Hoà giải, hoà hợp: cánh cửa mở vào “kỷ nguyên mới” hoà bình, an ninh và phát triển

(Suy ngẫm tiếp sau bài “SAU NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ”)

Trọng Thành

Dịp 27/7 đã qua. Nhưng ắt đối với nhiều người, những cảm xúc, tâm trạng và suy tư gắn với những gì của cuộc chiến tranh hơn nửa thế k về trước không bao giờ mất đi. Rất nhiều người giờ đây không biết, hoặc không muốn nghĩ đến, do tuổi tác, do xuất thân, do hoàn cảnh, và nhiều lý do khác... Nhưng với rất nhiều người khác, cuộc chiến của hơn 50 năm về trước và những di luỵ của nó sẽ vẫn là những ký ức không bao giờ nguôi, những hiện thực đầy ám ảnh. 

SAU NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ” (1), bài của ông Lê Học Lãnh Vân viết sau cái ngày đặc biệt này, là một thông điệp lay động lòng người. 

Bài viết có lẽ hướng trước hết đến những người lãnh đạo đất nước khi nhắc lại một sự thật mà nhiều người đã biết: SỰ THẬT về hai cuộc chiến “quá khốc liệt với Việt Nam”, và đặc biệt là cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai, với ba tính chất “ý thức hệ, nội chiến, và tính giành quyền tự chủ”. Nhưng điều căn bản mà tác giả muốn nhấn mạnh là “cuộc đại ly tán của lòng người” do “cách hành xử thời hậu chiến” của chính quyền. 

Nhân bài viết khai mở những tâm tư, uẩn ức là trung tâm trong đời sống tinh thần của một bộ phận xã hội Việt Nam, chúng tôi muốn bàn thêm một số khía cạnh khác để ngõ hầu đi sâu hơn vào sự thật, để góp phần làm rõ hơn những cội rễ của các đối kháng: Nhìn sâu hơn vào SỰ THẬT để THẤU HIỂU, THẤU HIỂU để THƯƠNG NHAU hơn. 

***

NỘI CHIẾN VIỆT NAM và CUỘC “ĐẠI LY TÁN LÒNG NGƯỜI” do HÀNH XỬ “BẤT NHẪN” THỜI HẬU CHIẾN 

Tác giả Lê Học Lãnh Vân viết: “Cuộc chiến khốc liệt này đem tang thương tới hầu như từng căn nhà Việt từ Bắc vào Nam, mà khi kết thúc chỉ có phân nửa con số nạn nhân được nhớ tới thì thực khiến người ta phải sinh lòng bất nhẫn!”, “ngoài năm mươi tám ngàn người Mỹ ngã xuống, có hàng triệu người Việt chết, bị tàn phế vì người Việt giết nhau! Tình đồng bào và tinh thần nghĩa khí có cho phép bỏ mặc phân nửa số người đó, coi họ không phải là nạn nhân của cuộc chiến không?”… 

“Người Việt trong hàng ngàn năm đã hun đúc tinh thần đồng bào và đùm bọc nhau. Đây là hai giá trị cốt lõi của dân tộc, bao trùm tất cả những giá trị khác, nghĩa là những giá trị khác nằm dưới. Khi có sự xung đột các giá trị thì giá trị nằm dưới phải được hy sinh vì giá trị cao hơn. Cách Việt Nam cư xử hậu chiến khiến người Việt cảm nhận các giá trị lớn nhất của dân tộc bị giẫm đạp bởi những giá trị nằm dưới, nhỏ hơn”.

Bài viết kết luận với một câu hỏi : “Thời gian lùi xa, sự chia rẽ đó không còn do cuộc chiến nữa mà do cách hành xử hậu chiến, và người Việt cảm nhận cách hành xử ấy còn kéo dài tới bây giờ! 

Hòa giải, hòa hợp đâu có xa xôi. Kỷ nguyên mới cũng trong tầm với. Chỉ cần thiết lập lại các giá trị cốt lõi ngàn đời của dân tộc! Việc này không khó lắm với nước khác, có quá khó với người Việt hay không?”.

SAU NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ” chất vấn lương tri, không chỉ với những người cầm quyền, mà với tất cả những ai lòng hướng đến hòa giải, đoàn kết cho Việt Nam. 

***

NỘI CHIẾN Ý THỨC HỆ (hay CHIẾN TRANH UỶ NHIỆM) chứ không phải là một cuộc NỘI CHIẾN thông thường 

Khác hẳn với quan điểm phổ biến và trở thành chính thống ở Việt Nam, chỉ coi cuộc chiến 1954-1975 là cuộc chiến chống ngoại xâm, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, bài “SAU NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ” phơi bày tính chất nội chiến của cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai, điều mà dĩ nhiên không phải chỉ có tác giả mới nhìn thấy và nói ra. Nhưng riêng việc nói ra được công khai như vậy tại Việt Nam đã nhiều phần là cương trực và dũng cảm. 

Tách rời tính chất Nội Chiến ra khỏi tính chất Ý thức hệ để nhấn mạnh trước hết đến những tổn thất nặng nề của người Việt, của sự đối kháng nội bộ không thể dung hoà trong xã hội Việt Nam, đã dẫn đến cuộc chiến tàn khốc, là cần. Tuy nhiên, điều này hẳn là không đủ. Không những thế, việc gạt hẳn sang một bên tính chất Ý thức hệ của cuộc chiến lại có nguy cơ khiến viễn cảnh thay đổi được cách HÀNH XỬ “BẤT NHẪN” THỜI HẬU CHIẾN lùi xa. 

Bởi, theo khảo sát, nghiên cứu của nhiều học giả chuyên về chiến tranh Việt Nam, thì chính những gì liên quan đến Ý thức hệ và những ảnh hưởng, tác động từ bên ngoài mới là những nguyên nhân sâu xa, chủ đạo của cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai tàn khốc, khiến cho những nỗ lực chìa bàn tay giữa hai miền, giữa các thế lực đối đầu trong nước, không thể mang lại kết quả. 

Trong hình dung của có lẽ không ít người, đã có một miền Bắc hung hãn muốn xâm lược một miền Nam ôn hoà, mà bài viết nói trên ít nhiều có thể để ngỏ một khả năng hiểu như vậy. Tuy nhiên, trên thực tế, điều này là hoàn toàn trái với thực tế lịch sử và pháp lý. Về mặt pháp lý, Miền Bắc – Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (VNDCCH) và miền Nam – Việt Nam Cộng hoà (VNCH) không phải là hai quốc gia khác biệt, mà chỉ là hai vùng được phân chia tạm thời dưới sự quản lý của hai chính quyền khác nhau, chờ thống nhất, theo quy định của Hiệp định Genève năm 1954. Về mặt lịch sử, ngay trong nội bộ chính quyền VNDCH, cũng đã không có ngay từ đầu chủ trương thống nhất đất nước bằng bạo lực. 

Một số nhà nghiên cứu có uy tín đã làm rõ tính chất NỘI CHIẾN Ý THỨC HỆ hay CHIẾN TRANH UỶ NHIỆM của cuộc chiến Đông dương lần thứ hai, chứ không phải một cuộc NỘI CHIẾN tranh giành quyền lực thông thường. Ý THỨC HỆ và tính chất CHIẾN TRANH UỶ NHIỆM đã chi phối cuộc chiến và tiếp tục chi phối CÁCH ỨNG XỬ THỜI HẬU CHIẾN (không chỉ của một bên). 

***

VAI TRÒ TINH VI của TRUNG QUỐC trong cuộc chiến VIỆT NAM: “BÊN THẮNG CUỘC” CŨNG PHẦN NÀO LÀ NẠN NHÂN ? 

Thừa nhận tính chất NỘI CHIẾN Ý THỨC HỆ hay CHIẾN TRANH UỶ NHIỆM hoàn toàn không mâu thuẫn với tính chất chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập, mà ngược lại có thể giúp nhìn được sâu hơn, tinh tế hơn, đầy đủ hơn. Chỉ một vài ví dụ nhỏ có thể cho thấy cuộc can thiệp ngoại xâm trực tiếp trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai, khi chính quyền Mỹ can thiệp lật đổ lãnh đạo nền Cộng hoà Đệ nhất của Việt Nam Cộng hoà, hay khi Trung Quốc cưỡng chiếm Quần đảo Hoàng Sa vào lúc hai miền lún sâu trong nội chiến. Tuy nhiên, đây chỉ là những sự kiện bề nổi. 

Với độ lùi của thời gian, và việc nhiều hồ sơ được giải mật, đã có một số khảo cứu sâu về các chuyển biến nội bộ trong chính sách chiến tranh của giới lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, cuộc đối đầu giữa hai trường phái ưu tiên xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc hoặc thúc đẩy thống nhất đất nước bằng vũ trang tại miền Nam của sử gia Lien-Hang T. Nguyen (Hanoi's War: An International History of the War for Peace in Vietnam New Cold War history, xuất bản năm 2012). 

Gần đây hơn, luận án tiến sĩ của Yunyi Li, nhan đề “Une relation indécise : les ambitions internationales franco-chinoises à l’épreuve du Vietnam 1949-1979” (bảo vệ tại Pháp năm 2019) (2), cho thấy vai trò đặc biệt lớn của Bắc Kinh trong đường lối của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Công trình tập trung làm sáng rõ chính sách của Bắc Kinh đối với sáng kiến của Pháp những năm 1964-1965 về một Đông Dương “trung lập”, Việt Nam “trung lập” (“trung lập” theo nghĩa không bị kéo vào một trong hai khối đối đầu thời Chiến tranh Lạnh). Theo khảo cứu này, Bắc Kinh đã sử dụng một cách tinh vi sáng kiến “trung lập” của Pháp để gây phân hoá hàng ngũ phương Tây, tránh phải đối mặt quá sớm với một can thiệp quân sự quy mô lớn của Mỹ tại Việt Nam, nhưng mặt khác thúc đẩy cuộc “chiến tranh cách mạng” tại Việt Nam, để khẳng định vai trò trong khối cộng sản, trong bối cảnh Liên Xô chủ trương hoà hoãn với phương Tây và Trung Quốc ngày càng đơn độc trên trường quốc tế do các chính sách kích động “cách mạng” (chương IV, tr.127 - tr.174).

***

ĐIỀU GÌ CẢN TRỞ SỰ ĐỐI THOẠI GIỮA NHỮNG LỰC LƯỢNG CHÍNH TRỊ BẤT ĐỒNG QUAN ĐIỂM TẠI VIỆT NAM ? 

Cuối tháng 7, đầu tháng 8/ 1975, tức chỉ 3 tháng sau khi nước Việt Nam thống nhất với chiến dịch Hồ Chí Minh đẫm máu, tại Helsinki, thủ đô Phần Lan, 35 quốc gia hai khối, khối Đông Âu cộng sản đứng đầu là Liên Xô và các nước phương Tây, bao gồm Mỹ, đã ký kết Hiệp định Helsinki, mở đầu cho một k nguyên hoà giải giữa hai khối quốc gia đối địch. Hiệp định Helsinki, tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia, các quyền tự do căn bản bao gồm quyền tự do ngôn luận, đã được coi là Kiến trúc An ninh của châu Âu trong suốt gần nửa thế kỷ qua, cho đến cuộc xâm lược của Nga chống Ukraine

Đầu năm 1973, Việt Nam cũng từng có một Hiệp định Paris mở ra cơ hội thống nhất trong hoà bình, nhưng rút cục việc thống nhất đã diễn ra bằng bạo lực. Và trong hai năm 1964-1965, trước khi Mỹ đổ quân ào ạt vào miền Nam, có thể đã từng có một cơ hội như vậy. Các thế lực cầm quyền tại Việt Nam ở hai miền đã có vai trò gì trong việc bỏ lỡ những cơ hội thống nhất trong hoà bình như vậy? Các can thiệp ngoại bang nào đã tác động đến quyết định của các bên? ... Ắt hẳn còn phải thêm nhiều nghiên cứu để có thể làm sáng tỏ những câu hỏi này. 

Vượt qua các giáo điều ý thức hệ, thái độ độc quyền yêu nước từ cả hai phía, là điều có thể. Học giả Lê Xuân Khoa cách nay 20 năm ghi nhận: “Giữa hai phe quốc gia và cộng sản ở Việt Nam không có vấn đề thiếu hiểu biết về lịch sử và tâm lý giữa ta và địch, nhưng do nhiệm vụ chủ yếu của mỗi bên và lòng thù ghét không đội trời chung trong suốt mấy chục năm chiến tranh, việc đánh giá lẫn nhau hoàn toàn chủ quan và những định kiến sai lầm thường được thổi phồng quá đáng. Nhiệm vụ chủ yếu của phe cộng sản là tấn công để thực hiện mục tiêu thống nhất hai miền dưới ngọn cờ xã hội chủ nghĩa, trong khi nhiệm vụ chủ yếu của phe quốc gia là tự vệ để bảo toàn lãnh thổ miền Nam dưới chế độ tự do dân chủ. Hai bên đều gán cho nhau tội phản quốc: chính phủ VNCH bị gọi là bù nhìn, tay sai của đế quốc Mỹ, chính phủ VNDCCH bị gọi là đầy tớ của quan thy Liên Xô và Trung Cộng. Không bên nào nhìn nhận tinh thần yêu nước của bên kia. Do vô tình hay cố ý, người cộng sản đã quên rằng có biết bao nhà cách mạng Việt Nam đã chết vì yêu nước trước khi chủ nghĩa cộng sản ra đời; người quốc gia cũng quên rằng nếu người cộng sản không yêu nước thì đã không có những mâu thuẫn Việt-Trung dẫn đến chiến tranh giữa hai nước năm 1979” (Lời kết của cuốn “Việt Nam 1945-1995 – Chiến tranh, T nạn và Bài học Lịch sử” (tập 1), xuất bản năm 2004) (3). 

***

HOÀ GIẢI, HOÀ HỢP: CÁNH CỬA MỞ VÀO “KỶ NGUYÊN MỚI” HOÀ BÌNH, AN NINH và PHÁT TRIỂN

Nửa thế kỷ trôi qua kể từ khi cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai chấm dứt, vấn đề Hòa hợp, hoà giải vẫn còn nhức nhối. Thách thức hoà giải, hoà hợp giờ đây không còn là giữa các lực lượng chính trị đối kháng thời chiến tranh, hay hậu chiến, mà là Hoà giải và hoà hợp với những người khác biệt về chính kiến. 

Nhớ lại bức ảnh "Hai người lính" của nghệ sĩ Chu Chí Thành, với hai gương mặt rực sáng tình thân của chiến sĩ Quân Giải phóng Nguyễn Huy Tạo và quân nhân chế độ Việt Nam Cộng hoà Bùi Trọng Nghĩa, chụp tại Quảng Trị, Xuân 1973, sau hiệp định Genève, có thể hình dung hơn nửa thế kỷ về trước, chiến tranh Việt Nam không phải là một cuộc NỘI CHIẾN bình thường. 

Tác phẩm "Hai người lính", nằm trong nhóm ảnh về Hoà Hợp dân tộc không phân biệt Quốc gia – Cộng sản, được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh của Nhà nước Việt Nam, cho thấy về nguyên tắc không có đối kháng Ý thức hệ một mất một còn giữa những người cùng nước vào thời điểm đó cũng như sau này. Vậy tại sao lại là một cuộc Thống nhất bằng bạo lực, và rất nhiều hệ luỵ tiếp theo, từ Trại cải tạo, đến chính sách triệt hạ kinh tế tư nhân, và làn sóng hàng triệu người di tản… ? (Đây là những câu hỏi không nên chỉ đặt cho một phía). 

Nửa thế kỷ sau khi cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai chấm dứt, thế giới đang bước một giai đoạn nguy hiểm mới, mà nhiều nhà quan sát so sánh với thời kỳ trước một cuộc Đại chiến thế giới. Học giả Hoàng Xuân Hãn (4), trong một bài viết về hoà bình cho bán đảo Đông Dương, hơn 60 năm về trước, đã cố gắng làm rõ những khó khăn chồng chất của việc xác lập một nền hoà bình, sự hoà giải và hoà hợp ở Đông Nam Á nói chung, trên bán đảo Đông Dương và Việt Nam nói riêng trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt giữa các đại cường. 

Hoà giải và hoà hợp là nền tảng của độc lập dân tộc, của sức mạnh tự chủ, của hoà bình và phát triển, của Kỷ nguyên mới. 60 năm về trước, Hoàng Xuân Hãn đã cảnh báo về thách thức vô cùng lớn của con đường thống nhất trong hoà bình, bởi hố sâu ngăn cách Bắc – Nam về tư tưởng. Ông viết : “… tôi vẫn âm thầm nuôi giữ một niềm hy vọng những đồng bào miền Bắc của tôi một lần nữa tiếp xúc trở lại với thế giới phương Tây, và một ngày nào đó có thể làm mềm đi thái độ giáo điều và cứng nhắc cách mạng nhờ ở chủ nghĩa nhân văn Nho giáo, vốn đang bị phủ nhận, mà thực chất rất gần gũi với lý tưởng phương Tây” (nguyên văn : “… je nourrissai le secret espoir de voir mes compatriotes du NORD de nouveau en contact avec le monde occidental, et amené un jour à composer la pureté et la dureté révolutionnaire avec l’humanisme confucéen renié pour le moment, mais si proche de l’idéal occidental”). 

Hoàn cảnh giờ đây hiển nhiên đã rất khác, nhưng nhiều đường nét cơ bản vẫn còn đó, khi hòa bình của các xã hội phụ thuộc nhiều vào cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các đại cường. Hoà giải và hoà hợp càng phải được coi là nền tảng cho độc lập dân tộc, cho sức mạnh tự chủ, cho hoà bình và phát triển. 

Nói về ước mơ hoà giải, hoà hợp, không thể không nhớ đến ca khúc da diết “Mùa xuân đầu tiên” của năm thống nhất đầu tiên, của tác giả bài Quốc ca Việt Nam hùng tráng, bạo liệt. 

“… ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên.

ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm.

Từ đây người biết quê người

Từ đây người biết thương người

Từ đây người biết yêu người…" (5) 

An old person with a beard and a painting of a house

AI-generated content may be incorrect.

Văn Cao và tác phẩm Mùa xuân đầu tiên

Ca khúc từng bị cấm biểu diễn tại Việt Nam trong hơn một thập niên sau Chiến tranh. Khi nào "mùa xuân mơ ước" ấy thực sự đến với tất cả mọi người Việt Nam?

GHI CHÚ 

1/ Lê Học Lãnh Vân, “Sau ngày Thương binh Liệt sĩ”, Boxitvn, ngày 28/07/2025. https://boxitvn.online/?p=94498

2/ https://theses.hal.science/tel-02527967/file/LI.pdf

3/ https://anhbasam.wordpress.com/.../viet-nam-1945-1995.../

4/ Trọng Thành, “27/7: Thêm một dịp lòng người ly tán hay cơ hội hàn gắn vết thương lòng, thúc đẩy đại đoàn kết?” (Trở lại với tư tưởng Hoàng Xuân Hãn để hướng đến một nền văn hoá dân tộc đoàn kết, thống nhất, rộng mở thay vì tôn thờ chủ nghĩa), Boxitvn, ngày 27/07/2025. https://boxitvn.online/?p=94490

5/ Kiệt tác “MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN” của VĂN CAO dường như vẫn đợi một người ca sĩ (Hay “… Gà đang gáy trưa bên sông…” và dòng chảy ngầm trong tác phẩm Văn Cao) 

https://www.facebook.com/share/1GWkDyk94M/?mibextid=WC7FNe

T.T.

Tác giả gửi BVN

 

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn