Một phân tích tính pháp lý và hậu quả hoạt động của tàu Bắc Điều 996 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam

Phạm Thanh Vân và nhóm thực địa 

Dự án Đại Sự Ký Biển Đông

Phần I: Diễn biến tháng 6 và nghĩa vụ pháp lý của tàu Trung Quốc

Toàn cảnh tàu Bắc Điều 996 đang hoạt động cách bờ biển Việt Nam khoảng 170 hải lý, xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Ảnh: Hoàng Việt Hải/Dự án Đại Sự Ký Biển Đông

I. DIỄN BIẾN THÁNG SÁU

Trong tháng Sáu có sự hiện diện của nhiều tàu khảo sát/nghiên cứu Trung Quốc ở khắp Biển Đông. Một báo cáo tổng thể sẽ được viết riêng. Trong bài viết này, chúng tôi nhấn mạnh tàu Bắc Điều 996, hiện tại vẫn đang tiến hành hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa mở rộng của Việt Nam. Bên cạnh đó, tàu Bắc Điều có những năng lực dưới nước và bệ phóng UAV, có thể đặt ra vấn đề về khía cạnh pháp lý đối với các công nghệ mới nổi.

Tàu Bắc Điều 996 rời Đảo Hải Nam ngày 10 tháng 6 và sau khi thực hiện một vòng hoạt động ở khu vực Trường Sa vào ngày 15 tháng 6, tàu đã di chuyển đến khu vực biển miền trung Việt Nam, cách bờ biển Tuy Hoà khoảng 170 hải lý, nơi tàu bắt đầu tiến hành hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa mở rộng của Việt Nam cho tới nay.

Cận cảnh khu vực tàu Bắc Điều 996 đang hoạt động, tính tới 19:00 ngày 21 tháng 6 năm 2025. Ảnh: Việt Hải/Dự án Đại Sự Ký Biển Đông.

II. BẮC ĐIỀU 996 – TÀU NGHIÊN CỨU BIỂN SÂU VÀ THỬ NGHIỆM THIẾT BỊ DƯỚI NƯỚC

Được thiết kế bởi Tập đoàn Đóng tàu Nhà nước Trung Quốc (CSSC), tàu lớp CCS mang tên Bắc Điều 996 (Bei Diao 996) nổi bật là một trong những tàu nghiên cứu thân đôi diện tích mặt phẳng ngấn nước nhỏ (SWATH) lớn nhất từng được đóng tại Trung Quốc. Tàu bằng thép có chiều dài tổng thể (LOA) 99,8 mét, rộng 32 mét, mớn nước 7,5 mét, choán nước 6.700 tấn và trọng tải toàn phần (deadweight) 1.231 tấn, guồng cáp chịu áp suất 10.000 m.

Thiết kế của tàu Bắc Điều 996 cho phép tiến hành thử nghiệm các thiết bị, cảm biến âm học và cáp dữ liệu ngầm dưới nước. Thiết kế thân đôi SWATH với hai thân chìm kết nối với sàn trung tâm bằng hai trụ khí động học, giảm thiểu dao động sóng và gia tăng ổn định khi hoạt động biển sâu. Trong loạt thử nghiệm trên biển gần đây, người ta đã xác nhận dao động lắc dọc và ngang của thân tàu không vượt quá hai độ, qua đó đảm bảo việc triển khai an toàn thiết bị nghiên cứu dưới nước ngay cả trong những điều kiện khắc nghiệt. 

Về thiết bị khoa học, tàu được trang bị guồng cáp chịu áp suất 10.000 m, giàn A-frame cỡ lớn, bệ chuyên dụng để triển khai và thu hồi phương tiện bay không người lái (UAV), bảy phòng thí nghiệm tổng diện tích 430 m² hỗ trợ thử âm biển sâu và thử nghiệm cho trạm biển sâu. 

Tàu có vận tốc tối đa trên 15 hải lý/giờ và tốc độ hành trình 10 hải lý/giờ, khả năng  ​​tự hành 60 ngày, tầm hoạt động 10.000 hải lý. Điều này cho phép tàu hoạt động trong mọi vùng biển, trừ khu vực quanh hai cực. 

III. NGHĨA VỤ PHÁP LÝ CỦA BẮC ĐIỀU 996 KHI HOẠT ĐỘNG TRONG VÙNG ĐẶC QUYỀN KINH TẾ VÀ THỀM LỤC ĐỊA CỦA QUỐC GIA KHÁC

Là một tàu được thiết kế để có thể thực hiện thử nghiệm cảm biến và thiết bị âm học dưới nước, cùng với khả năng bổ sung cho khảo sát môi trường và các nhiệm vụ nghiên cứu khác, tàu Bắc Điều 996 có năng lực thực hiện cả nghiên cứu khoa học biển và khảo sát thuỷ văn, với dữ liệu thu thập được có tiềm năng lưỡng dụng dân-quân sự.

Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa

Theo UNCLOS 1982, các Quốc gia ven biển có thẩm quyền đáng kể đối với nghiên cứu khoa học biển được tiến hành trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của họ. Điều 246 nêu rõ rằng các Quốc gia ven biển “có quyền điều chỉnh, ủy quyền và tiến hành nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền kinh tế và trên thềm lục địa của họ”. Điều này thiết lập nguyên tắc cơ bản rằng tàu Bắc Điều 996 không thể hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Quốc gia khác mà không có sự chấp thuận của quốc gia đó.

Nghĩa vụ cơ bản nhất đối với tàu Bắc Điều 996, bởi vậy, là phải có được sự đồng ý trước từ Quốc gia ven biển trước khi tiến hành bất kỳ hoạt động nghiên cứu nào trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của họ. Điều 246(2) của UNCLOS quy định rằng “Nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền kinh tế và trên thềm lục địa phải được tiến hành với sự đồng ý của Quốc gia ven biển.” 

Nghĩa vụ trước khi hoạt động

Tàu Bắc Điều 996 phải cung cấp thông tin chi tiết cho Quốc gia ven biển ít nhất sáu tháng trước ngày dự kiến bắt đầu của bất kỳ dự án nghiên cứu nào. Theo Điều 248 của UNCLOS, thông báo này phải bao gồm: 

– Bản chất và mục tiêu của dự án nghiên cứu 

– Các phương pháp và phương tiện được sử dụng, bao gồm tên tàu, trọng tải, loại và cấp, cùng với mô tả tất cả thiết bị khoa học

– Các khu vực địa lý chính xác nơi nghiên cứu sẽ được tiến hành

– Ngày dự kiến xuất hiện lần đầu và khởi hành cuối cùng của tàu, hoặc triển khai và tháo dỡ thiết bị

– Tên của tổ chức tài trợ, giám đốc tổ chức tài trợ, và người phụ trách dự án

– Mức độ mà Quốc gia ven biển có thể tham gia hoặc được đại diện trong dự án

Đối với tàu Bắc Điều 996, điều này sẽ yêu cầu tiết lộ chi tiết các thông số kỹ thuật thiết kế SWATH, các mục tiêu thử nghiệm thiết bị và các cảm biến âm thanh dưới nước cũng như cáp dữ liệu tàu ngầm cụ thể mà nó dự định thử nghiệm. Các khả năng kỹ thuật của tàu, bao gồm hệ thống định vị động và nền tảng phóng UAV, cũng cần được giải trình.

Nếu Quốc gia ven biển không phản hồi trong vòng bốn tháng kể từ khi nhận được thông báo, tàu Bắc Điều 996 có thể tiến hành dự án nghiên cứu sau sáu tháng từ ngày cung cấp thông tin cho Quốc gia ven biển, theo điều khoản “đồng ý ngầm định” trong Điều 252. Tuy nhiên, điều khoản này không áp dụng nếu Quốc gia ven biển đã rõ ràng từ chối đồng ý hoặc yêu cầu thêm thông tin.

Nghĩa vụ trong khi hoạt động

Sau khi đã nhận được sự đồng ý của Quốc gia ven biển, và tàu bắt đầu hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Quốc gia khác, tàu phải tuân thủ một số nghĩa vụ liên tục theo Điều 249 của UNCLOS. Tàu phải đảm bảo quyền của Quốc gia ven biển được tham gia hoặc được đại diện trong dự án nghiên cứu, đặc biệt là trên tàu, khi khả thi. Sự tham gia này phải không có thanh toán thù lao cho các nhà khoa học của Quốc gia ven biển và Quốc gia ven biển không có nghĩa vụ đóng góp chi phí dự án.

Đồng thời, tàu phải cung cấp cho Quốc gia ven biển: 

– Báo cáo sơ bộ càng sớm càng tốt

– Kết quả cuối cùng và kết luận sau khi hoàn thành nghiên cứu

– Quyền truy cập tất cả dữ liệu và mẫu thu được từ dự án nghiên cứu

– Đánh giá các dữ liệu và mẫu đó nếu Quốc gia ven biển yêu cầu

Tàu Bắc Điều 996 cũng phải:

– Đảm bảo kết quả nghiên cứu được cung cấp cho cộng đồng quốc tế thông qua các kênh thích hợp

– Ngay lập tức thông báo cho Quốc gia ven biển về bất kỳ thay đổi lớn nào đối với chương trình nghiên cứu

– Tháo dỡ các thiết bị hoặc trang thiết bị nghiên cứu khoa học một khi nghiên cứu được hoàn thành, trừ khi có thỏa thuận khác.

Các cân nhắc đặc biệt đối với tàu Bắc Điều 996

Một trong những năng lực chính của tàu Bắc Điều 996 là thử nghiệm các cảm biến âm thanh dưới nước và cáp dữ liệu. Điều này đặt ra các mối quan ngại tiềm năng về lưỡng đích của con tàu. Nhiều tàu nghiên cứu của Trung Quốc đã thể hiện mối liên hệ chặt chẽ với các ứng dụng quân sự, có thể làm phức tạp các quy trình đồng ý. Điều 246(5) cho phép các Quốc gia ven biển từ chối đồng ý nếu dự án “có ý nghĩa trực tiếp đối với việc thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên” hoặc nếu liên quan đến các hoạt động có thể gây thiệt hại đến lợi ích an ninh của Quốc gia ven biển.

Bên cạnh đó, tàu Bắc Điều 996 được trang bị nền tảng phóng và thu hồi UAV, đặt ra yêu cầu cần có các cân nhắc pháp lý bổ sung. Nếu các hoạt động UAV được lên kế hoạch như một phần của các hoạt động nghiên cứu, chúng phải được đề cập rõ ràng trong thông báo trước cho Quốc gia ven biển. Việc sử dụng UAV có thể gây ra các mối quan ngại an ninh bổ sung cho các Quốc gia ven biển và có thể ảnh hưởng đến quá trình đồng ý.

Tóm lại, tàu Bắc Điều 996 khi thực hiện nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Quốc gia khác, sẽ phải tuân thủ đầy đủ các điều khoản của UNCLOS điều chỉnh các hoạt động nghiên cứu khoa học biển. Các nghĩa vụ của tàu bao gồm phải có được sự đồng ý trước, cung cấp thông báo trước chi tiết cho Quốc gia ven biển, cho phép sự tham gia của Quốc gia ven biển, chia sẻ kết quả nghiên cứu và tuân thủ tất cả các điều kiện do Quốc gia ven biển đặt ra. 

Với năng lực thử nghiệm các cảm biến dưới nước có tiềm năng ứng dụng trong quân sự, các Quốc gia ven biển có thể xem xét các đơn xin đồng ý một cách cẩn thận hơn. Do đó, các nhà điều hành của tàu Bắc Điều 996 phải đặc biệt cần mẫn và minh bạch trong việc thực hiện tất cả các yêu cầu pháp lý để đảm bảo tuân thủ luật quốc tế và duy trì quan hệ tốt với các Quốc gia ven biển. 

Khung pháp lý điều chỉnh khảo sát thuỷ văn trong EEZ và thềm lục địa

UNCLOS phân biệt rõ ràng hai khái niệm (1) Nghiên cứu khoa học biển và (2) Khảo sát thuỷ văn, được thể hiện qua Điều 19, 21, 40. Tuy nhiên, trong khi UNCLOS dành riêng phần XIII quy định cụ thể về điều chỉnh và quản lý nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, UNCLOS không có quy định tương ứng cho khảo sát thuỷ văn.

Điều này xuất phát từ bối cảnh lịch sử. Trong thời gian đàm phán UNCLOS III (1973–1982), các soạn thảo viên đã tham vấn chuyên gia kỹ thuật từ Tổ chức Thủy đạc Quốc tế (IHO), cơ quan chuyên trách an toàn hàng hải và lập bản đồ vùng nước ven bờ. Trước khi GPS toàn cầu được triển khai vào những năm 1990, việc khảo sát chính xác ngoài vùng lãnh hải về mặt công nghệ là không khả thi nếu không có sự hỗ trợ của các trạm ven bờ do quốc gia ven biển thiết lập. Do đó, các thành viên  soạn thảo cho rằng các quy định về khảo sát thuỷ văn trong lãnh hải là đủ, và họ không dự báo trước việc sẽ có các hoạt động khảo sát thủy văn rộng khắp vượt ngoài lãnh hải.

Như vậy, sự im lặng của Công ước về khảo sát thủy văn trong vùng biển ngoài lãnh hải phản ánh giả định lịch sử chứ không phải chấp thuận ngầm cho tự do khảo sát xa bờ. Sự xuất hiện của GPS, sự phát triển công nghệ và các nền tảng khảo sát sau này đã biến khảo sát thủy văn vượt ngoài lãnh hải thành khả thi, dẫn tới những cuộc tranh luận về thẩm quyền pháp lý của Quốc gia ven biển đối với hoạt động này. Trong khi các cường quốc hàng hải (ví dụ Hoa Kỳ) giữ quan điểm rằng khảo sát thủy văn trong vùng đặc quyền kinh tế thuộc quyền tự do hải hành và chỉ cần “tôn trọng” các quyền của quốc gia ven biển, một số quốc gia ven biển, đặc biệt là Trung Quốc, yêu cầu phải có sự đồng ý trước của quốc gia ven biển, và đã ban hành luật nội địa để làm rõ điều này.

Thực tiễn làm việc của Tổ chức Thuỷ văn Quốc tế ngầm ủng hộ quyền tài phán của quốc gia ven biển đối với khảo sát thủy văn vượt ra ngoài lãnh hải, theo mô hình chế độ xin phép như đối với nghiên cứu khoa học biển.

(Còn tiếp)

Phần II sẽ thảo luận về hậu quả hoạt động của tàu Trung Quốc, lựa chọn thực tiễn khả thi cho Việt Nam cũng như cách tiếp cận lâu dài.

Nguồn: Dự án Đại sự ký Biển Đông

 

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn