Việt Nam và tình đoàn kết ASEAN trước phép thử thuế quan của Mỹ

Triệu Vệ Hoa赵卫华:面特朗普的关税霸凌,盟国家陆续而非团结对抗?Guancha, 26/10/2025

Lê Thị Thanh Loan biên dịch

Hội nghị Cấp cao ASEAN 2025 chính thức khai mạc vào ngày 26 tháng 10. Tuy nhiên, trước khi chuyên cơ Không lực Một (Air Force One) của Trump đáp xuống Kuala Lumpur, Đông Nam Á đã sớm cảm nhận được cơn chấn động từ “cú sốc Trump”:

Quả bom thuế quan mà Trump thả xuống hồi tháng 4 năm nay vẫn tiếp tục gây chấn động. Nó không chỉ đặt các nước ASEAN vào tình thế tiến thoái lưỡng nan giữa “phụ thuộc kinh tế và tự chủ chiến lược”, mà việc Việt Nam là nước đầu tiên đạt được thỏa thuận trong đàm phán thuế quan với Mỹ cũng làm bộc lộ những rạn nứt trong nội bộ ASEAN.

Sức ép thuế quan mà Trump đặt lên Việt Nam và các quốc gia ASEAN khác sẽ ảnh hưởng ra sao đến xu thế kinh tế và thương mại khu vực trong tương lai? Một ASEAN vừa có mối liên kết chặt chẽ về kinh tế với cả Mỹ và Trung Quốc, lại vừa luôn nhấn mạnh sự độc lập tự chủ, sẽ làm thế nào để tồn tại giữa hai cường quốc này? Trang Guancha đã có cuộc đối thoại với Giáo sư Triệu Vệ Hoa – Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quan hệ giữa Trung Quốc và các nước láng giềng tại Đại học Phúc Đán và là một chuyên gia về Việt Nam – để phân tích những thách thức kép và lựa chọn chiến lược mà Việt Nam và ASEAN đang phải đối mặt.

“Việt Nam sẽ không thực hiện 100% các yêu cầu của Mỹ”

Hỏi: Theo thông tin chính thức gần đây của Việt Nam, GDP của Việt Nam trong năm nay dự kiến đạt ​​mức tăng trưởng 8%, con số này cũng là mục tiêu mà họ đặt ra hồi đầu năm. Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với tác động của chủ nghĩa bảo hộ, điều gì đã giúp kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao như vậy?

Đáp: Đúng là Việt Nam đã đặt ra mục tiêu tăng trưởng GDP 8% trong năm nay, nhưng việc liệu có đạt được hay không vẫn cần tiếp tục quan sát. Nhìn chung, điều này liên quan đến giai đoạn phát triển kinh tế của Việt Nam. Trong khoảng 20 năm qua, kinh tế Việt Nam luôn duy trì tốc độ tăng trưởng trung bình đến cao, và đặc biệt là sau đại dịch, tốc độ tăng trưởng kinh tế của họ đã tăng từ mức 5%-6% lên 7%-8%. Theo tôi, sự tăng trưởng nhanh chóng của kinh tế Việt Nam chủ yếu đến từ hai yếu tố:

Thứ nhất là sự chuyển dịch công nghiệp bắt nguồn từ cuộc chiến thương mại mà Mỹ phát động với Trung Quốc.

Trên thực tế, ngay cả khi không có cuộc chiến thương mại và công nghệ giữa Mỹ và Trung Quốc, thì theo ảnh hưởng tự nhiên của các quy luật kinh tế, khi nền kinh tế Trung Quốc phát triển và chi phí lao động tăng cao, nhiều ngành sản xuất vẫn sẽ tự nhiên chuyển sang các nước đang phát triển khác như Việt Nam, Lào và Campuchia. Tuy nhiên bên cạnh các quy luật kinh tế tự nhiên, cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc đã tạo thêm một lực đẩy bên ngoài thúc đẩy quá trình này. Một lượng lớn doanh nghiệp Trung Quốc và nước ngoài trước đây từng đầu tư vào Trung Quốc đã chuyển rất nhiều hoạt động sản xuất sang Việt Nam. Ở Đông Nam Á, đặc biệt là tại khu vực bán đảo Đông Dương, Việt Nam có lợi thế về lực lượng lao động trẻ và có trình độ học vấn tương đối cao, đồng thời lại khá gần gũi với Trung Quốc về thể chế, phong tục và văn hóa. Điều này khiến các doanh nghiệp Trung Quốc thích nghi tốt hơn với môi trường Việt Nam, qua đó giúp Việt Nam tiếp nhận được phần lớn dòng chuyển dịch ngành sản xuất từ Trung Quốc.

Thứ hai, dòng vốn đầu tư nước ngoài đã ồ ạt chảy vào Việt Nam trong những năm gần đây.

Kể từ khi Mỹ phát động cuộc chiến thương mại và công nghệ với Trung Quốc, vì lý do an ninh, nhiều quốc gia đã đồng loạt áp dụng chiến lược “Trung Quốc+1”, nhằm tránh bỏ toàn bỏ trứng vào một giỏ. Việt Nam là đất nước có núi sông liền kề và mối liên kết thị trường chặt chẽ với Trung Quốc, nên việc đầu tư vào Việt Nam vừa có thể tối đa hóa lợi ích từ thị trường Trung Quốc, vừa đảm bảo được yếu tố an toàn cho doanh nghiệp. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp vốn định đầu tư vào Trung Quốc đã chuyển hướng sang Việt Nam. Với tâm lý phòng ngừa rủi ro, nhiều doanh nghiệp phương Tây, Nhật Bản và Hàn Quốc ở Trung Quốc cũng bắt đầu bố trí cơ sở sản xuất tại Việt Nam. Chính điều này đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế Việt Nam tăng trưởng với tốc độ cao.

Hỏi: Nói đến chiến tranh thương mại, vài tháng trước có thông tin cho rằng đại diện Mỹ và Việt Nam ban đầu đã thống nhất mức thuế 11% mà Mỹ sẽ áp lên Việt Nam, nhưng Trump đột nhiên thay đổi quyết định và tuyên bố trên mạng xã hội rằng mức thuế sẽ là 20%. Điều này đã khiến người Việt Nam vô cùng bối rối. Thực tế có đúng như vậy không?

Đáp: Chính sách “thuế quan tương hỗ” của Trump có mức thuế cơ bản là 10%. Ví dụ, Singapore – quốc gia thân Mỹ nhất ở Đông Nam Á và cũng là đồng minh của Mỹ – có mức thuế 10%. Có thể trong quá trình đàm phán giữa Việt Nam và Mỹ, phía Mỹ từng hứa hẹn mức thuế 11% hoặc 10%, và con số 20% mà Trump sau đó công bố có thể là do cộng thêm mức thuế cơ bản 10%.

Tất nhiên, khi Trump công bố mức thuế 20% đối với Việt Nam, phản ứng của dư luận Việt Nam tương đối đa dạng. Một số người cảm thấy bị Trump “lừa”, trong khi số khác lại coi việc giảm mức thuế từ 46% xuống 20% ​​là một thành tựu ngoại giao. Một số người lập luận rằng, ngay cả đồng minh của Mỹ là Philippines cũng chỉ đạt được mức thuế 19%, mà mức thuế của Việt Nam chỉ cao hơn một điểm phần trăm. Do chi phí sản xuất của Việt Nam thấp hơn nhiều so với Mỹ, nên tác động đến xuất khẩu sang Mỹ và tổng thể nền kinh tế là không đáng kể.

Hỏi: Xuất khẩu sang Mỹ có thể không bị ảnh hưởng đáng kể, nhưng phía Mỹ còn yêu cầu Việt Nam áp thuế 40% đối với tất cả hàng hóa trung chuyển. Điều này sẽ ảnh hưởng ra sao đến thương mại Trung-Việt?

Đáp: Việc áp thuế 40% đối với tất cả hàng hóa trung chuyển từ Trung Quốc là yêu cầu từ phía Mỹ, nhưng Việt Nam có thể sẽ không thực hiện hoàn toàn.

Việt Nam là quốc gia theo định hướng xuất khẩu, thực ra toàn bộ khu vực Đông Nam Á đều như vậy, nên rất nhạy cảm với khối lượng xuất khẩu. Hiện nay, Việt Nam chỉ thấy Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của mình. Theo thống kê của Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu của nước này sang Mỹ năm 2024 đạt 119,2 tỷ USD (số liệu của phía Mỹ cao hơn một chút, ở mức 125 tỷ USD). Tuy nhiên, theo số liệu của hải quan Trung Quốc, xuất khẩu của Trung Quốc sang Việt Nam đạt hơn 150 tỷ USD, trong khi nhập khẩu từ Việt Nam đạt 97 tỷ USD. Điều này có nghĩa, khả năng hấp thụ hàng hóa Việt Nam của Trung Quốc tương đương hơn 82% thị trường Mỹ, và kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam vẫn đang tăng lên. Vì vậy, khó có khả năng Việt Nam làm mất lòng Trung Quốc chỉ để chiều lòng Mỹ.

Hơn nữa, tuy Trung Quốc có thặng dư thương mại gần 60 tỷ USD với Việt Nam, nhưng do chi phí lao động ở Trung Quốc thấp hơn so với Mỹ, Liên minh châu Âu hay Nhật Bản, nên hàng hóa Trung Quốc xuất sang Việt Nam chủ yếu là hàng giá rẻ chất lượng tốt, và phần lớn là sản phẩm trung gian. Những sản phẩm này sau đó được gia công, lắp ráp tại Việt Nam trước khi xuất sang Mỹ và châu Âu. Nói cách khác, chuỗi cung ứng của Trung Quốc chính là yếu tố then chốt giúp Việt Nam duy trì thặng dư thương mại với Mỹ và châu Âu. Nếu không có những sản phẩm trung gian từ Trung Quốc, Việt Nam khó có thể giữ được thặng dư với Mỹ. Do vậy, đối với Việt Nam, tầm quan trọng của thị trường Trung Quốc trên thực tế vượt xa so với thị trường Mỹ.

Ngoài ra, theo Hiệp định RCEP, nhiều nước ASEAN được hưởng thuế suất 0% đối với hàng hóa xuất sang Trung Quốc (một số nước có mức thuế suất tạm thời là 3%), trong khi thuế suất nhập khẩu hàng Trung Quốc vào các nước này tuy có cao hơn một chút, nhưng cũng rất ưu đãi. Nhìn chung, Hiệp định RCEP mang lại lợi ích lớn cho các nước ASEAN, bao gồm cả Việt Nam. Thuế quan trong RCEP mang tính tương hỗ. Nếu Việt Nam áp dụng thuế suất 40% đối với hàng hóa Trung Quốc, thì Việt Nam sẽ không thể tiếp tục hưởng mức thuế ưu đãi của Trung Quốc và chắc chắn sẽ phải chịu thiệt hại đáng kể.

Khi đưa ra yêu cầu, Mỹ sử dụng cụm từ “gian lận thương mại”. Theo nghĩa đen, những tác động lên hàng hóa Trung Quốc chủ yếu liên quan đến các sản phẩm dán nhãn thương hiệu. Sau nhiệm kỳ đầu tiên của Trump, một số doanh nghiệp Trung Quốc đã xuất sang Việt Nam những sản phẩm được sản xuất hoàn toàn trong nước, dán nhãn “Made in Vietnam” rồi xuất sang Mỹ và châu Âu. Mức thuế 40% là nhằm vào loại sản phẩm này. Từ nay về sau, một số doanh nghiệp Trung Quốc khó có thể tiếp tục con đường dán nhãn ở Việt Nam rồi xuất hàng sang Mỹ. Tuy nhiên, chỉ cần hàng hóa Trung Quốc xuất sang Việt Nam tuân thủ nguyên tắc xuất xứ và có thủ tục hợp pháp, Việt Nam không có lý do gì để áp thuế 40% đối với những mặt hàng này. Việc làm như vậy hoàn toàn không có lợi cho Việt Nam.

Hỏi: Điều này có đồng nghĩa với việc trong tương lai sẽ có ngày càng nhiều doanh nghiệp Trung Quốc chuyển hoạt động sản xuất sang Việt Nam? Vài tháng trước, ông đã đi thăm một số khu công nghiệp ở Việt Nam. Ông có thông tin gì về việc này không?

Đáp: Mỹ có một quy định gọi là “ngưỡng 50%”: Nếu hơn 50% linh kiện của một sản phẩm được sản xuất tại Trung Quốc, sản phẩm đó sẽ được coi là có xuất xứ Trung Quốc. Vì vậy, ngay cả khi doanh nghiệp Trung Quốc sản xuất tại Việt Nam, họ vẫn phải đối mặt với quy định này. Tuy nhiên, tôi cho rằng Việt Nam sẽ cân nhắc lợi ích của mình một cách tổng thể khi thực thi. Mặc dù rất coi trọng xuất khẩu, nhưng Việt Nam cũng phải cân nhắc giữa chi phí và lợi ích. Do đó, tôi cho rằng Việt Nam sẽ không thực hiện 100% các yêu cầu của Mỹ.

Lấy ô tô làm ví dụ. Hiện nay, Việt Nam đang miễn thuế cho tất cả hàng hóa Mỹ, bao gồm cả ô tô. Mặc dù Việt Nam đã bãi bỏ mức thuế nhập khẩu cao đối với ô tô, nhưng người tiêu dùng vẫn chưa thấy giá xe giảm đáng kể, bởi Việt Nam đã thêm một loại thuế tiêu thụ đặc biệt 40% vào khâu tiêu dùng trong nước. Nói cách khác, Việt Nam đã sử dụng các biện pháp khác để giảm thiểu hậu quả tiêu cực của chính sách thuế 0% một chiều đối với hàng hóa Mỹ.

Hỏi: Tôi nhớ trong một bài viết, ông từng chỉ ra rằng Việt Nam đang thực hiện chiến lược “cân bằng hai chiều” đối với Trung Quốc và Mỹ, tức là hợp tác với Trung Quốc để ngăn chặn “diễn biến hòa bình” của Mỹ, đồng thời sử dụng Mỹ để cân bằng ảnh hưởng của Trung Quốc.

Đáp: Đúng vậy, tôi cho rằng chiến lược này của Việt Nam sẽ không thay đổi. Tuy Việt Nam đang chịu áp lực rất lớn từ Mỹ, nhưng như Phạm Bình Minh từng phát biểu, Việt Nam chỉ có thể bảo vệ lợi ích của mình ở mức tối đa bằng cách duy trì thế cân bằng giữa Trung Quốc và Mỹ. Việc nghiêng về bất kỳ bên nào đều sẽ khiến mối quan hệ bị mất cân bằng và gây tổn hại đến lợi ích của chính mình. Quan điểm này vẫn hoàn toàn phù hợp với tình hình hiện nay. Trung Quốc hiện là một mắt xích vô cùng quan trọng trong chuỗi cung ứng của Việt Nam. Xét tổng thể, Trung Quốc quan trọng với Việt Nam hơn là Mỹ. Việt Nam sẽ không mạo hiểm làm tổn hại đến quan hệ với Trung Quốc chỉ để làm vừa lòng Mỹ.

Trên thực tế, Việt Nam là nước đầu tiên thỏa hiệp với Mỹ lần này. Thứ nhất, điều này được quyết định bởi sự mong manh của quan hệ thương mại Việt-Mỹ. Mỗi năm, Việt Nam xuất khẩu khoảng 120 tỷ USD hàng hóa sang Mỹ, nhưng chỉ nhập khẩu 15 tỷ USD từ Mỹ, dẫn đến sự phụ thuộc một chiều vào thị trường Mỹ. Thứ hai, các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, đều bị ảnh hưởng bởi kinh nghiệm quá khứ trong quá trình ra quyết định. Họ cho rằng trong nhiệm kỳ đầu tiên của Trump, ngay cả một cường quốc như Trung Quốc cũng không giành được lợi thế trong các cuộc đàm phán thuế quan với Mỹ, vậy thì các nước nhỏ hơn như họ càng chẳng thể nào đối đầu được với Mỹ. Do đó, Việt Nam, Indonesia, Thái Lan và Campuchia đều đã thỏa hiệp với Mỹ trong cuộc đàm phán này. Cách tiếp cận của Trung Quốc với Mỹ trong nhiệm kỳ thứ hai của Trump là điều mà họ đã không lường trước được vào tháng 3, tháng 4 vừa qua.

Dù sao đi nữa, với tư cách là một quốc gia vừa và nhỏ, Việt Nam cần phát huy tinh thần của “ngoại giao cây tre”. Trước sức ép từ Mỹ, họ chỉ có thể trông cậy vào đàm phán ngoại giao để giảm thiểu tối đa tổn thất. Ban đầu, Tô Lâm cũng đề xuất phương án miễn thuế quan song phương, nhưng Trump không đồng ý. Việt Nam hiện đã áp thuế 0% một chiều đối với hàng hóa Mỹ, còn Mỹ chỉ giảm 26 điểm phần trăm thuế cho hàng Việt Nam. Tuy nhiên, như tôi đã đề cập ở trên, Việt Nam đã áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với một số mặt hàng, nhằm bù đắp tác động tiêu cực của việc miễn thuế quan một chiều đối với hàng hóa Mỹ.

Hỏi: Khi thị trường Việt Nam miễn thuế đối với hàng hóa Mỹ, những ngành nào trong nước có thể bị ảnh hưởng?

Đáp: Nhìn chung, cơ cấu nông nghiệp của Việt Nam và Mỹ rất khác nhau. Nông nghiệp Việt Nam chủ yếu là nông nghiệp nhiệt đới, nên các mặt hàng của Mỹ như đậu tương sẽ có ít tác động đến thị trường nông sản nội địa của Việt Nam. Tuy nhiên, các lĩnh vực công nghiệp chế tạo, chẳng hạn như ô tô và điện tử, có thể sẽ chịu ảnh hưởng nhất định. Điều này có thể có lợi cho những người thuộc tầng lớp cao của Việt Nam, bởi họ có thể sử dụng các sản phẩm chất lượng cao của Mỹ với giá rẻ hơn. Tuy nhiên, sau khi thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các mặt hàng giá trị cao như ô tô được áp dụng, những tác động tiêu cực lên các ngành công nghiệp trong nước đã giảm đi đáng kể. Nói cách khác, thuế tiêu thụ đặc biệt chính là một biện pháp “vòng vo” giúp Việt Nam giảm thiểu rủi ro trong bối cảnh không đủ sức đối đầu trực diện với Mỹ.

Hình tượng đoàn kết của ASEAN đang đối mặt với nhiều thách thức

Hỏi: Việt Nam là nước ASEAN đầu tiên tiến hành đàm phán và cũng là nước đầu tiên đạt được thỏa thuận thương mại với Trump. ASEAN luôn mong muốn thể hiện một lập trường thống nhất. Ông có biết các nước ASEAN khác nhìn nhận ra sao về hành động này của Việt Nam không?

Đáp: Các học giả trong khu vực ASEAN có quan điểm tương đối nhất quán. Họ cho rằng, các nước ASEAN đều là các quốc gia nhỏ và khó có thể so với Trung Quốc. Trung Quốc có thể phản kháng lại Mỹ, nhưng các nước ASEAN thì không thể. Vì không thể đối đầu với Mỹ, họ chỉ có thể lựa chọn những biện pháp tự vệ.

Trên thực tế, những phát biểu của Tổng thống Indonesia Prabowo Subianto trong một cuộc phỏng vấn và thái độ của Thủ tướng Campuchia Hun Manet trong việc giải quyết tranh chấp thương mại với Mỹ cho thấy rằng, các nước chủ chốt trong ASEAN đều không có ý định đối đầu hay phản kháng lại hành vi bắt nạt thương mại đơn phương của Mỹ. Chẳng hạn, Prabowo tuyên bố Indonesia không có ý định trả đũa Mỹ và chỉ muốn tìm kiếm một giải pháp thông qua đàm phán. Nếu ngay cả nền kinh tế lớn nhất ASEAN là Indonesia còn thể hiện thái độ như vậy, thì các quốc gia khác lại càng khó làm khác đi. Tôi cho rằng, các nước ASEAN, dù là Indonesia, Việt Nam, Thái Lan hay Philippines, đều đang tìm cách giảm thiểu tối đa thiệt hại thay vì đối kháng với Mỹ, vì các động thái phản kháng có khả năng khơi mào cho những hành động đáp trả thậm chí còn cực đoan hơn từ Trump.

Hỏi: Từ góc nhìn của ASEAN, khối này nên ứng phó ra sao với chiến lược “chia để trị” của Mỹ đối với từng quốc gia thành viên? Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 47 được tổ chức từ ngày 26 đến 28 tháng 10, và nhiệm kỳ Chủ tịch luân phiên ASEAN năm 2025 của Malaysia sắp kết thúc. Ông tổng kết và đánh giá ra sao về hoạt động của ASEAN trong năm qua?

Đáp: Năm qua là một năm đầy thách thức đối với ASEAN. Trước đây, ASEAN duy trì được sự đoàn kết và một lập trường thống nhất, và điều đó từng rất hiệu quả. Tuy nhiên, vào năm 2024, khi phải đối mặt với một người theo chủ nghĩa đơn phương cực đoan và khó lường như Trump, các nước ASEAN đều không phản kháng trước hành vi bắt nạt thương mại đơn phương, mà thay vào đó lại thi nhau thỏa hiệp với Mỹ. Điều này đã làm suy yếu đáng kể hình tượng đoàn kết, thống nhất lâu nay của ASEAN trong việc ứng phó với các thách thức bên ngoài.

Ngoài ra, xung đột quân sự giữa Campuchia và Thái Lan cũng làm dấy lên nghi ngờ về mức độ đoàn kết trong nội khối và việc liệu ASEAN có thể giải quyết các tranh chấp một cách hòa bình hay không.

Hỏi: Về xung đột giữa Thái Lan và Campuchia, tôi nhớ có một bức ảnh chụp buổi đàm phán. Phía sau là đại diện của Trung Quốc và Mỹ, phía trước bên trái là Thủ tướng Campuchia Hun Manet, bên phải là Quyền Thủ tướng Thái Lan Phumtham Wechayachai và ở giữa là Thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim. Lúc đó, nhiều người cho rằng điều này chứng minh năng lực điều phối nội bộ của ASEAN.

Đáp: Malaysia, với tư cách là Chủ tịch luân phiên của ASEAN năm nay, có thể coi là đã thành công trong việc điều phối và giải quyết xung đột nội bộ. Tuy nhiên, với tư cách là một tổ chức nhất thể hóa cùng mục tiêu xây dựng cộng đồng chung, ASEAN đã không ngăn chặn được cuộc xung đột ngay từ khi khi nó bắt đầu manh nha. Nếu nhìn trên phương diện này thì sự đoàn kết của ASEAN đã bị thách thức nghiêm trọng. Một cộng đồng hoặc liên minh hiệu quả cần có khả năng xoa dịu các tranh chấp ngay từ khi chúng vừa manh nha, thay vì để leo thang thành xung đột quân sự.

Hỏi: Tôi hiểu. Tổng thống Mỹ Trump cũng sẽ tham dự Hội nghị Cấp cao ASEAN lần này. Trước đó, có nguồn tin cho rằng điều kiện để Trump tham dự là Trung Quốc phải bị loại khỏi lễ ký kết thỏa thuận hòa bình Thái Lan-Campuchia. Xét trên một số phương diện, điều này giống như một hình ảnh thu nhỏ của ASEAN trong việc xử lý quan hệ Trung-Mỹ, khi một vài yêu cầu “thất thường” của Mỹ thường khiến họ rơi vào tình thế khó xử. ASEAN nên làm gì để duy trì sự độc lập tự chủ giữa Trung Quốc và Mỹ?

Đáp: Ban đầu, khi năm nước ASEAN đầu tiên thành lập tổ chức này, họ hy vọng sẽ xây dựng được tiếng nói riêng giữa hai thế lực Mỹ và Liên Xô. Ngày nay, trong một môi trường quốc tế ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, việc đạt được sự độc lập hoàn toàn là điều khó có thể xảy ra, bởi điều đó chắc chắn liên quan đến lợi ích của nhiều bên. Chiến lược của ASEAN là biến các nước lớn như Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Nga và Ấn Độ thành các đối tác đối thoại, đồng thời duy trì vị thế đặc biệt của mình thông qua sự kiềm chế và cân bằng lẫn nhau giữa các nước lớn. Trong bối cảnh này, ASEAN buộc phải xem xét lợi ích và lập trường của các nước lớn để tìm kiếm điểm cân bằng giữa họ. Đặc biệt là trong bối cảnh Mỹ theo đuổi chính sách “thuế quan tương hỗ” và thúc đẩy chủ nghĩa đơn phương, ASEAN khó có thể tránh khỏi ảnh hưởng từ Mỹ.

Tuy nhiên, Mỹ không thể buộc ASEAN hành động hoàn toàn theo ý mình. Hơn nữa, Trung Quốc hiện đã mạnh hơn bao giờ hết và sẽ không cho phép Mỹ thao túng ASEAN. Bản thân ASEAN cũng hiểu rằng, sẽ rất khó để duy trì quan hệ hòa hợp với Trung Quốc và các nước lớn khác nếu trở thành công cụ của Mỹ.

Hỏi: Câu hỏi cuối cùng, Philippines sẽ đảm nhiệm vai trò Chủ tịch luân phiên của ASEAN vào năm 2026. Xét đến thái độ của chính quyền Marcos đối với Trung Quốc trong những năm qua, điều này sẽ mang lại ảnh hưởng thực chất nào đối với quan hệ Trung Quốc-ASEAN?

Đáp: Trong những năm gần đây, Trung Quốc và Philippines liên tục xung đột trên Biển Đông, đặc biệt là những xung đột liên quan đến Bãi cạn Scarborough và Bãi Cỏ Mây. Do đó, việc Philippines đảm nhiệm vai trò Chủ tịch luân phiên chắc chắn sẽ gây ra một số tác động nhất định đến quan hệ Trung Quốc-ASEAN. Chẳng hạn, trên phương diện thiết lập chương trình nghị sự và định hướng, Philippines có thể có những động thái hoặc phát ngôn gây bất lợi cho quan hệ hữu nghị Trung Quốc-ASEAN.

Tuy nhiên, ASEAN hoạt động theo nguyên tắc đồng thuận. Một mình Philippines không thể làm lung lay định hướng phát triển chung giữa Trung Quốc và ASEAN. Philippines có thể tạo ra một vài “tiếng ồn”, nhưng các nước ASEAN khác sẽ không để Philippines đạt được ý đồ, ngay cả khi nước này đảm nhiệm vai trò Chủ tịch.

T.V.H. – Guancha

Nguồn bản dịch: Nghiên cứu Quốc tế

 

Sáng lập:

Nguyễn Huệ Chi - Phạm Toàn - Nguyễn Thế Hùng

Điều hành:

Nguyễn Huệ Chi [trước] - Phạm Xuân Yêm [nay]

Liên lạc: bauxitevn@gmail.com

boxitvn.online

boxitvn.blogspot.com

FB Bauxite Việt Nam


Bài đã đăng

Được tạo bởi Blogger.

Nhãn