vàng là tối mắt” không thể trở thành một chính sách quốc gia đứng đắn và lâu dài.

Trong thế giới hiện nay, sức mạnh kinh tế không tùy thuộc vào những nguyên liệu và nhiên liệu đào từ dưới đất lên nữa. Sức mạnh lớn nhất là trí óc, là những con người có cái đầu chứa kiến thức. Con người chính là những “mỏ vàng” của quốc gia. Nước Việt Nam sẽ mạnh hay yếu là do có khai thác được kho tàng đó hay không.

Những mỏ vàng này là con người, tất cả tự có nhu cầu sống. Cho nên họ cũng không chịu “nằm ngủ” yên dưới đất. Những con người đó tự họ phải “cựa quậy”, không cần ai “huy động”. Vì thế, rất nhiều người phải “đứng dậy” tìm dường kiếm sống cho chính mình, và giúp kinh tế phát triển. Chúng ta có thể lạc quan khi theo dõi hoạt động kinh doanh của giới trẻ Việt Nam, nhất là trong vùng thành phố Sài Gòn trong mấy năm gần đây. Hàng ngàn người đã dấn thân vào đường kinh doanh, và đã thành công trong ngành tin học áp dụng.

Một bản tin trên trang mạng The News Lens (viết tên chữ Hán là Quan kiện Bình luận, 關鍵評論), nhà phân tích kinh tế Liu Tong cho biết trong bốn tháng đầu năm 2017 đã có 39,580 dự án kinh doanh mới (start ups) ra đời, số vốn sẽ lên tới 370 tỷ đồng, tương đương với 17 tỷ đô la. Con số này lớn cũng gần bằng giá trị vàng trong cả nước, chứng tỏ con người và tri thức là một kho tàng nhiều triển vọng cao gấp bội vàng.

Những dự án kinh doanh mới này đều do tư nhân, phần lớn là những người trẻ tuổi khởi xướng. Năm ngoái, có 110,000 dự án và xí nghiệp mới ra đời, mà Bộ Kế hoạch-Ðầu tư cho biết 90% đã khai thuế; năm nay có thể sẽ tăng thêm hơn 10%. Trong môi trường các doanh nghiệp mới, những “start ups” nổi bật nằm trong lãnh vực “kinh tế tri thức”, dùng Internet, điện thoại di động, mua bán và phục vụ qua mạng Internet.

Một vụ thành công nổi tiếng ở Mỹ đã khích lệ giới trẻ Việt Nam bước vào đường kinh doanh tự lập là chuyện Misfit Wearables. Công ty này bán những hàng hóa “Wearables, đeo được”, thí dụ, những chiếc đồng hồ “tinh khôn” rẻ và đẹp với giá 50 đến 100 đô la, chiếm phần thị trường thấp hơn các đồng hồ giá 500 đô la như Apple của Google! Năm 2015 đã được đại công ty Fossil mua với giá 260 triệu đô la. Khi bán Misfit, một nhà sáng lập Sonny Vũ, 42 tuổi, vốn đã hợp tác với Apple, nay trở thành Chủ tịch của công ty Fossil mới, đang bán 50 triệu đồng hồ một năm, với những bạn hàng lớn như Adidas, Emporio Armani, DKNY,…

Lên sáu tuổi khi cùng gia đình tìm tự do, Sonny Vũ đã trở về Sài Gòn tìm cơ hội kinh doanh. Nhưng 100 nhân viên trong công ty của anh ở Sài Gòn chỉ phục vụ cho thị trường ngoại quốc, không chế tạo một thứ hàng nào bán trong nước! Từ Việt Nam, công ty đã “xuất cảng” món hàng “tri thức” là các tác quyền, bằng sáng chế. Vũ cho biết, giấy quảng cáo và website của công ty anh đã được dịch qua 17 ngôn ngữ, kể cả tiếng Do Thái và tiếng Tagalog của Philippines. Nhưng chưa có bản tiếng Việt!

Nhưng thành công của Misfit Wearables đã trở thành một huyền thoại trong giới trẻ tốt nghiệp đại học. Từ hai năm nay, rất nhiều người đã bắt đầu tự gây vốn kinh doanh, không chịu sống cuộc đời làm công “sớm vác ô đi tối vác về,” dù có an toàn hơn.

Một gương thành công là anh Trần Tuấn Anh, 33 tuổi. Năm 2013, anh bắt đầu dùng mạng Ticketbox “bán vé” dự các cuộc trình diễn. Trong 9 tháng đầu, số thu tăng lên 24 lần. Và Ticketbox đã tiến sang các thị trường Singapore, Thái Lan và đang nhắm sẽ qua các nước Ðông Nam Á khác.

Nhà sáng chế Nguyễn Ðồng là tác giả trò chơi điện tử Flappy Bird, đã bán sản phẩm tinh thần của mình và mỗi ngày được trả 50,000 đô la tiền bản quyền. Một thành công khác là Big Cat Entertainment, sản xuất các video phổ biến trên mạng, nay đã bán cho tập đoàn Asia Innovations Group. Cô Trương Thủy cũng bán sản phẩm của mình, Tappy, một “áp” (app) dùng trong mạng xã hội cho công ty Weeby, ở Silicon Valley.

Nhà kinh doanh Nguyễn Khôi đã lập công ty WeFit, nhắm vào các khu tập thể dục, vận động. Sau bốn tháng hoạt động, WeFit đã có 500 hội viên đóng tiền và hợp tác với 150 nhà thể dục thể thao. Thể dục là một thị trường lớn với số doanh thu 60 triệu đô la mỗi năm và tăng trưởng 20% một năm.

Một dự án kinh doanh đáng chú ý nhất có lẽ là Mimosatek, ra đời năm 2015, vì họ dùng kỹ thuật tin học giúp cho các nhà trồng trọt tính toán số nước cần tưới cây mỗi ngày. Cô Lê Lan Anh, Tổng giám đốc Công ty cho biết họ giúp các nông gia lập hệ thống tưới nước tự động. Cô cho biết một nhà trồng trọt, đã tiết kiệm được 30% số nước tưới, số điện dùng để chạy máy tưới, và năng suất tăng thêm 25% mà chỉ dùng điện thoại tinh khôn (martphone) điều khiển! Từ số thân chủ 35 người, công ty hy vọng sẽ lên tới 200 trong vòng một năm!

Nhà kinh doanh trẻ Ðinh Việt Hùng lập Công ty Designbold vào Tháng Mười năm 2016; dùng kỹ thuật tin học trong việc thiết trí hình ảnh. Trong hai tuần lễ, công ty đã thâu 130,000 đô la và mỗi tháng 8,000 người sử dụng hơn một nửa trở lại. Một nhà kinh doanh Mỹ gốc Việt, Trần Hùng với Công ty GotIt ở Mỹ đã góp phần khuyến khích các đồng nghiệp trong ngành này ở trong nước; GotIt đã chịu đứng hạng nhì, nhường chức quán quân trong giải “Best Startup of the Year” cho Designbold.

Có hàng ngàn nhà kinh doanh trẻ ở trong nước có triển vọng sẽ thành công như các thí dụ trên.

Trong dân số hơn 90 triệu, một nửa là những người tuổi dưới 35, Việt Nam có 37 triệu người đang dùng Internet và 29 triệu người dùng smartphone. Hiện nay Việt Nam đã trở thành một nơi được các công ty quốc tế khai thác để sử dụng nguồn “năng lượng tri thức”, như nhà kinh doanh Sonny Vũ đang làm. Với đầu óc sáng tạo, cần cù sẵn có, khối người trẻ này sẽ giúp Việt Nam sẵn sàng trở thành đất dụng võ cho “kinh tế tri thức”. Nếu họ có đủ điều kiện để phát triển. Một điều kiện không thể thiếu được, là các quyền tự do, bắt đầu với tự do kinh doanh.

Câu hỏi là: Chính quyền Cộng sản Việt Nam có thể chuẩn bị môi trường cho “kinh tế tri thức” phát triển hay không?

Nếu họ chỉ nghĩ đến vàng mà không biết đến người thì không có hy vọng. Chúng tôi sẽ nêu lên những khó khăn trong môi trường kinh doanh trong một bài tới.

N.N.D.

Nguồn: http://www.nguoi-viet.com/binh-luan/tuong-lai-vang-hay-nguoi/

Thời sự kinh tế: Mỏ vàng doanh nhân trẻ

Ngô Nhân Dụng

Những đảng viên Cộng Sản không được học khái niệm về “ecosystem”. Chủ nghĩa Mác xít nhìn thế giới như một bộ máy, như cái đồng hồ, vì thời Karl Marx còn sống ông chỉ có thể thấy “mô hình” đó. Lối nhìn máy móc này khiến các lãnh tụ cộng sản nghĩ kinh tế thị trường một cách máy móc, hư đâu sửa đó. Vì vậy, kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục tụt hậu so với lân bang. Vì có một mỏ vàng không được khai thác, là giới kinh doanh trẻ tuổi.

Tạm dịch “ecosystem” là một “hệ sinh thái” (người Trung Hoa gọi là sinh thái hệ thống, 生態系統) (chữ eco ở đây viết tắt ecology, sinh môi, không phải economics, kinh tế). Một hệ sinh thái bao gồm các sinh vật, sống với nhau và những thứ vô tri giác. Tất cả tác động lẫn nhau, tạo nên một hệ thống sinh thái. Thung lũng điện tử ở vùng Vịnh California là một hệ sinh thái kinh tế. Những người sống trong đó thành công nhờ hợp tác và cạnh tranh với những người khác, có những quy luật kinh doanh, những nguồn vốn, gần gũi các nhà cung cấp và thị trường tiêu thụ, và cả một hệ thống pháp luật  của nước Mỹ bảo vệ các quyền tự do và quyền tư hữu.

Sonny Vũ thành công ở Thung lũng Điện tử, như đã kể trong bài trước, vì đã từng làm việc với các người lãnh đạo Công ty Apple, như John Sculley, người sau này cùng Vũ và Sridhar Iyengar lập ra Công ty Misfit. Misfit thành công vì hoạt động ở nước Mỹ chứ không ở bên Tàu hay Việt Nam. Khi về làm việc trong nước, Sonny Vũ gặp những hạn chế, không thể phát triển lớn hơn mấy trăm nhân viên.

Những nhà kinh doanh trẻ Việt Nam còn ở vị thế bất lợi hơn một người Mỹ gốc Việt như Vũ. Họ không những thiếu cơ hội phát triển tài năng mà còn bị gò bó trong một chế độ chưa hiểu biết gì về sinh thái của kinh tế hiện đại.

Lâu lâu, các nhà kinh doanh trẻ này được mở mang tầm mắt nhờ gặp gỡ và cộng tác với những người Việt ở nước ngoài trở về hay khách nước ngoài. Một người trẻ dự cuộc gặp gỡ giữa Tổng thống Barack Obama ở Sài Gòn năm trước cho biết anh và các nhà kinh doanh trẻ cảm thấy đầy phấn khởi khi nghe ông Tổng thống Mỹ nói chuyện; cũng như khi họ được gặp hai người lãnh đạo Công ty Google, Mike Cassidy và Sundar Pichai. Họ thâu nhận kiến thức mới; nhưng quan trọng hơn nữa là họ tập nhiễm thói quen mới, có ý thức về quyền tự do suy nghĩ, tự do mơ ước, tự do hy vọng của chính mình!

Nhưng dù được khích lệ bao nhiêu, khi đụng chạm tới thực tế, các nhà kinh doanh trẻ sẽ thấy Sài Gòn hay Hà Nội chưa có một hệ sinh thái để phát triển tài năng. Sonny Vũ kể rằng nhân viên của Misfit tại Sài Gòn có thể làm rất nhiều công việc, nhưng thứ họ thiếu nhất là khả năng sáng tạo các sản phẩm mới (product development). Một sản phẩm thành công của công ty Misfit là Link App, cho phép người dùng điện thoại nghe nhạc và tự chụp hình dễ dàng hơn bằng cách bấm một cái nút. Mọi việc sáng chế ra Link App đều làm ở Sài Gòn. Nhưng công tác họa kiểu (product design) vẫn phải nhờ các đồng nghiệp sống ở Mỹ, trong đó chắc có nhiều người Việt trẻ tuổi khác.

Người Việt mình không thiếu sáng kiến, Chính Sonny Vũ nói, trong một bài phỏng vấn với CNET, rằng tất cả các “ý tưởng lớn” đều có thể vay mượn (Anh nói mạnh hơn – ăn trộm: All the great ideas are stolen). Vậy tại sao các kỹ sư trẻ tuổi ở nước ta chưa có được những khả năng như các đồng nghiệp sống ở Mỹ (và ngay cả ở bên Tàu)? Bởi vì Việt Nam thiếu một “hệ sinh thái” thích hợp cho giới kinh doanh.

Trong bài của Liu Tong, đăng trong mạng The News Lens (Quan kiện Bình luận), nhà phân tích này cho biết trong bốn tháng đầu năm 2017, có 38,590 dự án kinh doanh mới ra đời (startups), nhưng cũng có 27,400 doanh nghiệp ngưng hoạt động và hơn 4,000 đóng cửa luôn. Nghĩa là chỉ có thêm khoảng 7,000 doanh nghiệp mới. Tại sao có nhiều dự án kinh doanh phải ngưng hoặc chấm dứt hoạt động như vậy? Trong bài viết nêu trên, Liu Tong đã nêu ra những khó khăn trong môi trường kinh doanh ở nước ta.

Chính nhà nước Cộng sản cũng công nhận đến 90% các dự án kinh doanh đã thất bại. Tỷ lệ dó có thể coi là bình thường, vì tất cả các dự án, các xí nghiệp mới đều rất nhiều rủi ro. Những công ty thành công như Microsoft, Google, Facebook vượt lên sống được trong những “nghĩa địa” với hàng chục, hàng trăm ngàn “xác chết” của những doanh nghiệp cùng theo đuổi một kỳ vọng và mục tiêu!

Nhưng nếu các doanh nghiệp mới bị thất bại là chuyện bình thường, thì có một thứ bất bình thường là cái chết của mấy chục ngàn doanh nghiệp trong nước Việt Nam không phải do thiếu tài năng, thiếu sáng kiến! Lý do chính là họ bị cơ chế chính trị, kinh tế, xã hội bóp đến nghẹt thở. Hơn thế nữa, còn bao nhiêu những dự án kinh doanh không bao giờ được mở mắt chào đời, vì không có một hệ sinh thái thích hợp làm mụ đỡ.

Nhìn các nước chung quanh, phải cảm thấy xấu hổ! Trong lãnh vực mua bán trên mạng (e-commerce), hiện nay Việt Nam là thị trường nhỏ nhất trong vùng Đông Nam Á mặc dù dân số cao nhất! Mặc dầu thị trường này có khả năng sẽ tăng trưởng rất nhanh, hơn 10% một năm. Công ty giao hàng UPS cũng nghiên cứu thị trường Việt Nam và thấy đó là một mỏ vàng chưa được khai thác.

Các công ty nho nhỏ của người Việt đã thành công những bước đầu, nhưng nếu muốn bành trướng sẽ gặp rất nhiều chướng ngại. Từ năm 2012, Sài Gòn có mạng Giaohangnhanh, được nhiều người sử dụng để “giao hàng nhanh” như họ tự giới thiệu. Mạng Chopp chuyên giao hàng cho các siêu thị, người mua có thể dùng những “app” đặt mua, với hứa hẹn trong vòng một giờ sẽ tới.

Tất cả các công ty loại này đều bị cản trở vì chưa có một hệ sinh thái thích đáng; từ chi phí chuyên chở đắt tiền và hay tắc nghẽn cho tới tinh thần của người tiêu thụ. Trong kinh tế Việt Nam, phí tổn về tiếp vận (logistics costs) cao bằng 20% Tổng sản lượng Nội địa, quá cao so với tỷ số trung bình của Ấn Độ (13%), Trung Quốc 15% hay 8% ở Mỹ.

Chướng ngại khó vược qua hơn nữa là mặt tinh thần: Lòng tin của những người tiêu thụ quá thấp. Người Việt Nam chưa có thói quen đặt tin tưởng vào những lời hứa của “người dưng nước lã!” Cũng vì cả xã hội đã mất niềm tin giữa con người với con người, hậu quả của một chế độ chuyên ăn gian nói dối! Vì vậy, hoạt động mua bán trên mạng, e-commerce, mới xâm nhập được dưới 1% thị trường bán lẻ ở Việt Nam, trong khi đã tiến tới 8% ở Trung Quốc khi được các đại công ty như Alibaba dẫn đầu.

Chưa hết, tất cả các doanh nghiệp dùng tin học đều bị đè nặng dưới điều 292 trong Bộ luật Hình sự. Ở các nước tự do dân chủ người ta có thể bắt đầu việc kinh doanh trước khi làm giấy tờ hợp thức hóa ở cơ quan hành chánh. Nhờ thế, nhiều doanh nghiệp ra đời, bán thử trong thị trường, kêu gọi vốn một cách dễ dàng.

Điều 292 cấm người Việt Nam không được cung cấp các dịch vụ trên mạng (online) nếu chưa có giấy phép! Ai làm sẽ bị coi là phạm tội hình! Sau khi bao nhiêu người phản đối, năm 2016 điều này mới được sửa đổi! Nhưng còn biết bao nhiêu thứ cấm đoán, ràng buộc, luật lệ kìm hãm sức phát triển kinh doanh của người dân, hệ sinh thái kinh doanh bị bóp nghẹt.

Nhưng các nhà kinh doanh trẻ trong nước còn gặp những chướng ngại cao như núi khác do chế độ dựng nên.

Trong bài của Liu Tong viết trên mạng The News Lens nêu ở trên, ông đưa ra mấy chướng ngại chính. Đầu tiên là không có nguồn vốn cho các doanh nghiệp tư nhân mới. Vốn đầu tư mạo hiểm (VC, venture capital) còn chưa thành hình. Hệ thống tài chánh của chế độ ưu đãi các doanh nghiệp nhà nước và bạc đãi tư nhân. Hiện nay hầu hết các công ty mới ra đời với tầm cỡ lớn đều do người nước ngoài tài trợ. Thí dụ, Mono, làm dịch vụ trả tiền trên mạng, đã được các ngân hàng  Standard Chartered và Goldman Sachs góp vốn 28 triệu Mỹ kim.

Nạn tham nhũng là chướng ngại lớn không khác gì bị kỳ thị trong hệ thống ngân hàng. Tư doanh bị gò ép gạt ra ngoài hệ thống cung cấp hàng hóa hay dịch vụ cho các cơ quan nhà nước. Chi phí “bôi trơn” của các xí nghiệp khiến cho tất cả đều kém hiệu năng (efficiency). Nếu họ có cạnh tranh được với các công ty trong nước, họ có thể chịu thua khi phải đối đầu với những công ty nước ngoài, nơi các quan tham nhũng không “tàn bạo” như các cán bộ đảng, vì chính những cán bộ này cũng phải dâng tiền lên cấp trên.

Chướng ngại lớn thứ ba mà Liu Tong nêu ra là hệ thống giáo dục yếu kém. Những người sáng lập các kinh doanh mới đều có học và tự học hỏi, và họ có thể phát đạt nhanh lúc khởi đầu vì thu hút được những người cùng trình độ và hoàn cảnh. Nhưng số người đó có giới hạn; khi  tới một trình độ cao hơn, muốn mở rộng thị trường, thì họ sẽ thiếu nhân viên đủ khả năng vì các đại học kém cỏi!

So với ba chướng ngại kể trên thì Liu Tong thấy nỗi khó khăn lớn nhất cho giới trẻ Việt Nam là thiếu một hệ sinh thái thích hợp cho công việc kinh doanh. Ông nhận xét rằng những nhà kinh nước ta đang thành công đều sống trong một ốc đảo, giữa cái hệ sinh thái chung quanh. Họ thành công nhờ đứng ngoài lề, không khác gì các bloggers thành công nhờ đi trên lề đường bên trái, khác các báo đài của đảng cộng sản!

Vì vậy, tất cả các người đã thành công kinh doanh trong ngành tin học và mạng lưới thường đứng bên lề, chân trước chân sau, và im hơi lặng tiếng! Họ có thể được đào tạo ở đại học Mỹ hay Úc, hoặc đã từng làm cho các công ty ngoại quốc, rồi tự ý rời bỏ công việc ở Facebook ra làm ăn riêng! Hoặc một số chuyên gia hẹn gặp nhau ở Singapore bàn chuyện mở một dự án chung. Hoặc một công ty ngoại quốc đến Việt Nam tìm cơ hội sử dụng các kỹ sư có tài và nhận lương thấp hơn ở Thái Lan hay ỏ Mỹ.

Tình trạng trên cho thấy chế độ Cộng Sản đang kìm hãm sức phát triển của giới kinh doanh trẻ trong nước. Mà đó chính là một kho vàng!

Một Giáo sư người Mỹ đi thăm nước Israel sau khi các nước Á Rập đang bắt chẹt Tây phương bằng cách tăng giá dầu lửa. Ông hỏi một bạn đồng nghiệp người Israel rằng nước ông ta không có dầu lửa, làm sao chống cự lâu dài với lân bang? Vị Giáo sư Israel đưa người hỏi tới một thư viện đại học, chỉ vào các sinh viên đang chúi đầu vào sách hoặc vào máy vi tính, nói: “Đây là mỏ dầu lửa của chúng tôi!”

Việt Nam đang tranh đấu với Trung Cộng dành quyền làm chủ những mỏ dầu nằm dưới đấy Biển Đông. Nhưng trong lúc đó, những mỏ vàng quý báu trong nước ta đang  bị bỏ quên uổng phí! Muốn phát triển kinh tế, tạo ra một ecosystem mới, phải xóa bỏ chế độ độc tài toàn trị.

N.N.D.

Nguồn: http://www.nguoi-viet.com/binh-luan/thoi-su-kinh-te-mo-vang-doanh-nhan-tre/

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn