Thủ phạm lũ lụt ở Việt Nam

Thái Hạo

Ngày 28 tháng Mười năm 2009, cơn bão số 9 (Ketsana) một trong những cơn bão nhiệt đới lớn của Thái Bình Dương đổ vào Việt Nam từ Đà Nẵng đến Phú Yên, gây chết 179 người và 8 người mất tích. Cả nước sôi nổi dấy lên các đợt quyên góp cứu trợ; Bauxite Việt Nam cũng tích cực hưởng ứng, tổ chức hai đợt, đi thẳng vào Phú Yên rồi trở ra Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam, ra tận đảo Lý Sơn và lên tận cao nguyên Tu Mơ Rông. Trong đợt đầu, đoàn vừa đến xã Xuân Lộc thị xã Sông Cầu (Phú Yên) đã gặp ngay một tình cảnh đau lòng. Ở ngay ngã ba thị xã có hai vợ chồng cùng hai con, một gái một trai, đang sống yên ổn trong một ngôi nhà khoảng 40 mét vuông thì tin lũ báo đến. Trong nhà có một chiếc bàn đặt sát vách bên phải và một chiếc giường đôi đặt gần vách bên trái; bố mẹ liền đưa hai con lên bàn ngồi còn mình trèo lên giường ở phía bên này, nghĩ rằng bàn cao hơn giường, nước lũ có về sẽ không thể ngập. Mới làm được có thế lũ đã ập đến lập tức, và thật không ngờ, dòng lũ lại cuốn đúng vào chỗ đặt bàn. Chỉ thấy nước réo lên khủng khiếp tràn ngập ngôi nhà trong chớp mắt. Rồi đến khi mở mắt ra thì không còn chiếc bàn và hai con đâu nữa. Nhưng nước mênh mông từ trong đến ngoài, muốn làm gì cũng phải bó tay. Mãi lúc nước rút hết, chỗ đặt bàn chỉ còn lại một vũng nước sâu hoắm. Hỏi ra mới biết do các hồ thủy điện đầu nguồn mở van xả nước bất thình lình, chạy đi đâu cũng không kịp. Người vợ trở thành điên dại, và người chồng tuy có tỉnh táo hơn nhưng cũng ngẩn ngơ thất thần, cầm khoản tiền cứu trợ mà vẻ mặt và đôi mắt như đang để vào một chỗ vô định nào. Ngay chính người đến cứu trợ cũng cảm thấy chút tiền mình đưa thật vô nghĩa, thậm chí có vẻ như đãi bôi, trước nỗi mất mát ghê gớm không biết kêu ai của hai vợ chồng này. Câu hỏi cộm lên trong tất cả đoàn ngay lúc ấy là phải giải quyết những chuyện mất mát mà người dân đang đối diện không phải chỉ bằng cứu trợ mà còn phải bằng những hành động của luật pháp: Phải có ngay đơn khiếu nại việc xây cất các hồ/đập thủy điện đầu nguồn các con sông của miền Trung (thường ngắn và dốc), đã tính toán đầy đủ đến yếu tố kỹ thuật nhằm bảo đảm an toàn cho dân chúng cuối nguồn hay chưa? Ai có quyền cấp phép cho những việc xây cất đó và trách nhiệm của những vị đó đến đâu? Về mặt pháp lý các tập đoàn kinh doanh thủy điện đầu nguồn phải ký kết với chính quyền và người dân thế nào để các cụm dân cư trở thành một bên trong ba bên đứng trước pháp luật khi mỗi mùa lũ lụt kéo về, hồ/đập thủy điện không có cách nào hơn là cứ phải xả nước xuống đầu dân?

Chúng tôi đã định đề xuất vấn đề một cách bài bản trên trang mạng sau đợt cứu trợ trở về, nhưng điều không thể lường trước là chỉ một thời gian ngắn sau trang BVN đã gặp “sự cố” – bị đánh sập, và người quản lý trang – GS Nguyễn Huệ Chi, phải đi “làm việc” ròng rã với Bộ CA đến gần một tháng trời. Thế rồi…. mọi việc cứ cuốn theo nhau lừng lững trôi. BVN bị đánh sập nhiều lần và người điều hành cũng mấy phen thay đổi. Cho đến nay đã 16 năm, lại gặp bài của tác giả Thái Hạo, đặt đúng vấn đề mà chúng tôi đã bàn bạc đúng mười sáu năm trước. Một câu hỏi nhức nhối không thể không nêu lên: Dưới thể chế “nhà nước của dân do dân” của xã hội chúng ta, giữa nhà cầm quyền thực thi pháp chế (bên thứ nhất) và các tập đoàn thủy điện đầu nguồn vừa kinh doanh kiếm lợi vừa phục vụ dân sinh (bên thứ hai), đã tồn đọng những ẩn số nào để đến nỗi gần hai thập kỷ qua rồi (nếu tạm tính từ thời điểm bão Ketsana 2009 mà thôi) vậy mà một bản hợp đồng giữa ba bên (bên thứ ba là dân chúng) vẫn không viết ra được, hoặc có viết ra cũng không thực thi được, khiến chuyện sống chết thực tế hàng năm của hàng trăm con người – lẽ ra bất cứ thể chế nào cũng phải coi là chuyện cấp cứu nước sôi lửa bỏng – lại vẫn cứ phải nhẫn nhục chờ đợi đến bằng ấy năm, nếu không nói còn lâu hơn nữa?

Bauxite Việt Nam

1. Thủ phạm của lũ lụt về cơ bản là do mưa, điều ấy không cần bàn cãi. Nhưng điều tôi rất băn khoăn là các hồ (thủy điện) đã tham gia như thế nào vào tính chất của những trận lũ ấy, như tốc độ nước lên, đỉnh lũ, thời gian kéo dài của đỉnh…

Ví dụ như đối với Huế trong đợt lũ này, tôi hình dung rằng, hồ chứa như một cái bồn trung gian, hứng lấy và đựng nước mưa từ lưu vực đổ về. Sẽ có 2 trường hợp:

Trường hợp 1: nếu không có những cái hồ ấy thì tất cả nước mưa sẽ đổ thẳng xuống hạ du (thành phố Huế) thay vì được giữ lại một phần. Lúc này, hồ sẽ làm giảm đỉnh, tốc độ nước chậm hơn.

Trường hợp 2: Tuy nhiên, vấn đề sẽ phát sinh nếu những cái hồ chứa kia đã đầy trước khi trời mưa hoặc do mưa lớn kéo dài khiến nó đầy và buộc phải xả giữa lúc trời vẫn đổ nước. Lúc này, không những toàn bộ nước mưa sẽ đổ về như trong trường hợp không có hồ chứa mà hạ du còn phải nhận thêm cả phần do hồ chứa xả xuống cùng lúc. Nghĩa là lũ chồng lũ. Nó sẽ làm cho đỉnh lũ cao hơn, tốc độ nước nhanh và mạnh hơn.

Nếu lưu vực sông Hương là 2.000km², lượng mưa trung bình là 600mm, mưa liên tục trong 24 giờ, thì tổng lượng nước mưa sẽ là 1.200 triệu m³.

Nếu cùng khoảng thời gian mưa này mà các hồ (như Hương Điền, Bình Điền, Tả Trạch) cũng đồng loạt xả lũ với lưu lượng tổng là 3.300 m³/s thì tổng lượng nước sẽ là 285 triệu m³. Bằng 23.8% lượng nước mưa. Nói cách khác, đã có một lượng nước bằng 123.8% đổ về.

Nếu thời gian mưa kéo dài hơn hoặc/và lượng xả tăng lên, tỉ lệ có thể tăng lên 30-40%, tức là sẽ có 130-140% lượng nước xuống hạ du.

Mà trong tình hình thực tế của Huế ở đợt mưa này, do mưa lớn và kéo dài nên các hồ thủy đã mất tác dụng phòng lũ; không những thế, chúng được xả cùng lúc với lũ tự nhiên (nước mưa).

Những con số tính toán ở trên chỉ là tương đối và hết sức giản lược để dễ hình dung, chứ không dứt khoát phản ánh sát với thực tế. Nhưng nó cho chúng ta thấy “vai trò” của các hồ thủy điện trong tính chất của nhiều cơn lũ lụt suốt những năm gần đây ở nhiều địa phương trên khắp cả nước.

Nếu mưa nhỏ, mưa không quá lớn, thời gian ngắn thì việc có hay không có hồ thủy điện về cơ bản không có ý nghĩa nhiều. Vì lũ lụt nếu có cũng nhẹ nhàng. Còn nếu mưa lớn kéo dài (như Huế đợt này) thì hồ thủy điện trở nên vô dụng và không những thế, góp phần làm gia tăng lũ một cách cực đoan.

Tôi rất muốn đọc những phân tích của các nhà khoa học để biết chính xác, ví dụ như cơn lũ ở Huế lần này, thủy điện đã góp bao nhiêu phần trăm vào, nhưng hình như trước nay chưa thấy một bài toán nào như thế được giải một cách tường tận, chi tiết, minh bạch (?).

Lũ chồng lũ (do xả thủy điện) không chỉ làm tăng đỉnh lũ mà hơn thế, tạo ra dòng chảy nhanh và mạnh. Một “quả bom nước” thả từ trên núi cao xuống khác hẳn với những dòng chảy được phân tán và đều đặn. Trên đường đi, chúng sẽ bào mòn, cuốn trôi, gây xói lở và ập vào nhà chỉ trong giây lát.

Tất nhiên còn những nhân tố khác tham gia vào một trận lụt, như quy hoạch và xây dựng, hệ thống thoát nước, độ che phủ của rừng, v.v., nhưng thủy điện dù không phải thủ phạm chính, vẫn là một yếu tố nghiêm trọng, thậm chí gây nên thảm họa.

Trên dữ liệu thực tế và liêm chính, hi vọng được đọc những tính toán của các nhà khoa học về nhân tố thủy điện trong các đợt lũ, để thấy lưu tốc dòng chảy, phần trăm lượng nước góp vào, thời gian đạt đỉnh và duy trì đỉnh, đỉnh kép…, cụ thể ra sao.

Nhưng một cách cơ bản, các hồ thủy điện dù không phải thủ phạm chính, nhưng chúng làm thay đổi đặc tính và chu kỳ lũ lụt. Khi hệ thống vận hành thiếu đồng bộ, thiếu minh bạch, hoặc được phân phối bởi lợi ích kinh tế, thì chính các hồ này đã trở thành thành tác nhân làm trầm trọng thêm thiên tai mà lẽ ra họ phải giúp giảm bớt.

Vì thế, theo tôi, để hướng đến một kịch bản phát triển bền vững, dứt khoát phải: Tăng cường hoạt động bạch dữ liệu: công khai thời gian, lưu lượng xả của tất cả hồ trên cổng thông tin thời gian thực (giữa thời buổi này, không thể cứ tiếp tục nhỏ giọt thông tin mãi được); phải Quy hoạch lại thủy điện nhỏ: loại bỏ những dự án ở đầu nguồn, vùng rừng già, sông ngòi ngắn; phải Tăng cường dự báo và cảnh báo lũ lụt bằng công nghệ số - hiển thị trưc quan bằng biểu đồ; phải Tích hợp lợi ích thủy điện với sinh thái – dân sinh thay vì chỉ tập trung vào điện năng.

2.

Nói cho đúng, nguyên nhân của lũ lụt thì nhiều, chứ không phải chỉ do "mưa lớn kéo dài", dưới đây xin bổ sung thêm một trong số các nguyên nhân đó.

Vì dư luận lên tiếng, trên báo Đà Nẵng đã đăng nhiều bài trả lời, nhưng tìm mỏi mắt cũng không biết chủ đầu tư đang lấp đến 1/3 dòng sông Cổ Cò này là ai.

Chính quyền nói họ không sai, doanh nghiệp bảo doanh nghiệp đúng, và thế là tắc.

Tóm lại là dân cứ lên mạng xã hội mà kêu cứu mỗi lần lũ tràn vào nhà. Nhớ là sạc đầy pin và mua thêm cục dự phòng, để còn kêu được dài.

TB:

Hôm đi Huế hồi tháng 8, đứng trên chùa Thiên Mụ nhìn qua bên bờ kia sông Hương, thấy một khu nhà khá mới (hình 2), không biết xây khi nào, nhô ra ngoài sông. Lúc đó tôi tự hỏi, đây là nhà công vụ hay nhà của ai, sao lại xây nhà ở vị trí đó, có đúng với quy định về hành lang sông suối không, rồi mưa lũ thì nước chảy thế nào, ai đã cấp phép cho một công trình như thế, v.v..

Bao nhiêu câu hỏi, đến nay vẫn không biết tìm ai để có câu trả lời.

T.H.

Tác giả gửi BVN

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn