Tháng 3/1975, cuộc di tản kinh hoàng trên con đường máu tỉnh lộ 7B (Phần 8)

Nguyễn Đình Nguyên 

Người Tuy Hòa 

Như một sự mầu nhiệm, sau gần 2 tuần, bị vùi dập trong lửa đạn, đạn pháo vẫn tiếp tục né tránh gia đình tôi không dưới 3 lần cầm chắc sự chết. Vẫn còn nguyên vẹn 9 nhân khẩu rưỡi (vì em út 8 tháng vẫn cứ ngáp cá, hấp hối). Sau một ngày bị đạn cày xới không ngớt suốt dọc Đường 5, đoàn dân và quân sống sót lại lê lết trong bê bết bùn và máu hướng về Tuy Hòa. Những địa danh như Cầu Cháy, Núi Lá và Hòn Sặc, chỉ nhắc lại là tôi còn rợn người, nổi gai ốc. 

May sao có mấy chiếc xe đò và xe nhà binh còn sử dụng được, chúng tôi được cho quá giang, băng qua cầu Đà Rằng vô thị xã Tuy Hòa. 

Nhà tôi và đoàn người về đến Tuy Hòa là vào khoảng trưa, nhưng có lẽ quân và dân trong tốp đầu đã đến trước từ nửa đêm hôm qua, và cũng không còn ở đó. Trên đường vô Tuy Hòa, hễ cứ thấy nhà dân là mọi người không ai bảo ai đều tấp vô. Ngược lại, dân chúng địa phương ai còn chưa đi đều ra trước ngõ đón mọi người vào.

Chúng tôi vào nhà của một gia đình buôn bán nhỏ ngay đầu thị xã Tuy Hòa, nằm ngay ven lộ. Gia đình không thuộc loại giàu, nhưng theo trí nhớ của tôi thì có lẽ cũng gọi là tương đối ở cái thị xã bé nhỏ này thời đó. 

Đón chúng tôi là một bác gái trạc chừng tuổi má tôi, 40, dáng người đậm, tầm thước, mặt tròn, tóc dài búi, gương mặt phúc hậu. Tôi không còn nhớ tên bác ấy nữa. Bác đon đả dẫn chúng tôi vô nhà, miệng bác liên tục "Tội mấy đứa nhỏ quá, tội quá, tội quá!". Trước mặt chúng tôi, ở dưới sàn nhà là mâm cơm vừa xong của gia đình. Tôi nhớ hình như nhà bác có khá đông con, cũng chừng 5 hay 6, lứa cũng trạc tụi tôi.

Thấy đồ ăn còn lại ở trên mâm, đám em tôi ùa tới. Má tôi ngăn lại. Còn bác chủ nhà thì bảo nhà vừa mới xong bữa trưa nên không còn nhiều, mà ăn đồ thừa không được đâu, phải tội bác. Bác bảo chúng tôi đi ra tắm rửa đi, chờ bác nấu cơm, nhanh thôi rồi vô ăn. Nhưng chẳng có đứa nào trong chúng tôi có tâm trí đi tắm rửa cả. Mùi thức ăn bác đang nấu, mùi nước mắm, mùi chiên xào, mùi cơm gạo mới Tuy Hòa từ trong bếp tỏa ra, liên tục tra tấn chúng tôi. 

Đói hai tuần chúng tôi còn chịu nổi, giờ chỉ có mấy chục phút chờ mà tưởng dài vô tận. Mấy em tôi giục hỏi "Chừng nào mình được ăn anh?", mắt thì dõi vào bếp, đứa thì khóc leo nheo. Cả đám chúng tôi nuốt nước dãi không ngớt. Út nhà tôi thì vẫn như một cái xác không hồn, lâu lâu mới thở một nhịp, má vẫn bọc và ôm em để giữ hơi ấm cả hơn tuần qua.

Thế rồi bữa cơm cũng được dọn ra. Trong đời tôi kể cả khi ra hải ngoại, từng được hưởng nhiều món sơn hào hải vị đắt tiền ở những nơi sang trọng và quý phái, nhưng chưa, và có lẽ không bao giờ tôi tìm lại được ấn tượng nào mạnh hơn lúc đó. 

Khi mới chỉ được nhìn thấy một nồi cơm trắng, mâm thức ăn có cá kho, thịt kho và rau đặt xuống sàn nhà, gần như toàn bộ mọi cảm xúc và năng lượng còn lại trong tôi bùng lên, một bản năng cảm nhận sự ngon đến lạ lùng. Cái ngon được thưởng thức đến từ nấc tận cùng của sự đói khát và kiệt sức!

Chúng tôi đồng loạt đứng lên, nhưng ba má tôi ngăn lại. Không ai bảo ai, cả ba má tôi tự động lại trước mặt bác chủ nhà, quỳ xuống lạy cảm tạ bác. Bác chủ nhà cuống quýt đỡ ba má tôi đứng lên "Anh chị đừng làm vậy tội nghiệp tui quá, tui mang phải tội. Người khổ khi gặp nạn thì giúp nhau. Anh chị lại cho các cháu ăn chứ các cháu lũi hết (là đói lả, kiệt sức, phương ngữ miền trung) rồi kìa", bác nói với sự xúc động trong khóe mắt, giọng Tuy Hòa-Phú Yên đặc sệt, không khác giọng Bình Định quê tôi là mấy.

Thế mà chúng tôi vẫn chưa được tự do ăn. 

Má tôi ngăn tất cả lại bảo chờ. Má nói "Đói hai tuần không chết, mà không khéo lại chết no!". Tụi tôi nhỏ quá đâu biết gì. Má nói "Ăn nhiều vô trúng thực là tụi bay chết hết". Má tự tay lấy cơm và thức ăn, mỗi đứa được đúng 2 muổng! Mọi sự chờ đợi háo hức của chúng tôi trở nên thất vọng, bữa cơm xong trong chóng vánh vì chỉ có một lùa là hết sạch. 

Nhưng má cấm, từ từ rồi má cho ăn chứ không được ăn thêm nữa, trước sự ngạc nhiên của gia đình bác chủ nhà. Đám em tôi khóc như ri. Phần còn lại má xin bác được gói lại. Má tôi giải thích là đói quá mà ăn no ngay nếu nhẹ thì bị thương thực mà nặng thì trúng thực (có người dùng chữ bội thực, nhưng tôi cho là chưa chính xác, vì trúng thực là hậu quả của bội thực), mà đã trúng thực thì chỉ có chết. Phải ăn từ từ, từng chút một. 

Cũng không lâu sau đó, trên đường từ Tuy Hòa về Nha Trang chúng tôi đã chứng kiến có người và các em nhỏ bị chết vì ăn quá no. Trúng thực.

Ấn tượng sâu đậm về người dân Tuy Hòa mãi cho tới nay, và có lẽ đó là một bài học về lòng tốt sâu sắc và tường minh nhất, trở thành hành trang vào đời cho một cậu bé như tôi về sau. 

Nó là một minh chứng cụ thể cho bài học về lòng nhân ái trong sách dạy đức dục cách đây 44 năm, vẫn còn nằm lòng "Ăn cơm muộn vội vàng đi học/Bút rơi đường Minh khóc hu hu/May thay nhờ có anh Thu/Nhịn ăn quà giúp mươi xu mua ngòi...." ("Làm ơn", tôi nhớ hình như là trong Quốc văn Đồng Ấu). 

Chưa có dịp và nếu có cũng không mong gì gặp lại được gia đình bác người Tuy Hòa tốt bụng ấy, những ân nhân đã giúp chúng tôi trong cơn hoạn nạn đó. Nhưng tôi nghĩ rằng có lẽ người dân Tuy Hòa nói riêng, người Việt Nam hay ở bất kỳ đâu cũng vậy nói chung, tốt bụng là bản chất - "nhân chi sơ, tính bản thiện". 

Tôi tin như thế. Tôi vẫn hằng cầu nguyện cho gia đình bác được hưởng sự an lạc, đó là cái phước của bác.

Người dân Tuy Hòa lúc đó đã lục tục kéo nhau ra đi từ đêm hôm trước, có lẽ do ảnh hưởng của dân di tản trên từ Pleiku đổ xuống. Đoàn người chưa qua cơn hoảng loạn, lại tiếp tục lên đường. 

Chúng tôi tạm biệt gia đình bác "Tuy Hòa" tốt bụng. Bác cẩn thận gói ghém hết phần cơm và thức ăn gần như còn nguyên. Lấy ra thêm 10 lon gạo (lon sữa bò "Ông Thọ"), mười cái chén ăn cơm bằng nhựa, chục đôi đũa tre, mấy cái muổng và kèm theo hai cái soong cũ biếu gia đình chúng tôi. "Của ít lòng nhiều, đường còn dài, anh chị đem theo để chống đói qua bữa cho lũ nhỏ. 

Tội nghiệp quá, tội nghiệp quá". Bác cứ lp đi lp lại "Tội nghiệp quá!".

Trở lại chuyện trúng thực

Quả là ba má tôi rất kinh nghiệm và ba tôi vốn dĩ là một thầy thuốc Đông y. Mãi đến sau này thành bác sĩ y khoa tôi mới hiểu được. Đó là hiện tượng mà tây y gọi là "Refeeding syndrome" ("Hội chứng cho ăn lại" - mà bây giờ tôi sẽ dịch là "Bội thực" (ba thể nhẹ vừa và nặng thì đông y cũng có từ rất hay "cảm thực", "thương thực" và "trúng thực"). 

Trúng thực đã được nói đến trong y học cổ truyền từ rất lâu, nhưng chỉ được đề cập trong y văn tây y lần đầu tiên là sau Thế chiến II, xảy ra ở các lính Mỹ bị bỏ đói trong nhà tù của quân đội Nhật ở Philippines. Hàng loạt binh sĩ Mỹ bị chết ngay sau khi được cho ăn trở lại. Lý do là khi cơ thể đói lâu ngày, thường là từ 5 ngày trở lên, cơ thể phản ứng chống đói bằng quá trình dị hóa, sử dụng năng lượng dưới dạng lưu tr, đầu tiên là mỡ, rồi đến cơ để phân hủy chuyển thành năng lượng tiêu thụ. 

Quá trình này làm cho cơ thể con người bị sụt ký nhanh, cùng với sự giảm nặng các chất khoáng lưu hành trong máu cũng như trong cơ thể. Khi được cho ăn trở lại nhiều, cơ thể phản ứng nhanh dừng quá trình dị hóa, chuyển ngay qua quá trình đồng hóa năng lượng.

Bộ phận tiêu hóa sản xuất ra men tiêu hóa khi cơ thể tiếp thụ thức ăn với số lượng lớn, làm cho các tế bào ồ ạt thu nạp nước, năng lượng và khoáng chất, đặc biệt là phosphate, magnesium và kali, dẫn đến sự rối loạn chuyển hóa đột ngột. 

Kết cục là khoáng chất trong máu bị tụt xuống nhanh chóng, hậu quả nghiêm trọng nhất là rối loạn nhịp tim, co giật, hôn mê và tử vong thường là do ngừng tim nếu không kịp thời cứu chữa.

"Mười phần chết bảy còn ba..."

Sau hai tuần ròng rã lội rừng băng sông, màn trời chiếu đất, đạn pháo phủ đầu, băng qua xác chết và máu của đồng loại, đoàn người đa phần là dân, tơi tả rách mướp kéo nhau đến thị xã Tuy Hòa đó, tôi đồ đoán chỉ có chừng non một phần ba sống sót về tới đây mà thôi. 

Và cũng không biết có bao nhiêu gia đình được sự may mắn tột cùng như gia đình chúng tôi là vẫn còn đông đủ, dù số phận của em gái út 8 tháng tuổi của chúng tôi chưa biết ra sao. Nhưng hẳn là có nhiều gia đình ly tán do chết trên đường và thất lạc. Phần lớn dân chúng kẹt lại ở đoạn Phú Túc hoặc Cheo Reo rồi phải quay lại, còn đa phần chết do đạn pháo của quân Bắc Việt trong suốt chặng đường.

Quân đội thì tôi đoán là không tới 2 phần sống sót, vì phần bị chết, phần đã tự động rã ngũ sau khi có lệnh "tùy nghi di tản". Những con số về điều này có lẽ quân sử VNCH và của QĐND Việt Nam tổng kết được, chứ không có gì trong đầu tôi thời đó ngoài sự tự suy diễn.

Lại lên đường.

Đa số dân Tuy Hòa theo đường bộ vào Nha Trang, cũng có phần đi ra biển. Dọ hỏi mãi rồi ba tôi quyết định đi về Nha Trang theo đường quốc lộ. Mãi quá trưa, sau mấy tiếng đồng hồ, gia đình tôi mới đón được một chuyến xe đò "Phi Long" chở đầy dân di tản để vô Nha Trang. Ba tôi gán lại số tài sản cuối cùng của gia đình, cái đồng hồ đeo tay hiệu "Seiko 5" quý giá của ba, cùng với 4 lượng vàng để được lên xe.

Đến Nha Trang vào chiều tối hôm đó. Chúng tôi tá túc trong nhà thờ Giáo xứ - nhớ mang máng là Phước Hải - khôngchính xác, nằm trên đường Nguyễn Hoàng. 

Nhưng cũng chỉ ngày hôm sau là dân chúng Nha Trang lại nhốn nháo ra đi. Ba tôi nghe ngóng tình hình, có lẽ VNCH bỏ từ Phan Rang trở ra vì Tuy Hòa, Ninh Hòa gần như thất thủ. Lệnh thiết quân lực được đặt ra ở Nha Trang, nhưng quân đội có vẻ như đã bất tuân đều tràn ra đường. Thành phố hỗn loạn vô tổ chức. Tiếng súng nổ khắp nơi, cảnh tượng nhốn nháo lại diễn ra trong thành phố.

Mọi người bằng mọi phương tiện, mọi giá để tìm đường đi tiếp vô trong, miễn sao qua khỏi Phan Rang. Lần này thì má tôi lên tiếng trước chứ không phải ba tôi nữa, nhất quyết là thôi đành ở lại, có chết thì chết ở Nha Trang chứ không thể đi tiếp. 

Còn em út tôi từ hôm qua giờ đã có chút cơm má nhai rồi sú cho em ăn, nhưng em vẫn chưa tỉnh lại. Bác sĩ thì không biết tìm ở đâu, nhà thương đóng cửa. Chưa kịp đi thì chúng tôi nghe tin cầu Xóm Bóng bị đánh sập. Phi trường Nha Trang thì gần như bế tắc, chỉ có quân đội và người nhà may ra mới thoát được. Lối ra cảng thì cũng hỗn loạn không kém. Ba tôi quyết định cả nhà ở lại Nha Trang.

Cuốn "Sấm Trạng Trình" là cuốn sách duy nhất tôi đem theo từ ngày rời khỏi nhà hòa vào dòng người để vào con đường định mệnh đầy máu và chết chóc này lại là một điều linh ứng. Trong đó có một câu mà tôi nhớ mãi, không biết có phải là lời của Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm hay do người sau thêm thắt, có câu "Mười phần chết bảy còn ba, chết hai còn một mới ra thái bình".

Cảm nghĩ thay cho lời kết cung đường máu bi thương

Đã 50 năm trôi qua, đất nước đã thống nhất nhưng lòng người vẫn còn ly tán. Chính quyền, giới lãnh đạo hiện nay một mặt luôn kêu gọi sự hòa hợp hòa giải dân tộc, thế nhưng hàng năm, cứ đến vào dịp tháng Tư là lại dịp để xướng lên những bản anh hùng ca thắng trận, những kỷ niệm chiến thắng oanh liệt, hào hùng; ngợi ca một đoàn quân thần thánh đã đánh bại quân đội Ngụy Sài gòn, giải phóng đồng bào miền Nam ra khỏi đời sống nô lệ, đói nghèo, trụy lạc.

Chiến thắng hủy diệt trên tỉnh lộ 7B nằm trong chiến dịch Tây Nguyên, cùng với chiến thắng Đường 5 ở Phú Yên - Tuy hòa được ghi vào quân sử Quân đội Nhân dân Việt Nam như là một trận "Bạch Đằng Giang" vang dội. 

Theo lời Đại tá Trần Văn Mười - Nguyên Chỉ huy trưởng BCHQS Phú Yên ghi: "Chiến thắng Đường 5 như một trận Bạch Đằng Giang trên cạn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao trong quá trình diễn biến của chiến dịch Tây Nguyên. Đây cũng là trận đánh quyết chiến tiếp theo sau trận đánh then chốt Buôn Ma Thuột, kết thúc số phận của hơn 2 vạn quân chủ lực ngụy, phá hủy và thu giữ hơn 2 nghìn xe quân sự các loại. Quân và dân Phú Yên đã viết nên bản hùng ca vang dội, góp phần kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại của dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam vào ngày 30/4/1975" (http://www.baophuyen.com.vn/.../chien-thang-duong-5-tran...).

Chúng ta đã tiêu diệt địch quân là ai? Là người Việt da vàng máu đỏ, là những người "Chúng ta, con một cha, nhà một nóc/thịt với xương tim óc dính liền" (Tố Hữu). Chiến thắng "Bạch Đằng Giang" trên đường tỉnh lộ là chiến thắng ai, quân thù nào phơi thây trên "huyết tràng giang" đó? 

Ngan ngát trong những bản anh hùng ca đó hẳn là xác và máu của hàng chục nghìn người dân vô tội, trong đó không ít là phụ nữ và lũ trẻ con như chúng tôi đã ngã xuống trước những làn đạn pháo rải thảm của Quân đội Nhân dân Việt Nam (lúc đó chúng tôi gọi là cng sản Bắc Việt để phân biệt với Việt Cộng là quân giải phóng của Mặt trận GPMN), những oan hồn đó hẳn vẫn còn vương vất mãi ở tỉnh lộ 7B dù đã 50 năm trôi qua, nhưng hầu như không được nhắc đến.

Tôi không viết lên đây với những hận thù mà với những lời từ tâm. 

Bởi nếu cứ phải "mắt đổi mắt, răng đền răng" thì thế giới này chỉ còn lại "những người mù húp cháo"! Nhưng thiết nghĩ những người lãnh đạo đủ tài trí, sáng suốt thì cũng biết thế nào là đủ. Một vết thương mà cứ đào bới mãi thì nó sẽ không bao giờ lành. Lịch sử đã sang trang. Lịch sử Việt Nam hàng nghìn năm qua cũng có quá nhiều vinh quang chứ không phải một và cũng đã quá nhiều máu và nước mắt.

Chúng ta có chiến tranh chứ không có chiến thắng. 

Đất nước thống nhất chứ không có giải phóng. 

Một đất nước "ra ngõ gặp anh hùng" thì tôi thiết nghĩ cũng phải nên hành xử như những người anh hùng, ít nhất cũng như những người Mỹ đối xử với nhau trong cuộc nội chiến Nam - Bắc. 

Một đất nước hòa bình và thống nhất thực sự là sự thống nhất của lòng người, sự cảm thông và chia sẻ. Trong một đất nước, không có kẻ thắng người bại mà tất cả đều thắng hay tất cả đều bại.

Xin lấy câu thơ của nhà thơ cách mạng Nguyễn Duy làm lời kết cho đoạn đường lịch sử bi thương này của dân tộc.

"Nghĩ cho cùng 

Mọi cuộc chiến tranh 

Phe nào thắng thì nhân dân đều bại…" 

(Trích Quà tặng, NXB VH 1990, tr78)

(Còn tiếp)

N.Đ.N.

Phần 1Phần 2Phần 3Phần 4Phần 5Phần 6Phần 7Phần 9

Tác giả gửi BVN

 

 

 

 

 

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn